← Quay lại trang sách

London Ký ức những ngày xuân hạ thu đông

(Trích những bức thư gửi từ bờ Bắc sông Thames)

Tôi sinh ra ở làng quê. Rồi một ngày tôi rời cái làng nhỏ xíu của mình ở ngoại thành Hà Nội và chuyển tới một ngôi làng toàn cầu, to và rộng hơn có tên là London.

Trong những năm qua London đã thành nơi tôi sống và viết với tất cả yêu thương, nhiệt huyết và ước mơ của tuổi trẻ. Bài viết này là những trích đoạn ngắn trong những lá thư tôi gửi cho người yêu, cho bạn bè và cho chính mình để mong lưu giữ những ký ức đẹp về London khỏi trôi theo gió mây ngàn.

Tháng Ba - mùa xuân đầu tiên

Tôi đang viết cho bạn từ bờ Bắc sông Thames, để tôi kể cho bạn nghe mùa xuân xứ này có gì lạ.

Mùa xuân nước Anh đến thật khẽ, từ khi những bông hoa chuông tuyết bắt đầu nhú ra khỏi mặt đất còn lớm chớm tuyết những ngày tháng giêng trên đồi Hampstead, đến tháng hai lác đác những bông hoa anh thảo. Rồi dường như chỉ trong nháy mắt tới những tuần cuối tháng ba, hoa anh đào đã nở trắng trên đường tôi đi học, và thủy tiên vàng rực khắp ven hồ công viên St James’s Park. Đợi một chút thôi nhé sẽ thấy bạt ngàn hoa chuông xanh, hoa cốc bơ, hoa bồ công anh vàng óng ả. Trong rừng, lũ sóc bắt đầu nhảy múa trên những cây sồi già. Và dòng sông mùa xuân miệt mài chảy!

Ở xứ lạnh, mùa xuân đến thường làm con người cởi mở và thân thiện hơn. Không còn thấy nhiều khuôn mặt lạnh lùng, cau có và những dáng người co ro trong chiếc áo dạ sù sụ của mùa đông nữa. Những nếp nhăn trên mặt giãn ra, ánh mắt hồ hởi và lấp lánh. Những quán cafe ngoài trời bắt đầu đông khách. Trong quán rượu Wilmington Arms gần bến Angel, người ta vui vẻ hỏi nhau về kết quả của trận bóng ngày Chủ nhật.

Tôi sẽ không bao giờ quên được buổi chiều này, ngồi nhâm nhi một cốc café nóng trong quán Gallipoli trên phố Upper Street, thấy mùa xuân tràn ngập trong lòng. Tôi cũng sẽ không quên những ngày mùa xuân lặn lội đi hái nấm ở rừng Epping phía Đông thành phố hay một buổi chiều gió thổi se se nhân ngày lễ Phục sinh bắt tàu xuôi về phía Tây tới vườn bách thảo Kews ngắm hoa chuông xanh. Dưới những tán sồi cổ thụ, khắp mặt đất ngút ngàn một thảm hoa chuông mơ màng, để rồi khi về nhà vẫn thấy biêng biếc cả những giấc mơ.

Tháng Sáu ngày mưa

Chiều mùa hè trời London đột ngột đổ mưa, cũng may chỉ mưa có chút xíu rồi tạnh. Sau cơn giông, trời quang và hơi hửng nắng. Gần nhà thờ St Paul’s vừa mới xuất hiện một chiếc đàn piano rất sặc sỡ, tôi đoán là một dự án nghệ thuật đường phố mới có tên “Street Pianos”. Tôi đứng lại nghe họ đàn một lúc, một cô gái giọng trong veo hát “Part of your world”, rồi đi vòng lên cầu Millenium. Cây cầu này còn có tên gọi đáng yêu khác là “Wobbly Bridge” được xây dựng vào năm 2000 để nối liền thánh đường Saint Paul cổ kính bên bờ Bắc và bảo tàng nghệ thuật hiện đại Tate Modern ở bờ Nam; “Wobbly Bridge” thường được ví như một sợi dây nối liền quá khứ và hiện tại của London.

Tôi không nhớ là trong những năm qua, tôi đã đi dạo trên con đường ven sông này bao nhiêu lần, mà lần nào cũng thấy rất cảm xúc. Khi đi xa, tôi có viết tôi nhớ London, cũng là nhớ cái góc nhỏ này với con sông đục ngầu màu đất. Cuối ngày, mây dồn ứ về trên mái vòm nhà thờ, phía xa rơi rớt một ráng chiều tím lịm. Tôi trốn vào bảo tàng Tate xem tranh Picasso rồi lên quán café trên tầng bảy nơi có thể ngắm nhà thờ St Paul và quang cảnh phía bờ Bắc London qua cửa kính. Ngoài kia, dòng Thames trôi mờ như một ảo ảnh.

Tháng Mười - bình minh đầy sương

Mùa thu thứ ba ở London, tôi đã thấy quen thuộc với những góc phố dịu dàng, những nếp nhà nhỏ xinh với những lẵng hoa treo quyến rũ, những khu vườn ngập tràn hoa hồng nước Anh, con sông êm đềm chảy, hàng cây đến mùa thay lá và những tháp chuông kiêu hãnh trên vòm trời xanh thẳm.

