← Quay lại trang sách

Chương 4

Buổi sáng hôm sau, Tân thức dậy muộn, nhìn đồng hồ đã hơn chín giờ. Ánh nắng le lói xuyên qua mái lá, lọt vào căn buồng chiếu sáng một khoảng vách. Mọi người chung quanh đã đi hết cả. Bốn bề yên lặng, Tân chỉ còn nghe thấy tiếng còi xe và tiếng động cơ nổ ở phía xa vọng lại. Tân nhỏm dậy vươn vai và ngáp thật dài. Bây giờ chàng mới nhận thức được rõ rệt về chỗ ở mới mẻ của mình. Phía đằng trước là sân đất. Phía đằng sau là căn buồng của Cúc. Cô gái có cuộc sống ngoại hạng, khó có thể tìm hiểu được ước vọng thầm kín trong tâm tư của nàng. Nhưng dầu sao Cúc cũng có nhiều điểm dễ thương hơn là cái bề ngoài chanh chua, sẵn sàng gây gổ với bất cứ người nào đến gần nàng. Tân nghĩ rằng nếu sự rời bỏ căn nhà trên phố để đi tìm một nơi làm giầu cho kinh nghiệm sống của mình, thì đây là một chỗ dừng chân lý tưởng. Điều này khiến Tân tự hài lòng và bật dậy, ra chum nước tắm rửa.

Lúc xong xuôi, Tân bỗng có ý nghĩ đến thăm thầy cũ của mình. Đã lâu lắm, Tân chưa ghé lại đằng ấy, mặc dầu những năm về sau này, ông Chính đã đối với chàng thân thiết như một đôi bạn vong niên hơn là giữ nề nếp thầy trò như hồi còn ở Hà Nội.

Ông Chính đã bàn luận với Tân rất nhiều vấn đề liên quan đến cuộc sống. Nhất là mỗi khi Tân tỏ ra thất vọng hay buồn chán thì ông khuyên nhủ Tân với tất cả lòng thành của một người đi trước nhưng vẫn hướng về lớp trẻ. Ông nói:

– Ở tuổi các anh không nên có những tư tưởng ruồng rẫy và hằn học. Bởi vì trước mặt các anh là một con đường dài mà dầu muốn dầu không, các anh cũng phải đi qua. Hơn thế nữa, việc làm của các anh không phải chỉ có các anh trách nhiệm lấy riêng mình mà nó còn ảnh hưởng đến cả thế hệ đi sau. Nói như thế có nghĩa là tôi đặt tin tưởng ở thế hệ các anh bây giờ, hơn là vào thế hệ của chúng tôi ngày trước. Đứng ở ngưỡng cửa tuổi già, nhìn lại quãng đường mình đã đi qua, tôi thấy rõ thế hệ chúng tôi là những kẻ thất bại! Hồi còn trẻ, chúng tôi không có được cái sâu sắc như của các anh bây giờ.Trong giai đoạn va chạm giữa cái cũ và cái mới hồi tiền chiến, chúng tôi như những kẻ ở trong bóng tối vừa bước ra ngoài ánh sáng. Mắt mũi đang còn hoa lên thì lại liên tiếp xẩy ra biết bao nhiêu là sự kiện lịch sử, biết bao nhiêu là lớp lang chính trị thay đồi, bao nhiêu sự thật phũ phàng, chua cay phơi bày. Rồi mỗi khi một cái mặt nạ rớt xuống, một ván bài lật tẩy lên, chúng tôi lại trơ mắt ngỡ ngàng như thể lại vừa bị thua một ván bài tháu cáy. Cứ như thế, tất cả đã làm chúng tôi quay cuồng, quăng quật như mình đang ở ngay trong một cơn lốc lớn. Cho đến khi mình ý thức được vị trí của mình, tạo được sự vững vàng cho lề lối suy luận, biết dè dặt đắn đo trước những chiêu bài giả dối, thì tiếc thay, tuổi già đã xộc tới kề bên. Còn làm gì được nữa! Nhưng các anh thì khác! Các anh tuy sống ít, mà lại có cơ hội hiểu được nhiều. Đó là kinh nghiệm phũ phàng của những người đi trước như chúng tôi để lại. Nói mẽ lắm thì chúng tôi cũng chỉ đóng góp được cho thế hệ các anh những kinh nghiệm ấy mà thôi. Cho nên đừng ví chúng tôi ngày xưa với các anh bây giờ. Các anh phải làm khác, phải sống khác, phải suy nghĩ kiểu khác, phải tự làm chủ chính mình mà đừng như những con ngựa đã bị bịt mắt chỉ biết ngoan ngoãn đi theo con đường mà người khác đã sẵn sàng vạch ra cho.

