Chương 17 - Thợ Sửa Đường Ống Nước.
Bước chân kéo lê, hiên ngang giữa đám bụi trong sân ga là của Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ, nhân viên tòa thị chính Kilmore Cove mà Rick đã gặp hôm trước. Fred chỉ nhận ra bọn trẻ khi chúng tiến tới chỗ mình.
“Này mấy cháu!” Ông chào bọn trẻ. “Ngọn gió nào đưa các cháu tới vậy? Các cháu làm gì ở đây?”
“Ồ, không có gì ạ…” Rick trả lời và giới thiệu với chú Fred hai chị em sinh đôi. “Cháu đang chỉ cho các bạn xem nhà ga cũ.”
“À, dĩ nhiên rồi.” Ông lẩm bẩm, mò mẫm trong túi quần, cái túi có vẻ sâu đến tận đầu gối, và rút ra một thanh cam thảo được cuốn trong vài tờ biên lai.
“Cam thảo không?” Ông mời.
“Không ạ, cháu cảm ơn.” Bọn trẻ đồng thanh đáp.
Fred nhét thanh cam thảo vào miệng và rút từ trong túi ra một vài món đồ kỳ quặc, ông kẹp vào nách tờ báo thể thao, cuối cùng là một chùm chìa khóa. “À, đây rồi.”
Ông đút những thứ còn lại vào túi quần với vẻ chậm rãi khiến Julia thấy cực kỳ khó chịu, rồi như thể nhận ra thêm lần nữa sự có mặt của bọn trẻ, ông hỏi: “Vậy thì các cháu làm gì ở đây?”
“Còn chú thì sao ạ?” Julia càng thêm sốt ruột.
Fred ngao ngán nhìn cánh cửa nhà ga bịt kín và khi thấy vết nứt to đùng chạy từ cửa vòm tới chỗ chiếc đồng hồ, ông nhăn trán: “Ta cần phải nhớ trát lại vết nứt kia trước khi mọi thứ đổ sập xuống.”
Ông lắc chùm chìa khóa kêu leng keng và lại gần những ổ khóa chặn lối vào. “Ta ư?” Vài phút sau, ông mới nhớ tới câu hỏi của Julia. “Ta làm công việc của mình.”
Ông bắt đầu thử rất nhiều chìa khóa cho đến khi tìm được đúng chìa. Ổ khóa bật mở, Fred tháo sợi dây xích và chống tay vào cánh cửa, như để đảm bảo rằng nó không đổ sập xuống đầu mình.
“Chú không làm việc ở Tòa thị chính sao?” Rick hỏi ông.
Fred đá nhẹ vào cánh cửa để nó mở ra vừa đủ cho thân hình gày gò của ông bước qua. “Ôi các bạn trẻ, giá mà ta chỉ phải làm mỗi việc đó… Thời buổi này, cần phải có một vài công việc làm thêm, nếu muốn sống được đến cuối tháng.”
“Chúng cháu có thể vào cùng không ạ?” Jason hỏi khi thấy ông lách mình qua cửa hệt như một con cua ẩn trong cái vỏ ốc của mình.
“Dĩ nhiên rồi.” Giọng Fred từ trong vọng ra. “Các cháu cứ vào đi!”
Cuối cùng, ba đứa trẻ đã vào được bên trong nhà ga Clark Beamish. Bước qua cánh cửa, chúng tới một sảnh rộng mênh mông, trên trần có một ô cửa sổ đón nắng khá lớn bằng kính và sắt uốn ở vị trí trung tâm. Tia sáng rọi qua mái vòm giống như từ những ô kính của một nhà thờ lớn. Ở giữa mái treo một chiếc đèn chùm đã hỏng từ lâu, vài chú chim xây tổ trên đó. Những sợi tua rua cuốn quanh chiếc đèn đung đưa như những thân dây leo.
Phía dưới, căn phòng vang lên từng tiếng khô khốc theo nhịp bước chân người. Bụi bặm nhiều năm cùng gió mưa đã phủ kín sàn đá cẩm thạch bằng một thảm hoa vàng nhỏ xíu mỏng manh.