Sớm mùa thu, tôi dậy từ năm rưỡi sáng bắt chuyến tàu đầu tiên trong ngày đi đón mặt trời. Ra khỏi nhà, trời vẫn tối đen như mực, sương thu ướt những con đường ngập lá.

Khi đến sông Thames, trời bắt đầu xanh hơn. Màn đêm lui dần và bình minh từ từ hé rạng. Tôi đứng trên cầu Golden Jubilee đợi mặt trời lên, ngắm những chú chim hải âu bay lướt trên mặt nước tĩnh lặng. Phía xa tháp chuông Big Ben chìm trong sương và nắng, đẹp huyền ảo như trong cổ tích. Trên cầu Waterloo, những chiếc xe bus đỏ hai tầng nối đuôi nhau chạy vào thành phố trong khi đoàn kị binh với mũ áo chỉnh tề đang nhịp bước trên cầu Westminster hướng về phía Whitehall.

Tôi vấn vương nhớ lại Ella Fitzgerald đã da diết hát về London một ngày đầy sương,

“A foggy day in London Town

Had me low and had me down

I viewed the morning with alarm

The British Museum had lost its charm

How long, I wondered, could this thing last?

But the age of miracles hadn’t passed,

For, suddenly, I saw you there

And through foggy London Town

The sun was shining everywhere”.

Một ngày mù sương ảnh thành phố London

Khiến em man mác, khiến em u buồn

Buổi sáng ấy em ngắm nhìn trong thổn thức

Bảo tàng anh chẳng còn nét yêu kiều

Sẽ kéo dài bao lâu, em muốn biết

Những ngày kỷ niệm vẫn chưa khép lại đâu

Vì đột nhiên, em thấy người nơi đó

Và qua lớp sương mù phủ kín London

Em thấy một vầng dương rực rỡ, đang chiếu rọi khắp muôn nơi.

Tháng Mười hai - mùa đông ấm

London bắt đầu lạnh rồi, ngoài phố thấy dân tình choàng lên áo khoác, rồi khăn, rồi mũ; ai cũng lạnh lùng và vội vã. Ở London đôi khi thấy những ngày mùa đông u ám thật dài. Nhưng mùa đông cũng là mùa lễ hội, vào tháng Mười hai, chợ Giáng sinh bắt đầu mở trải dài dọc theo South Bank. Cả khu chợ lấp lánh sắc màu, rộn ràng tiếng cười nói, phảng phất trong không khí là mùi thơm của bánh quy nướng, của rượu vang nóng nồng nàn quế và hồi. Tôi yêu không khí tưng bừng của đêm giao thừa ở London tay trong tay với người mình yêu trên quảng trường Trafalgar, đợi thời khắc thiêng liêng nhất trong năm, ngắm pháo hoa bừng lên trên nền nhạc hùng tráng của bản Chariots of Fire.

Mùa đông này là mùa đông thứ tư của tôi ở xứ lạnh này, nơi nhiều mưa ít nắng. Trong những mùa qua, tôi đã miệt mài khám phá những góc nhỏ bí ẩn mà quyến rũ của thành phố. Từ làng Crouch End thi vị ở phía Bắc cho tới khu Forest Hill xinh đẹp ở phía Nam với bảo tàng động vật kỳ thú Horniman ít người biết tới, từ vùng Hampton Court thơ mộng ở phía Tây với lâu đài Hampton Court Palace tráng lệ gắn liền cùng cuộc đời đầy biến động của Vua Henry thứ VIII, cho tới ngôi làng Rotherhithe cổ kính ở phía Đông với quán Mayflower - quán rượu cổ nhất trên dòng Thames nơi khi xưa thuyền trưởng Christopher Jones bắt đầu chuyến viễn du tới Tân Thế giới.

Tôi đã say mê tìm hiểu London như cách người ta tìm hiểu người mình yêu. Từ những buổi ban mai sương lạnh mỏng manh như khói dạo bước trên vạt cỏ băng giá trong công viên Richmond tới những lần đạp xe qua cầu Tower Bridge giữa màn đêm huyền bí như nhung, cứ ngỡ như đang đặt chân vào một lâu đài cổ kính.

Từ những ngày mùa xuân xanh mơn man bên hồ Serpentine tới những ngày mùa thu vàng óng trên đồi Primrose. Từ buổi chiều mùa hè đi xem kịch “Hamlet” ở nhà hát Shakespeare’s Globe cho tới một ngày đông lạnh giá viếng thăm nghĩa địa Highgate, nơi có ngôi mộ Karl Marx im lìm trong sự yên tĩnh tựa như ngàn đời.

Ngày hôm nay tôi đang ngồi viết những dòng này trong căn phòng nhỏ bé của mình nhìn ra sông Thames êm đềm, con sông “được yêu nhất trong số những đứa con của đại dương”. Để một mai giữa những thành phố lạ, nhắm mắt lại tôi thấy mình đang trên cầu Westminster. Gió. Và ngoài xa bóng chiều đang lặn xuống trên dòng Thames lặng ngắt!

Ngoài kia mùa xuân đang đi ngang cửa!