← Quay lại trang sách

Lặng lẽ mùa đông Edinburgh

Có những thành phố khiến ta yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên. Với tôi, Edinburgh là một nơi như thế!

Bước ra khỏi ga Waverly, thấy trước mắt sừng sững tượng đài Walter Scott cổ kính, xa xa trên đỉnh đồi, lâu đài Edinburgh kỳ vĩ theo năm tháng, những mệt mỏi của một chuyến tàu dài tan biến đi mất, tôi để bản thân lặng lẽ hòa mình trong sự yên bình của thành phố phương Bắc này. Edinburgh. Mùa đông. Gió. Tuyết. Lâu đài. Sự mịn màng trên những chiếc áo len cashmere. Màu kẻ ô xanh trên những chiếc váy caro. Điệu kèn túi văng vẳng. Và những tháp chuông nhà thờ cao vút tạc trên nền trời xám. Có lẽ nào tôi không yêu cho được?

Không ồn ào lộng lẫy, không khoa trương cầu kỳ, Edinburgh cuộn mình trong vẻ đẹp thâm trầm của quá khứ. Những phiến đá trầm ngâm nhuốm màu thời gian nhắc tôi biết rằng đây không phải một thành phố trẻ. Trong phút chốc, tôi có cảm giác như mình đang trên tàu trở về những thời xa xăm nào ở một thị trấn xưa lắm. Edinburgh tôi đến hôm nay có lẽ không khác gì lắm với Edinburgh thế kỷ XIX trong những tiểu thuyết của Scott hay Edinburgh những năm 1776 khi nhà kinh tế học mà tôi yêu thích Adam Smith viết cuốn “Của cải của các quốc gia”.

Như muôn vàn các thành phố khác ở châu Âu, khu trung tâm lịch sử của Edinburgh được chia làm hai bởi khu vườn Princes Street. Nhìn về hướng Nam là lâu đài Edinburgh cùng với khu phố cổ (Old Town) kéo dài xuống cung điện Holyrood. Nhìn về phía Bắc là phố Princes và khu phố Mới (New Town) được thiết kế từ năm 1766 bởi một kiến trúc sư trẻ James Craig khi ấy mới 27 tuổi.

Nếu như khu phố Mới có đặc trưng là những tòa nhà mang kiến trúc Georgian với khung cửa sổ cao thanh thoát thì khu phố cổ được ví như hình xương cá nhờ con đường Royal Mile nằm ở chính giữa, tỏa ra hai bên sườn là những ngách rộng chỉ vài feet 1*, dẫn vào những ngôi nhà nhỏ thoai thoải trên sườn đồi. Trên đỉnh đồi tọa lạc cung điện Edinburgh uy nghi, được xây dựng trên một ngọn núi lửa đã không còn hoạt động từ hàng trăm năm trước. Nơi chứng kiến sự thăng trầm của biết bao bậc quân vương trong các chương về lịch sử Scotland từ thời Trung Cổ đến hiện đại từng có lúc được biến thành nhà tù trong cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất rồi ngày nay trở thành điểm hút khách du lịch số một của xứ này.

1* 1feet bằng 0,3048m.

Bước xuống từ lâu đài, tôi lạc bước giữa những ngõ nhỏ vòng vèo của Edinburgh, để mình rẽ tình cờ vào những quệt, những ngách, những hẻm, mỗi nơi lại mở ra một khung cảnh đầy màu sắc điện ảnh: vài ngôi nhà im lìm như thiêm thiếp ngủ, những viên gạch cũ kỹ lặng im không nói, dăm khóm hoa trước hiên nhà trơ trụi, sương tím lại trong góc chiều mùa đông xám xịt. Mùa đông trầm lắng và u hoài xứ này khiến người ta có cảm giác muốn cuộn mình hơn bao giờ hết. Trên phố, những nhóm du khách vội vàng kéo nhau vào một quán pub nhỏ tránh cái giá lạnh cuối ngày, vài khách bộ hành vội vã tới bến xe bus. Gió lạnh thêm, con đường vắng hơn dưới ngọn đèn vàng vọt và ánh trăng yếu ớt.