Tân nhìn ông lòng bùi ngùi, xúc động. Chàng cảm thông được với nỗi lòng ê chề, thấm thía của ông khi nghe ông thổ lộ tất cả nỗi niềm tâm sự. Cuối cùng chàng nói:

– Thưa thầy, chúng con chỉ tiếc rằng được nghe những lời nói như lời của thầy thì it, mà phải trông vào những gương xấu thì nhiều. Ở thời đại này người lớn nêu quá nhiều gương xấu, thậm chí nhiều khi họ còn gián tiếp tiếp tay cho lớp trẻ hành động xấu nữa. Chính điều đó đã khiến chúng con trở nên ích kỷ, bạc nhược, chán chường và không còn thấy tin tưởng ở một điều gì nữa.

Nghe Tân nói, ông Chính chớp mau cặp mắt và buông một tiếng thở dài. Khuôn mặt của ông mới chợt rạng rỡ sau một phút say sưa, bây giờ lại trở nên lạnh nhạt, hững hờ và đâu đó thoáng trên làn da nhăn nhúm, Tân tìm thấy cả những nét già nua, đầy vẻ chịu đựng.

Tân theo học ông Chính trong mấy năm liền từ hồi còn ở Hà Nội. Ngày xưa, ông là một ông thầy đầy phong độ, dáng vẻ hào hoa, là một trong những hình ảnh mà lũ học trò chúng tôi mong mỏi sau này mình cũng sẽ được như thế. Bây giờ thì ông đã hết thời, lại còn mang thêm bệnh lao với hai lá phổi đã đến thời kỳ mục ruỗng.

Ông có hai người con. Người con gái lớn đã theo chồng làm quân nhân đóng ở Ban Mê Thuột. Người con trai thì chưa lập gia đình, đang theo học trường sĩ quan Thủ Đức. Mọi việc chi tiêu trong nhà, ông đều trông cậy vào cái cửa hiệu tạp hóa nhỏ nhoi của bà vợ.

Hình ảnh một giáo sư hăng hái, tận tụy nổi tiếng một thời hồi mười mấy năm về trước nay không còn nữa. Bây giờ, trước mắt Tân, phong độ ngày xưa của ông như không còn lại gì. Người ông gầy xọm, nước da xanh bủng, mái tóc bạc trắng, khuôn mặt vêu vào hốc hác với đôi mắt lờ đờ vẩn đục. Ngày xưa ông giảng giải những điều nghĩa lý nghe thật là sôi nổi và hấp dẫn. Đối với Tân, hồi ấy chàng cho rằng mỗi lời nói của ông là một bí quyết chắc nịch, đủ thẩm quyền để có thể khiến cho người ta đạt được thành công dễ dàng trong cuộc đời. Chàng ước ao rằng chỉ cần theo kịp được một phần nhỏ trong những điều đó thì cuộc sống cũng đủ mãn nguyện lắm roầi.