Hàng mái vòm thanh tú bao quanh sảnh trung tâm treo những chiếc đèn hình cầu tựa những bông hoa khô. Một bên là quầy bán vé, với những ô cửa kính lớn và bao lơn bằng đá sáng màu. Phía bên kia là hàng dãy ghế băng bằng sắt uốn, phía dưới chúng, một vài cây nấm sặc sỡ đang ẩn hiện.
Đối diện với cửa vào là một cổng vòm giống y cái cổng họ vừa bước qua, dẫn đến chỗ những đường ray. Trên cổng vòm sừng sững một tấm bảng giờ tàu lớn được làm bằng sắt, họa tiết trang trí hoa lá, những sợi dây xích kêu loẻng xoẻng giữ nó thăng bằng như mặt của một sợi dây chuyền khổng lồ. Không gian sảnh nhà ga kết thúc với lối vào khu vệ sinh khá khiêm tốn và một cửa hàng có rèm đóng kín mít.
Bọn trẻ mất vài phút để quan sát tất cả những chi tiết đó, trong khi ông Fred bước từng bước chậm chạp và đều đặn về phía quầy vé. Đường rãnh trên thân cột và đường nổi trên mái vòm trông như gân những chiếc lá khổng lồ tròn trịa, trong khi thảm hoa cúc giống mẫu trang trí của người thợ đá cẩm thạch tài hoa.
“Chỗ này thật khó tin…” Jason lẩm bẩm.
“Mình cá là đã nhiều năm chẳng ai đặt chân tới đây…”
“Ngoại trừ chú ấy.”
Fred lại lần rờ đống chìa khóa để mở cửa quầy vé.
“Ai mà biết được chú ấy tới đây để làm gì…”
Đi theo ông, bọn trẻ tiếp tục say sưa ngắm nhìn xung quanh. Không khí bên trong nhà ga ấm và ẩm ướt như trong một cái nhà kính.
So với những phần còn lại của tòa nhà, quầy bán vé không có gì đặc biệt. Đó là một căn phòng nhỏ, nội thất giản dị: trên quầy đặt một cuốn sổ khổng lồ ghi chú giờ giấc các chuyến tàu, thêm một chiếc máy in vé và một chiếc ghế xoay.
“Dedalus.” Rick thì thào, cậu nhận ra cái máy in vé là sản phẩm của người thợ đồng hồ.
“Không còn nghi ngờ gì nữa.” Jason xác nhận và chăm chú ngắm nhìn đầy ngưỡng mộ dãy phím bấm tròn giống phím bấm của máy đánh chữ cổ. Mỗi phím bấm mang một âm tiết lạ lùng cùng một, hai, hay ba con số, dường như không theo trật tự logic nào cả. “Một chiếc máy khó hiểu như mọi khi…”
Phía sau lưng chúng, Julia kêu lên khe khẽ.
“Chuyện gì vậy?” Hai cậu bé quay phắt lại hỏi.
Cạnh Julia, cuốn sổ giờ tàu nhô lên khỏi quầy vé chừng vài xen-ti-mét.
“Không có gì…” Cô bé đáp. “Mình chỉ khẽ chạm vào và… nó tự bật lên.”
Rick cúi xuống ngắm nghía cuốn sổ đầy bụi và phát hiện ra nó được đặt trên một đĩa sắt màu đen, cái đĩa lại được đỡ trên một cánh tay có cấu tạo khớp nối.
“Chỉ là một cái chân đế sách rất nhạy.” Cậu vừa nói vừa nhấc cuốn sổ lên rồi ấn nó xuống, cuốn sổ giờ tàu khổng lồ bật lên trên không như thể đang lơ lửng.
Julia cười. “Phải rồi. Chỉ là một cái chân đế sách bình thường…”
Bọn trẻ nhìn quanh: Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ đã biến mất vào căn phòng thứ hai, ngay sau quầy vé.
“Dĩ nhiên là đã có những chuyến tàu khởi hành từ nhà ga này.” Jason nhận định khi thử mở tấm bìa cứng đanh của quyển giờ tàu.