Có một giây phút nào đó trong cuộc đời, bạn cảm giác như được trên cỗ máy thời gian trở về quá khứ không? Tôi nghĩ rằng trong buổi tối hôm đó, tôi đã có cảm giác sống trong hoài niệm như thế. Cứ như thể chỉ đâu đó thôi, có thể tôi đã nghe tiếng xe ngựa chạy lộc cộc trên con đường đá gập ghềnh và từ đó bước ra một Robert Burns, một John Adams 2*; hay có lẽ nào ngài William Bruce 3* đang mỉm cười với tôi từ trong cung điện Holyrood?

2*John Adams (1721 – 1792): kiến trúc sư Scotland. Robert Burns (1759-1796): Thi hào người Scotland.

3* William Bruce (1630-1710): Kiến trúc sư người Scotland, người sáng lập ra phong cách kiến trúc cổ điển ở Scotland, là người thực hiện việc tái thiết cung điện Holyrood vào những năm 1670.

Trong những tour quảng cáo về Edinburgh, người ta thường nhắc nhiều tới ba chữ “castle, tartan haggis”. Castle là để chỉ lâu đài hoành tráng xứ này; tartan là những chiếc khăn kẻ đặc trưng của Scotland bày bán đầy trong các cửa hàng lưu niệm; còn món haggis truyền thống được làm từ nội tạng cừu nhồi cùng hành tây, bột yến mạch và các loại gia vị, được coi là món ăn “quốc hồn quốc túy” của dân vùng phía Bắc.

Tôi yêu thích tất cả những thứ ấy ở Edinburgh, nhưng nếu được chọn, tôi sẽ nói về tình yêu của mình với nhịp sống chậm rãi trên những con đường đá cổ kính và mùi vị trầm ngâm của quá khứ hiện diện trên từng góc phố, ngôi nhà của thành phố này. Trên những con ngõ lát đá xám, những ban công sắt đã rỉ màu, vài ba chiếc cốc vintage được sắp đặt ngẫu nhiên trên cửa sổ một nhà ven đường.

Hôm nay giữa xe cộ ngược xuôi của một thành phố xa lạ và đông đúc, tôi nhớ quay quắt những giây phút một mình ở Edinburgh. “Khi không còn chỗ cho sự cô đơn, thành phố không còn chỗ cho tôi nữa”. Tôi nhớ sự cô đơn của mình như nhớ những phút giây lang thang ở Edinburgh trong những ngày mùa đông, khi sự bình yên từ từ xâm chiếm lấy tôi giống như khi đã ngấm những ngụm whiskey nồng vị khói.

Trong giấc mơ, tôi thấy mình lặng lẽ đi trên con đường Royal Mile cổ kính dẫn từ lâu đài Edinburgh rẽ qua bao nhiêu ngõ hẻm để lên đồi Calton tuyết trắng mênh mông. Buổi sáng trên đồi, tuyết lạnh còn đọng từng vạt, những tượng đài sừng sững như nhắc nhở con người về vĩ nhân và dấu ấn thời gian. Dưới chân tôi, những vạt hoa dại cứng cỏi vươn mình trong tuyết, đầu cành nở nụ vàng óng ả, cuộn mình trong những giọt sương mai đã đóng băng. Đôi khi có những vẻ đẹp giản dị mà thường ngày mình cứ vội vã mà quên mất. Hạnh phúc với tôi lúc bấy giờ là hít thở bầu không khí trong lành của ban mai trên đồi Calton và ngắm nhìn những bông hoa bé xinh đang vươn mình giữa sương tuyết trong tiếng nhạc bay bổng của Norah Jones.

“Come away with me and we’ll kiss

On a mountaintop

Come away with me

And I’ll never stop loving you”.

Hãy đi với em và mình sẽ hôn nhau

Trên đỉnh đồi

Đi với em

Và em sẽ không ngừng yêu anh.