Đến hồi di cư, bẵng đi vài năm, khi Tân gặp lại thì ông Chính đã bắt đầu húng hắng ho. Tuy vậy ông vẫn cố bám riết vào cái nghề dạy học vốn đã đối xử với ông khá bội bạc. Căn nhà của ông được chia ra làm hai. Nửa trong để ở, nửa ngoài ông gắng gượng vùng vẫy những phút oanh liệt cuối cùng bằng việc hướng dẫn một vài lớp riêng đặc biệt. Nhưng học trò của ông bây giờ chỉ còn lèo tèo năm bẩy đứa. Không khí buổi học thật là trống rỗng buồn nản. Giữa tiếng động kì cạch của những người ở gian bên trong và tiếng động cơ chạy rầm rập của xe cộ bên ngoài, ông gắng gượng nói cho to, gào cho mạnh để cố nhồi nhét những tinh hoa hiểu biết của ông vào đầu lũ trẻ. Nhưng với khung cảnh hỗn độn, ồn ào ắy, văn chương, nghĩa lý cao xa nào có gây được sự hấp dẫn gì đối với lũ học trò đang nhấp nhổm với trăm ngàn điều cám dỗ đầy dẫy ở cuộc sống bên ngoài. Cho nên ông chỉ biết chua xót nhìn những vẻ mặt lơ đãng, hững hờ của lũ đầu xanh rồi thỉnh thoảng lại ôm ngực cất lên từng cơn ho sù sụ khiến mặt ông tái đi, nước da sạm lại, lồng ngực rút lên, kéo theo cả sức khỏe tàn phai đang còn thoi thóp trong thân hình bệnh hoạn.

Ít lâu sau, gia đình ông biệt tăm. Tân không biết ông đã dọn đi nơi nào. Mãi đến hồi đầu năm, Tân mới gặp lại ông trong một khung cảnh khác. Bây giờ ông còn hom hem hơn trước chứng tỏ bệnh lao đã tới thời kỳ tàn phá. Ông không còn dạy học nữa mà đứng bán hàng trong một cửa hiệu tạp hóa nhỏ bé, nghèo nàn giữa một khu phố nhỏ toàn dân lao động nghèo khó. Tân chết sững đi và chua xót khi nghĩ rằng thầy của Tân đó, con người đang nhẫn nại đứng cân từng lạng đường, rờ rẫm từng quả trứng và chuyên, xẻ, đong, xới từng bát muối, lon gạo, ve dầu hay chai nước mắm. Mỗi lần Tân đến thăm ông, hai thầy trò thủ thỉ trò chuyện ở ngay trong cái khung cảnh chật chội và buồn tẻ ấy. Câu chuyện nhiều khi bị cắt quãng bởi một vài người khách đến mua hàng. Ông đong xới từng lon muối, nhặt nhạnh từng củ hành với một vẻ thành thạo. Rồi tiếng kêu của những đồng bạc cắc loảng xoảng trên quầy càng khiến Tân vừa chua xót vừa cảm thông nỗi buồn tủi nhậm gấm trong suốt quãng đời tàn tạ của ông.

Hôm nay, khi trở lại gian nhà cũ, Tân thấy cửa hàng nhà ông như đã thêm tiều tụy đi. Các ngăn tủ trống rỗng, chỏng chơ phơi bầy cái đáy gỗ đóng bằng những mảnh ván thùng vá víu. Trong những cái thúng, cái sọt chỉ còn lơ thơ năm, bẩy quả trứng, mấy củ khoai tây, vài hũ tôm khô hay kiệu muối. Tất cả đều như những dấu hiệu báo rõ sự quẫn bách tận cùng của gia đình thầy cũ. Lòng Tân se lại. Nhớ đến sự nghiệp lẫy lừng hồi còn trẻ của ông, Tân muốn khóc.

Bà giáo Chính lúc ấy đang ngồi dán tiền rách ở đằng sau cái quầy gỗ. Trông bà cũng gầy xọm hẳn đi, nước da bạc nhược, rúm ró, trên đỉnh đầu đã thấy điểm nhiều sợi tóc bạc.Tân cất tiếng chào lễ phép. Bà trông ra, mỉm cười héo hắt:

– À, anh Tân! Mời anh lên chơi. Thầy nằm nghỉ trên gác. Lâu lắm rồi, sao anh không tới thăm thầy?