Cậu thổi một lớp bụi vào mặt cô chị, rồi đọc tựa đề cuốn sổ:
GIỜ CỐ ĐỊNH CỦA TẤT CẢ NHỮNG CHUYẾN TÀU
ĐẾN/ ĐI/ NGANG QUA
KILMORE COVE
CÓ HIỆU LỰC TỪ 18/01/1936
Cậu lại giở vài trang: đầy ắp những bảng giờ tàu được sắp theo cột, sau tên của rất nhiều địa danh tàu đi qua.
Ở bên trên, mỗi bảng được đặt theo tên của nhà ga cuối hành trình, in đậm, mang số hiệu và đôi chỗ được đánh dấu bởi dòng chú thích như tàu đặc biệt, hay tàu thường, hoặc chỉ vào dịp lễ.
Nghe thấy tiếng động phát ra từ căn phòng bên cạnh, Jason rời mắt khỏi cuốn sổ và đề nghị chị cậu cùng Rick đi kiểm tra xem chú Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ đang làm gì.
Bọn trẻ tìm thấy ông đang chui đầu vào một cái hốc rất to trên tường. Khi nhận ra sự xuất hiện của bọn trẻ, Fred có vẻ không vui.
“À, hóa ra là các cháu. Xin lỗi, nhưng… ta nghĩ có một vài vấn đề.”
“Chú đang làm gì vậy?” Rick tò mò hỏi.
Đó không hẳn là một cái hốc, nó giống một cái tủ điều khiển gồm đủ loại ống, được nối với nhau nhờ những nút thắt và van khóa xanh đỏ.
Kỳ thực, căn phòng đó là trung tâm điều hành của nhà ga. Chiếm phần lớn căn phòng là một mô hình bằng thép màu đen với một đường rãnh nằm ngang mô phỏng đường ray xe lửa. Nối vào đường ray chính này là rất nhiều những đường ray khác tỏa ra hai hướng, tất cả đều được đánh số. Ở điểm nối các đường ray nhô lên mô hình ghi đường sắt[6], hoạt động nhờ một cần gạt nhỏ màu đỏ.
Rõ ràng nó là một trạm điều khiển kiểm soát tất cả những chỗ bẻ ghi trong làng.
“Thật may là ở đây chỉ có một đường ray…” Jason lắc đầu lẩm bẩm. Cậu thấy cỗ máy phức tạp đó không cân xứng với nhà ga của ngôi làng nhỏ bé nhường này, cả bảng thông báo giờ khởi hành, xuất phát và cuốn sổ giờ tàu cũng to lớn một cách vô ích.
Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ quay về phía bọn trẻ, lau giọt mồ hôi nhỏ xíu trên trán.
“Đừng nói điều đó với ta…”
“Nhưng chính xác thì chú tới đây để làm gì ạ?” Julia không kiềm chế nổi nữa.
Fred chỉ cho cô bé những đường ống trong tường và bình thản đáp: “Để quay mấy cái van này, cháu thấy không?”
“Nhưng… tại sao ạ?”
“Vì nếu không phải ta làm thì ai sẽ làm đây?”
Bọn trẻ nhìn nhau phân vân.
“Nhưng vặn van đường ống để làm gì ạ?”
Fred gãi gãi một bên tai. “Thú thực ta cũng không rõ. Ta chỉ biết cứ hai lần mỗi tuần ta phải tới để vặn tất cả những cái van ở đây. Những cái màu đỏ phải đóng lại, còn những cái màu xanh phải mở ra.”
“Trông chúng giống như ống nước.” Rick tò mò nhận xét. Cậu áp tai vào đó và nói: “Theo cháu, chúng chính xác là những ống nước.”
Julia phân vân hơn cả. “Vậy là, cứ hai lần mỗi tuần chú tới đây để vặn van… rồi lại đi.”
“Đó là công việc của ta.”
“Nhưng chú không biết tại sao mình phải làm thế?”
“Nếu vì vấn đề này thì đa số mọi người đều ở trong tình trạng của ta.”
“Cháu xin lỗi vì hơi dai dẳng, nhưng ai giao cho chú công việc này ạ?”
Fred thở dài. “À, ông Black đã giao cho ta trước khi ông ấy ra đi.”
“Chú biết ông Black sao?” Bọn trẻ sững người.
“Dĩ nhiên rồi.”
“Và… ông ấy nói với chú cả chuyện mình đang đi đâu chứ?”
“Thú thực… có lẽ là như vậy, nhưng ta không nhớ chính xác.” Fred trầm ngâm.
“Chú cố nhớ đi!”
Fred lê chân trên mặt đất, phiền muộn vì lỗ hổng trong trí nhớ của mình.
“Ôi mấy đứa, đã nhiều năm trôi qua rồi!”
“Điều đó rất quan trọng với chúng cháu…”
Fred dựa người vào tường và ngáp.
“Thôi cũng được, ta có thể nghỉ ngơi một lát.” Ông quyết định. “Các cháu hỏi ta về ông Black phải không? Vậy thì để ta nghĩ xem nào…”
Rick, Julia và Jason im lặng lắng nghe tiếng ngón tay của chú Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ gõ gõ trên bề mặt sắt.
“Trước khi đi,” người đàn ông bắt đầu kể khi bọn trẻ sắp mất kiên nhẫn, “ông Black đã đến văn phòng ở dưới làng. Lúc ấy, tất cả chúng ta đều biết nhà ga phải đóng cửa. Vì vậy với ta, việc trưởng ga ra đi không phải là tin mới. Làm thế nào để làm việc với những chiếc tàu hỏa khi không còn lấy một cái?”
“Đúng vậy.” Bọn trẻ đồng thanh hưởng ứng.
“Ông ấy nói với ta rằng: ‘Nửa Tỉnh Nửa Mơ, bạn của ta.’ Vì bọn ta là bạn đã rất lâu rồi. Chúng ta đã đi học cùng nhau. Thực sự là tất cả chúng ta đã đi học cùng nhau, vì vào thời ấy, không có nhiều trẻ con lắm… Tóm lại, ông ấy nói là ‘bạn của ta ơi’ và đề nghị ta giúp ông ấy một việc. Vì ông ấy bỏ làng ra đi nên cần ai đó đến làm công việc với mấy cái van này. ‘Mỗi tuần hai lần’ – ông ấy nói vậy. Một việc chỉ mất có năm phút. Tiền công đã được trả trước, vì ông ấy biết ta và biết rằng ta sẽ làm việc đó. Ta trả lời rằng ta rất bận rộn với công việc ở phòng lưu trữ tài liệu của Kilmore Cove và ông ấy nói sẽ trả cho ta tám đồng bảng Anh mỗi tháng. Ta đã trả lời: ‘Đồng ý.’ Và chúng ta đã kết thúc thỏa thuận ở một quán rượu.”
Bọn trẻ im lặng lắng nghe.
“Rồi ta hỏi ông ấy: ‘Ông bạn già, bao giờ anh đi?’ Và ông ấy trả lời rằng sẽ ra đi vào sáng hôm sau, à không, buổi trưa, giờ thì ta nhớ rồi. Bằng chuyến tàu trưa.”
“Bằng chuyến tàu trưa ư?”
“Ừ, phải rồi.” Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ khẽ đáp. “Ông ấy nói chính xác như vậy: Bằng chuyến tàu trưa.”
“Nhưng đường tàu đã bị dừng hoạt động rồi cơ mà?”
“Cháu có lý đấy, chàng trai.” Fred nói. “Chẳng có chuyến tàu nào qua đây vào buổi trưa. Buổi sáng cũng vậy. Vì điều đó mà cuối cùng ông ấy phì cười… Ông ấy trêu ta. Khỉ thật! Và ta thì cứ nghĩ rằng ông ấy sẽ ra đi bằng tàu…” Nửa Tỉnh Nửa Mơ chống cả hai tay lên đầu gối trong tư thế hệt như một con nhện khổng lồ. “Ông ấy quả là đã chọc ta kha khá, ông già Black. Đi bằng tàu cơ đấy!”
“Có thể ông ấy đã bắt một chuyến tàu đặc biệt?” Julia đưa ra giả thuyết.
“Nhưng bằng cách nào?” Jason nói. “Ở phía đó, những đường ray kết thúc trong đường hầm.”
“Thế còn bên kia?”
Bọn trẻ quay về phía Fred.