Tân bối rối:

– Thưa cô:.. con cũng lúng túng về chuyện làm ăn thành ra…

Nói xong,Tân tự cảm thấy xấu hổ. Bao lâu nay, chàng đã thờ ơ với thầy, không một lời thăm hỏi. Nhiều khi rỗi rãi, Tân đi lang thang hết phố này đến phố khác để giết thì giờ nhưng ít có lần nâo Tân nghĩ đến chuyện tới thăm thầy cũ. Bà giáo nói tiếp:

– Thầy ốm nặng từ gần một tháng nay.Vẫn cứ bệnh ho như vậy thôi, nhưng xem chừng nặng hơn.

Tân hốt hoảng:

– Chết chửa! Thưa cô, liệu thầy con có hề gì không ạ?

Bà giáo Chính buồn rầu:

– Tôi sợ thầy kiệt sức mất. Nhiều khi lên cơn ho, tưởng đến rút đứt ruột.

Tân vội vã xin phép lên lầu. Chàng bước lên một cái cầu thang tối như hũ nút làm bằng gỗ ọp ẹp. Căn buồng trên gác xép được che kín mít bằng một bức màn vải hoa. Đang ở ngoài ánh sáng bước vào chỗ tối, mắt Tân hoa lên. Chàng mò mẫm từng bậc thang dốc tuột và lom khom lách qua cánh cửa khép hờ. Bên trong, dưới ngọn đèn thắp ròng vàng úa, Tân thấy ông giáo Chính nằm im lìm bất động trên một cái giường kê sát vách. Hai bên ống quần xô lệch, đề lộ hai cẳng chân khẳng khiu với những đường gân xanh rờn. Tóc ông xõa xuống ngang mặt, đôi mắt nhắm nghiền, hai bên má hóp lại, hơi thở từ miệng phát ra khò khè, yếu đuối. Thỉnh thoảng, trong giấc ngủ chập chờn, ông lại lên một cơn ho. Tiếng ho khan lại, sặc sụa, rút từng nguồn hơi tàn héo khiến hai bàn tay của ông phải ghì chặt lấy lồng ngực. Cạnh đầu giường của ông có một cái bàn nhỏ, phía trên chứa lủng củng những chai, lọ bên một nửa quả cam, một hũ đường, một cái ly khô cạn và một cái ống nhổ. Tất cả căn phòng dưỡng bệnh của ông chỉ có thế, nom thật nghèo nàn, tăm tối. Mái ngói ở trên thấp tịt, nắng buổi trưa hắt xuống đưa hơi nóng hầm hập tỏa ra khắp căn buồng khiến Tân tưởng như sắp bị ngộp lên vì thiếu dưỡng khí để thở.

Chàng tiến lại gần bên ông, giơ tay sờ lên trán. Tân thấy ông đang hâm hấp sốt. Chàng nhẹ nhàng sửa lại chăn gối chỗ ông nằm và vuốt những sợi tóc phủ lòa xòa trên mặt ông. Ông không tỉnh dậy. Hai mắt sâu trũng vẫn nhắm nghiền, hơi thở cực kỳ nặng nhọc. Chàng đứng tần ngần một lát nhìn ông rồi rón rén quay xuống. Mồ hôi trên lưng chàng toát ra ướt đẫm cả một mảng áo. Tân nói với bà giáo:

– Thưa cô, thầy có vẻ mệt. Con lên mà thầy cũng không biết.

-Thầy nằm như vậy suốt ngày. Nhưng thế còn đỡ. Chứ lúc tỉnh dậy, thầy còn ho nhiều hơn. Tôi sợ….