“Chú có biết những đường ray đi về phía Crookheaven kết thúc ở đâu không ạ?”
“Ồ, có chứ: nó kết thúc ở Crookheaven.” Ông già trả lời. “Chúng chạy vào rừng và dừng lại ở đó. Có vài chỗ chuyển ghi, ta tin là thế, nhưng tất cả những đường ray đều cụt. Ta và anh trai thường đi dọc những đường ray để hái nấm.”
“Như vậy là không có chuyến tàu nào cả.”
“Đúng thế. Thực sự chẳng có chuyến tàu nào. Một trò đùa hay ho…” Fred lắc đầu. “Dẫu vậy, ta vẫn nhớ rõ như thể chuyện mới xảy ra ngày hôm qua, cũng bởi vì… trưa hôm ông ấy ra đi, ta có nghe thấy tiếng chuông báo hiệu tàu đi qua, và việc này hằn sâu trong trí nhớ ta, các bạn trẻ ạ! Ông Black còn đưa thêm một đồng bảng Anh để ta làm một việc nữa.”
“Việc gì ạ?”
“Ta chỉ phải làm có một lần duy nhất. Và nó phức tạp hơn việc vặn van một chút. ‘Hơn một chút thôi,’ ông ấy nói. Ta phải đặt lại những ghi đường sắt ở trạm điều khiển vào vị trí cũ… tắt chúng đi bằng cách kéo cần gạt này lên. Như thế này…”
Fred gạt nhẹ tay đòn điều khiển rất nhiều ghi đường sắt và trạm điều khiển phát ra những tiếng cách cách nho nhỏ.
“Rõ rồi.” Jason nói. “Và khi chú tắt nó đi… chú có thấy trên ga còn chuyến tàu nào không ạ?”
“Ồ, không…” Fred nhớ lại. “Đã không còn chuyến tàu nào từ nhiều năm. Có mỗi một con số, ở đây…”
Đoạn, ông chỉ cho bọn trẻ thấy khoảng không hình chữ nhật nằm dưới mô hình đường ray.
“Con số nào cơ ạ?” Jason hỏi.
Fred mỉm cười. “Không biết cháu có tin hay không, nhưng ta biết là trước hay sau cũng sẽ có người hỏi ta câu hỏi này. Người ấy sẽ hỏi ta rằng: ‘Này, Fred, anh có nhớ con số trên trạm điều khiển của nhà ga Clark Beamish, khi anh tắt nó đi không?’”
“Vậy chú có nhớ không?”
Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ nở một nụ cười ranh mãnh. “Ta có một trí nhớ rất tốt, các cháu biết không? Và chính vì có trí nhớ tốt nên ta thường không viết ra. Nhưng con số đó là một ngoại lệ.”
Ông mở cái ví nhàu nát của mình và sau khi xới tung đống giấy tờ lộn xộn, ông lôi ra một mẩu giấy mà thời gian đã làm nó bóng lộn và nhạt nhòa.
“Khỉ thật…” Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ lẩm bẩm, giơ mẩu giấy ra ánh sáng. “Không còn nhìn rõ nữa. Dường như là… 1374?”
Bọn trẻ say sưa nhìn trạm điều khiển ghi đường sắt.
“Đó có thể là số hiệu của một chuyến tàu?” Jason đoán.
“Em thực sự nghĩ rằng ông Black đã ra đi bằng tàu ư?” Julia thì thầm. “Nghe này, việc đi tàu mà không có đường sắt thì quả là khó…”
“Khoan đã các cháu!” Người nhân viên Tòa thị chính bỗng thốt lên. “Nhờ các cháu ta mới nhớ ra, trên bảng thông báo giờ khởi hành ở ngoài kia đã viết cái gì đó.”
“Cái gì ạ?”
Fred bồn chồn gãi đầu.
“Viết là… viết là…”
Cứ mỗi cố gắng của Fred, bọn trẻ lại rướn người về phía trước như thể điều đó sẽ giúp ông gợi lại ký ức.
“À, phải rồi!” Nửa Tỉnh Nửa Mơ cuối cùng cũng reo lên. “Có dòng chữ: Chặng cuối cùng Kilmore Cove.”
“Chặng cuối cùng Kilmore Cove…” Bọn trẻ đồng thanh nhắc lại và ngắm nhìn trạm điều khiển.
“Và ở trên này có con số 1374.” Jason bổ sung, cậu dựa tay lên chỗ có rất nhiều ghi. “Thế còn những cái này? Những cái ghi lúc trước được đặt thế nào ạ?”
“Ồ, các bạn trẻ… giờ các cháu muốn biết nhiều quá rồi đó! Ta không thể nhớ nổi đâu!” Người đàn ông cằn nhằn. “Giờ thì làm ơn, hãy để ta hoàn thành công việc của mình. Được chứ?”
“Vâng ạ…” Bọn trẻ lí nhí, không được thuyết phục cho lắm.
Fred chui đầu trở lại cái hốc đầy những đường ống với sự đủng đỉnh đến sốt ruột, ông bắt đầu quay những cái van xanh đỏ.”
Bọn trẻ nhìn nhau. Rồi Julia với tay về phía cần gạt chỉ huy trạm điều khiển của nhà ga và kéo nó. Mô hình bằng sắt đen rung chuyển, phát ra tiếng ro ro nhè nhẹ.
“Nó đang hoạt động.” Cô bé nói.
“Các cháu vừa nói gì cơ?” Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ hỏi, đầu ông vẫn mắc trong hốc ống nước.”
“Không có gì, không có gì ạ!” Bọn trẻ mau miệng trả lời.
Những con số trên các đường ray sáng lên thứ ánh sáng màu đỏ, cả cần điều khiển việc bẻ ghi cũng bật sáng.
Rick đặt tay vào một cái ghi nhỏ xíu đã bắt đầu quay làm chạy những con số trên bốn ống trụ nhỏ bằng sắt. Trong phút chốc, hiện ra số 1374.
Và từ sảnh lớn của nhà ga, một tiếng động vang lên.
Bọn trẻ nhào ra, băng qua quầy vé và phát hiện tiếng động đó là do tấm bảng thông báo giờ khởi hành và giờ đến đã hoạt động. Một vài ống kim loại đã bắt đầu tự xoay vòng để thông báo giờ chính xác. Sau đó tấm bảng dừng lại, với tất cả những dòng chữ màu đen, như thể chờ đợi mệnh lệnh.
“Giờ thì làm gì đây?” Jason hỏi.
Julia nghĩ ngợi một lát rồi trở lại quầy vé. Cô bé ngồi xuống cái quầy gần cuốn sổ giờ tàu khổng lồ, nhìn Rick và em trai đầy phân vân. “Nơi này làm mình cảm thấy hơi căng thẳng. Các cậu không thấy sao?”
“Có lẽ chúng ta phải khám phá cho xong đã.”
“Sau tất cả, chúng ta vẫn chưa nhìn thấy căn hộ của Núi Lửa Đen. Nó ắt hẳn phải ở đâu đó trên này.”
“Cậu có nhìn thấy cầu thang không?”
“Không. Có lẽ phải vào từ bên ngoài.”
“Chúng ta hãy hỏi chú Fred.”
“Có lẽ chính chú ấy đã khiến mình căng thẳng.” Julia nói rõ. “Chú ấy chậm đến mức làm mình sốt cả ruột.”
“Nhưng đó là người cuối cùng đã gặp Núi Lửa Đen ở Kilmore Cove!”
“Và cũng là người mà Núi Lửa Đen giao phó một nhiệm vụ.”
“Mà dường như là hoàn toàn vô ích…”
“Như thể chú ấy điều khiển một loại hệ thống đường ống nước…” Rick tiếp tục. “Có thể nó nối với bể chứa nước trên đường ray.”
Jason lại gần cái máy in vé, lần mò giữa những phím bấm tròn trịa đánh dấu các con số từ 1 đến 10 và những chữ cái kết hợp kỳ lạ: TP, SH, CR, VA, IO…
“Ê này Rick,” cậu gọi, “thử xem cậu có hiểu được gì không…”
Cậu bé tóc đỏ cùng Jason nghiên cứu bàn phím hồi lâu trước khi đầu hàng.
“Mình thấy nó hoàn toàn bất hợp lý,” cậu bình luận. “Nhất là mấy con chữ này.”