Chưa nói rứt lời, bà đã đưa khăn tay lên chấm những giọt nước mắt vừa ứa ra trên hai hàng mi. Tân hỏi:

– Thưa cô, anh Hưng vẫn thường về thăm nhà chứ ạ?

– Em nó thì chủ nhật nào cũng được ra. Nhưng chị nó thì khó mà về được. Không lẽ bỏ cả làm ăn trên ấy mà về, biết ông ấy sống chết lúc nào.

Tân thở dài xin phép bà giáo ra về. Chàng hẹn sẽ lại thăm ông luôn luôn. Trong thâm tâm, Tân đã có dự tính đem cầm chiếc đồng hồ, gia sản cuối cùng của chàng để mua quà biếu thầy cũ. Ở hoàn cảnh của Tân lúc ấy, chàng biết làm gì hơn ngoài sự bầy tỏ lòng quí trọng, biết ơn và sự thương xót cho căn bệnh của thầy.

Ở nhà ông Chính ra, Tân chạm trán ngay với Vũ, một thằng bạn rất thân từ hồi mới di cư vào. Gã đàn ông nhầy chồm từ đằng xa lại và nắm lắy vai Trân rối rít:

– Tiên sư nhà mày, mới rúc ở cái xó nào ra mà kín tiếng từ mấy tháng nay thế?

Tân mỉm cười nắm lấy bàn tay Vũ lắc thật mạnh. Sự gặp lại Vũ làm Tân thấy quên hết nỗi ưu tư vừa qua. Chàng lây ngay cái vẻ ồn ào, sốt sắng và ngay thẳng của Vũ.

Hồi trước, đã có một thời kỳ Tân sống chung với Vũ. Vũ say mê hội họa, còn Tân thì mơ ước trở thành một nhà văn. Mới đầu, Tân tưởng rằng sự chung sống giữa hai kẻ cùng thiết tha với văn nghệ sẽ làm giầu thêm cho sự sáng tác của hai người. Nhưng ngược lại, trong căn nhà chật chội chứa chất đầy mầu sắc của Vũ, Tân đã không nẩy thêm được những tư tưởng mới lạ nào. Bản tính của Vũ thì đam mê và ồn ào sôi nổi trong khi Tân lại thích tĩnh lặng và hay trầm ngâm. Cho nên, trong lúc Tân mệt mỏi chán chường ngồi hút thuốc lá bên cửa sổ hàng giờ thì chỉ có một mình Vũ vừa huýt sáo vừa say mê làm việc.

Vũ yêu hội họa một cách điên cuồng. Căn phòng của hắn, chỗ nào cũng chất đầy khung vải, chổi, bút và thuốc màu. Vũ vẽ liên miên, nhiều khi quên cả ngủ. Có những hôm đã tắt đèn đi nằm rồi, Vũ lại lóp ngóp bò dậy ngồi ngắm hàng giờ tác phầm vừa mới hoàn thành. Sự hăng hái và cuồng nhiệt của hắn không khác gì cung cách sống của những kẻ khẩn hoang đi tìm một vùng đất mới. Nhưng thật ra Vũ cũng chưa tìm được cho mình một chỗ đứng vững chắc trong lãnh vực hội họa. Sau ba bốn năm cầm cọ, kiểm điểm lại Vũ thấy mình mới chỉ tạo được một khuynh hướng dùng mầu sắc riêng biệt. Còn nội dung những tác phẩm, Vũ vẫn loay hoay, chưa tự bằng lòng. Tất cả mầu sắc mà Vũ ưa chuộng đều sôi nổi và khích động như tính nết sôi nổi và khích động của hắn. Nếu trong đời sống Vũ bất chấp những tiểu tiết, kiểu cách nhỏ nhặt, thì trong tác phẩm, mầu sắc của Vũ cũng bát chấp luật lệ hòa hợp của thiên nhiên. Hình như kể cả con người lẫn sự nghiệp của hắn đều vượt qua cái cảm quan thường lệ của mọi người. Cũng vì thế mà Vũ thì được bạn bè mến chuộng nhưng tác phẩm của Vũ thì ít có ai để ý tới.