“Có thể chỉ là chữ viết tắt của những chuyến tàu.” Julia đánh bạo.
“Nhưng làm thế nào để hiểu được?”
“Có thể bằng con quái vật này?” Cô bé đẩy về phía hai cậu bé cuốn sổ giờ tàu to đùng.
Rick tóm lấy cuốn sổ và bắt đầu lật giở. Jason đã ngó qua trước đó, cậu chỉ cho Rick cách nó được sắp xếp như thế nào: “Phía trên có chỉ dẫn điểm đến, rồi số hiệu tàu và bên dưới là tất cả giờ của…”
“Cậu thử tìm điểm đến là Kilmore Cove xem sao.” Julia đề xuất.
“Nhưng tại sao?”
“Nếu tấm biển thông báo giờ khởi hành viết rằng Chặng cuối cùng Kilmore Cove, có nghĩa là chuyến tàu có lộ trình tới Kilmore Cove.”
“Tại sao không nhỉ?” Jason và Rick nhìn nhau.
Chúng giở những trang giờ tàu làm bụi bặm bay lên và dây mạng nhện ra khắp nơi.
“Đây, những chuyến tàu tới Kilmore Cove đây rồi!” Jason reo lên.
“Hai trang lận.” Rick nói, kiểm tra cả trang tiếp theo.
“Tàu Ngắm Cảnh Miền Nam 3458, tới từ… Zennor, và cái này. Số 1974.”
“Tới từ đâu?”
“Không có chặng dừng được đánh dấu trên bảng giờ,” Rick quan sát. “Hay, đúng hơn là chúng đã bị xóa hết.”
“Xóa hết ư?”
“Bằng mực màu đen.”
Rick giơ trang sách ra chỗ sáng, cố luận ra cái gì đó qua những dòng dày đặc phủ kín trang giấy.
“Hình như mình nhìn thấy… Khu vườn của Gianni.”
“Khu vườn của Gianni?”
“Khu vườn của Gianni.” Jason khẳng định. “Còn ở dưới này: cái gì đó Shamrock.”
“Đồi Shamrock.” Rick suy luận. “Những ngọn đồi ở chỗ đường hầm. Vậy thì từ này là Crookheaven, đầu bên kia của những đường ray.”
“Còn điểm dừng này có thể là R… Công viên Rùa?”
“Có vẻ là một kiểu tàu điện ngầm của địa phương.” Julia nhận xét.
“Ngoại trừ việc không có đường sắt ở Công viên Rùa.” Rick bình luận. “Nó ở phía trên cơ.”
Julia ra khỏi ghế và cùng với hai cậu bé bắt đầu quan sát trang giấy bị gạch xóa.
“Là cái này.” Vài giây sau, cô khẳng định.
“Cái này là cái gì?”
“Chuyến tàu mà ông bạn của cậu nói với chúng ta.”
“Chú ấy không phải bạn mình.” Rick phản bác.
“Chú ấy nói với chúng ta là 1374, nhưng tờ giấy đã bị nát. Cũng có thể là 1974 lắm chứ, các cậu không thấy sao?”
“Cũng có thể…” Cậu em lẩm bẩm. “Thì sao?”
“Mình không biết. Nhưng chúng ta có thể viết con số này lên trung tâm điều khiển.”
“Để mình,” Rick nhận trách nhiệm, rồi cậu trở lại ngay sau đó. “Xong. Nhưng chúng ta cần phải đi thôi. Chú Nửa Tỉnh Nửa Mơ chắc đã xong việc với những cái ống. Và ngay khi thò đầu ra khỏi cái hốc đó, chú ấy sẽ phát hiện ra bọn mình đã khởi động lại tất cả.”
“Vậy thì nghĩ ra một ý tưởng nào đó đi!”
Một lần nữa, Julia tỏa sáng: “Mình sẽ nói rằng bọn mình thử in vé.”
“Nhưng như thế nào?”
“Có những con số và chữ viết tắt đặc biệt, được viết trên sổ giờ tàu phải không?”
“Có số 1974 và có lẽ còn… cái gì đó… nhưng đã bị xóa bỏ. Theo mình… đó là… một chữ C. Nó bắt đầu bằng chữ C.”
Julia đứng trước bàn phím và thở dài: “Chúng ta thử xem. Mình sẽ bắt đầu với số hiệu chuyến tàu, như trên cuốn sổ đã ghi.”
Cô bé đặt ngón tay lên phím số 1 và ấn. Cái phím thụt xuống cùng với âm thanh khô khốc, rồi ở nguyên vị trí đó.” Julia nhìn Rick rồi tiếp tục.
“Một ngàn chín trăm bảy mươi bốn,” cô vừa nói vừa ấn liên tiếp phím 9, 7 và 4, tất cả chúng đều bị kẹt lại.
“Nó giống một dữ kiện thời gian hơn là chuyến tàu.” Jason nói.
“Giờ cậu tìm chữ C đi.” Rick thúc giục cô bé.
Julia nhận mặt nhanh các phím bấm rồi lắc đầu quầy quậy. “Không có.”
“Sao lại không có?”
“Chỉ có chữ viết tắt CL.”
Rick thử đọc lại chữ viết trên cuốn sổ giờ tàu. “Mình không biết, không biết nữa… Cậu thử ấn phím CL xem sao, đằng nào ở đây cũng chẳng hiểu gì.”
Julia ấn và phím đó cũng kẹt lại giống như những phím khác.
“Mình nghi chiếc máy này bị hỏng,” cô bé bày tỏ thất vọng. “Giờ các cậu muốn mình ấn gì đây?”
“1974, CL…” Jason bắt đầu cao giọng nhắc lại. “1974, CL…”
Rick tiếp tục nghiên cứu cuốn sổ giờ tàu một cách vô vọng.
“VB? TR? OE? AA?” Julia đọc những phím bấm còn trồi trên bàn phím.
“Có phím IO không?” Jason đột nhiên hỏi, như thể trong đầu cậu vụt lóe sáng một ý tưởng.
Julia mất vài giây để tìm kiếm. “Có. Nhưng tại sao?”
“CL-IO.” Jason nói. “Không phải chị gái bà Biggles tên như vậy sao?”
“Clitennestra Biggles.” Rick trả lời. “Gọi tắt là Clio. Đúng. Họ gọi bà ấy như vậy!”
“Mình thử nhé?” Julia hỏi.
“Cậu thử đi.”
Julia ấn chữ IO. Cái máy lại phát ra âm thanh khô khốc lần cuối và đồng loạt nhả tất cả phím bấm được ấn từ đầu đến giờ.
Rồi một tiếng động như tiếng dòng nước xoáy vang lên và một tờ giấy bị hút vào phía sau cái máy, sẵn sàng để được in ra.
“Không ổn rồi.” Julia nói, sau vài giây háo hức chờ đợi.
“Thiếu cái gì đó chăng?”
“Bọn mình đã ấn số hiệu chuyến tàu, mã số… sao mình biết được?”
“Số 3.” Rick nói.
“3 cái gì?”
“Cậu hãy ấn số 3. Có lẽ nó muốn biết số hành khách.” Cậu đánh bạo.
Julia ấn phím số 3. Phím bấm bị kẹt lại trong vài giây rồi nảy lên và cái máy kêu ro ro. Tất cả diễn ra trong khoảng thời gian cần thiết để nhả ra một tờ giấy hình chữ nhật, có đường viền thanh lịch theo phong cách tự do, trên đó có viết:
LÀNG KILMORE COVE – Nhà ga Clark Beamish
Vé cho chuyến tàu đặc biệt – CLIO 1974 – Chuyến tàu của tuổi trẻ vĩnh hằng
Thời hạn: chỉ hôm nay
Số lượng hành khách: 3
Chi tiết về điều kiện lên tàu xin mời xem trên bảng thông báo hoặc tại quầy thông tin.
“Tuyệt vời…” Julia thì thầm, cô bé ngây ngất trước tấm vé hình chữ nhật vừa được in. “Giờ thì sao?”
Từ phòng bên kia, Fred Nửa Tỉnh Nửa Mơ hét lên.
“Giờ chúng ta phải tới xem chuyện gì đang xảy ra ở đó!”