Hắn vẫn thường quan niệm là phải sống theo bản năng và vẽ theo trực giác. Trong một giây thoáng qua rất nhanh, mỗi khi bắt gặp được một hình ảnh sáng lòe lên trong ý nghĩ là Vũ không ngần ngại hối hả mang nó lên khung vải. Cho nên càng sống sôi nổi, Vũ càng thấy trực giác làm việc nhiều. Nhưng không phải lần nào Vũ cũng thành công cả. Có khi chỉ với một đề tài mà Vũ đã phải vẽ tới ba, bốn bận để có lần Tân phải chế giễu: “ Ngay cả trực giác của cậu nó cũng đếch thèm chơi với cậu thì cậu chơi với ai!”. Nhưng chẳng vì thế mà Vũ phật lòng. Hắn chỉ cau có nhìn ngắm tác phẩm vừa hoàn tất của mình rồi cuối cùng, nếu vẫn không vừa ý thì dùng ngay mũi dao rạch nát cả khung vải rồi ném bút, đi biệt mấy ngày. Khi trở lại, đầu tóc hắn bù xù, râu ria mọc rậm rạp, quần áo bẩn thỉu xốc xếch như mới chui ra từ một chỗ trụy lạc nào đó. Mỗi lần như thế, Vũ lại tuyên bố:

– Phải làm lại cuộc đời, phải dựng lại sự nghiệp!

Nhưng cuộc đời và sự nghiệp của Vũ cũng chẳng thấy tiến bộ gì hơn. Có một dạo, Vũ chủ trương phải bứt con người tầm thường hàng ngày ra khỏi con người nghệ thuật và vì thế, Vũ uống rượu thật say trước khi cầm cọ để quên là mình là “thằng Vũ”. Nhưng rồi lúc đứng trước giá vẽ, Vũ chỉ còn là một cái máy vật vờ, vô ý thức đến không nhận biết được cả cái công dụng của màu này với mầu kia, hình thể này với hình thể khác. Thế là Vũ lại vứt cọ, bỏ giá vẽ bỏ đi biệt. Sau lần thất bại ấy, Vũ lại tuyên bố ngược lại:

– Tao “chủ trương” nghệ thuật phải là sự hòa hợp của cả sự tốt lẫn sự xấu. Lý tưởng hóa con người thành tốt đẹp cả thì đi đến chỗ giả tạo, mà đem bôi đen hết giá trị của con người thì cũng dễ trở thành một cái mốt đi quá đà của thời đại.

Kể ra thì sau những lần thất bại ê chề và bỏ đi biệt tích, cu cậu cũng có vẻ khôn ra. Câu nói của hắn thế mà đã khiến cho Tân phải suy nghĩ rất nhiều. Có thể trong một trăm lần bộp chộp cũng đã có một lần Vũ nhìn thấy rõ cái khuyết điểm của bộ mặt văn nghệ đương thời. Hiện nay bộ mặt ấy mang nhiều dấu vết của sự sa đọa. Nó bôi đen thực tại. Nó hạ thấp phẩm giá của con người. Nó đánh đồng thú tính với nhân tính. Đó phải chăng là một dấu hiệu tìm tòi sự đổi mới của con người trí thức hay chính nó là bộ mặt giả trá của nhưng kẻ đánh lừa độc giả bằng ảo tưởng trí thức của họ. Câu hỏi rất nên dè dặt khi trả lời nếu không muốn nhận lãnh những sự chống đối của một số nhà văn mà tài năng của họ thì vàng, thau lẫn lộn! Tốt hơn hết là Tân thấy nên để cho thời gian định đoạt, bởi vì chỉ có thời gian mới là yếu tố quyết định cho sự lọc đãi nhưng cái giả và cái chân trong lãnh vực xô bồ và phức tạp của người làm văn nghệ thời hậu chiến. Những kẻ giả mạo, lợi dụng chữ nghĩa sẽ đương nhiên bị đào thải cũng như rác rưởi sẽ mắc míu trên những ghềnh đá khi dòng sông vẫn lặng lẽ trôi về biển cả.

Sống với Vũ được gần một năm thì Tân kêu chán rồi bỏ đi biệt. Vũ cũng không tìm kiếm vì còn mải mê sửa soạn cho một phòng tranh sắp khai mạc. Trong lúc ấy, Tân cũng chẳng một lần nào trở lại ngó ngàng gì đến bạn, mặc dầu chỉ để thăm nhau trong năm, mười phút. Tuy vậy Tân vẫn theo dõi việc làm của bạn trên báo chí: Phòng tranh của Vũ được một vài tờ báo nhắc nhở. Nhưng dù có được nhắc nhở hay không, Tân cũng biết là Vũ chẳng cần quan tâm đến. Bởi vì hồi còn sống chung với nhau, Tân biết Vũ đã thấy rõ trình độ thưởng ngoạn của nhiều người. Vũ thường nói:

– Bạc bẽo và đau khổ nhất là nghề hội họa. Không khí của một phòng triển lãm tranh ở xứ mình nhiều khi lạnh lẽo và độc ác đến độ rùng mình. Người xem thì thưa thớt, thái độ thưởng ngoạn lại “dã man” đến độ họ chỉ tốn có một cái liếc mắt đã lướt qua ba bốn bức vẽ mà tác giả của nó phải hộc máu mồm, máu mũi mới hoàn thành. Rồi nhiều khi cũng cóc phải người ta vào phòng tranh để thưởng thức hội họa, mà chỉ vì lý do trời đổ cơn mưa rào. Ôi chao! Lúc đó thì chỗ triển lãm biến thành một cái thùng rác chất chứa đủ loại chuyện trò ra ngoài hẳn lãnh vực hội họa. Ấy thế mà người vẽ vẫn phải cố gắng làm việc, làm việc để rồi tranh nhau chạy qua cái cầu bạc bẽo ấy.

Vũ nói không sai, bởi vì với những họa sĩ chuyên nghiệp như Vũ, ai chẳng cần triển lãm tranh để bán tác phẩm. Mà sở thích của dân chơi tranh thì nhiều khi thật là kỳ cục. Có bức họa sĩ đánh giá là có giá trị, xứng đáng được nâng niu thì họ lại bỏ qua để chọn một bức khác tầm thường hơn. Cũng có người chạy theo thời đại, đi mua những bức tranh mà chính họ chẳng hiểu tác giả vẽ cái gì! Có lần, một cặp vợ chồng mới cưới tìm đến phòng vẽ của Vũ để mua một bức họa treo trong phòng ngủ. Người chồng là một lão đứng tuổi với tấm thân phì nộn, núng nính mỡ. Cô vợ trái lại, trẻ măng như chưa quá cái tuổi hai mươi. Sắc đẹp của nàng không hẳn là lộng lẫy, nhưng sánh đôi với ông chồng mang đầy vẻ vật chất, hưởng thụ khiến cả Vũ lẫn Tân đều thấy chướng mắt. Sự chướng mắt này như tăng thêm khi họ biểu diễn những pha nũng nịu và âu yếm sỗ sàng ngay trước mắt cả hai người. Phú, tên người chồng, chỉ một bức tranh đã lồng sẵn trong khung gỗ nói với vợ:

– Anh định lấy bức này. Tường phòng mình quét vôi màu hồng nhạt treo cái bức nền mầu nâu đỏ này thì thật là hòa hợp.

Vợ Phú ngắm kỹ rồi nói:

– Tranh trừu tượng đây. Nhưng nó chứa đựng cái gì thế họa sĩ nhỉ?

Vũ giảng giải:

– Dạ, mảng vuông là đoàn tầu trong ga vắng, khoảng vàng là mầu áo người yêu, còn cái miếng tam giác nâu nâu này là cái mũ phớt của người khách viễn xứ.

Nàng kéo tay chồng và bảo:

– Chia ly là xui mình ạ. Tuy nó đẹp thật nhưng không nên mua chút nào.

Phú đồng ý ngay với vợ và lại kéo nàng đi lục soái một lượt khắp phòng tranh. Cuối cùng Phú nói:

– Chúng tôi rất tiếc họa sĩ ạ. Tranh của ông bức nào cũng đẹp cả nhưng không có bức nào hợp với hoàn cảnh mới mẻ của chúng tôi cả.

Vũ vội vàng nói:

– Ồ! Không sao cả. Chuyện chọn không được tranh là chuyện rất thường xẩy ra với đa số người chơi tranh. Nhưng chả lẽ ông bà có lòng đi tới rồi lại về không. Vậy tôi xin tặng ông bà bức này chắc là hợp lắm.

Nói rồi Vũ đứng dậy lục lọi đống khung vải cũ của mình, moi ra một bức được gói sẵn trong một lớp giấy báo. Đó là bức tầm thường cả về màu sắc lẫn đề tài, nhưng nó lại có vẻ dễ dàng thưởng thức hơn cả. Quả nhiên thiếu nữ reo ngay lên:

– Ồ, thế mà chúng tôi không biết. Bức này thật tuyệt, mới nhìn qua là tôi đã ưng ngay nó rồi.

Phú cũng ghé đầu vào ngắm nghía rồi gật gù:

– Tuyệt! Tuyệt!

Vũ mỉm cười:

– Bức vẽ xấu số này bị bỏ quên, mãi tới nay mới gặp được tri kỷ, tôi xin tặng ông bà đấy.

Thiếu nữ vụt dẫy nẩy lên và xua tay:

– Không khi nào. Không bao giờ. Đời nào chúng tôi dám nhận như thế. Mình nghĩ có phải không?

Phú cũng rối rít theo vợ:

– Chính thế. Chính thế. Dù có cảm tình thế nào với chúng tôi, thì ít ra ông cũng phải tốn tiền mua vải và sơn mầu. Huống chi đây lại là bức tranh mà chúng tôi cùng ưa thích.

Vũ đáp:

– Vậy xin ông bà trả cho một giá tượng trưng thế nào cũng được.

Phú móc ví lắy ra hai tờ giấy năm trăm trao cho Vũ. Chàng nhận một cách miễn cưỡng và đưa tiễn hai người ra cửa. Lúc họ đi đã khá xa, Vũ mới nói:

– Mày thấy nghệ thuật bán hàng của tao lên tới tuyệt kỹ rồi không! Một bức tranh xếp xó nằm mốc, kẹt dưới gậm giường mà khều được hẳn một ghim.

Tân ngạc nhiên:

– Kìa! Tao nghĩ là mày thực tâm tặng họ.

Vũ bĩu môi:

– Mốc sì! Tạo phải nói là tặng thì tụi nó mới đặt ngay thiện cảm vào cái bức vứt đi và nổi máu quân tử Tầu lên như thế chứ. Nếu mày treo lên vách, đề giá năm bò chưa chắc đã có đứa nào ngó ngàng đến.

Nói rồi Vũ ném hai tờ giấy bạc lên mặt bàn, suy nghĩ một giây và nói tiếp:

– Nghĩ cho cùng, mình cũng thật là đồ đểu. Nhưng mà những thằng mang tiếng là nghệ sĩ như mình, đôi khi cũng đến phải đểu như vậy thôi. Vì nếu không thì đói nhăn răng ra.

Nói rồi Vũ cười một cách vừa gượng gạo, vừa chua chát, trong khi Tân thấy lòng mình đau quặn lại như vừa có ai sát muối trong lòng.

Thân phận con người làm văn nghệ ở cái xứ này nó thảm thê như thế, vậy sao?