← Quay lại trang sách

Chương 7

Sau khi chia tay với Thúy ở cửa nhà thầy Chính, Thúy lên taxi trở về. Còn Tân đi bộ để được suy nghĩ nhiều hơn. Trong suốt mấy ngày vừa qua, Tân bỗng thấy cuộc sống của mình có vẻ phong phú hơn là những ngày nằm bẹp trên một căn gác xép đầy muỗi và mạng nhện ở khu Vườn Chuối. Ý kiến thay đổi chỗ ở lần thứ nhì sau khi Vũ bỏ ra đi là do Tân quyết định nhân lúc đọc một phóng sự viết về một khu xóm nhà lá ở ngoại ô của một ký giả quen thuộc. Tác giả này đã viết một câu hữu lý ở phần kết của thiên phóng sự:

– “Tất nhiên ai mà chả có nỗi niềm khổ đau, mệt mỏi riêng tư. Nhưng xin hãy nhìn ra đời sống của nhiều tầng lớp quần chúng ở chung quanh, nhất là cái đám người lam lũ sống cơ cực, vất vưởng, lầm than ở những nơi như cái nơi nghèo khó khốn cùng này. Ta sẽ thấy sự mệt mỏi riêng tư của ta không có nghĩa gì đối với sự khổ đau và nhọc nhằn mà họ đang phải chịu đựng. Sự khổ đau và nhọc nhằn ấy đă trở thành vết lở loét của tập thể, nó đã khiến cho bộ mặt có vẻ văn minh và tiến bộ của các chốn nhởn nhơ ăn chơi trong thị thành trở nên trơ trẽn với cái bề ngoài sang trọng, hào nhoáng. Từ đó sự buồn rầu thất vọng của mọi người sẽ trở nên cực kỳ vô nghĩa và nó sẽ lại cho ta sự phân biệt rõ rệt giữa cái đau khổ riêng tư với cái khốn cùng của kẻ khác đang phải chịu đựng. Chính điều này đã khiến cho ta bớt thấy mình ích kỷ đi, và đã thúc đẩy ta phải mó tay vào một công việc gì có ích lợi chung, hơn là chỉ ngồi một chỗ để than thân trách phận một mình”.

Lời viết chân thành này của một cây bút tha thiết với cuộc sống đã đem đến cho Tân đôi chút ánh sáng trong con đường tăm tối mà chàng đang dò dẫm. Hiển nhiên, Tân đã bỏ phí quá nhiều thời gian chỉ để dằn vặt với chính mình mà không đi tới một kết quả nào. Chàng quyết định thử thay đổi quan niệm sống một lần nữa. Có thể rồi chàng cũng sẽ thất bại như những lần trước, nhưng ít ra thì nó cũng mang lại cho chàng một bầu không khí làm việc mới với những ý tưởng và dự ý định mới. Chỉ một sự đổi mới ấy cũng đã đủ quyến rũ khiến cho Tân quyết định lao đầu vào một ngõ ngách tối tăm như cái xóm chàng đang ở này. Tại đây, Tân hy vọng sẽ khởi sự được một tác phẩm dài viết về đời sống của kiếp người lam lũ, nghèo khó.

Ý muốn trở thành một nhà văn vốn nung nấu trong đầu óc Tân kể từ lúc chàng còn đang mài đũng quần ở những năm đầu bậc trung học. Sau đó, khi khởi sự bước chân vào ngưỡng cửa đại học thì Tân đã hăng hái sáng tác rất nhiều, đủ loại, đủ đề tài, đủ khuynh hướng. Kết quả là chỉ lác đác có một vài truyện ngắn được đăng báo. Bạn bè của Tân phong chàng làm văn sĩ nhưng Tân lại rất trung thành với cái lý luận mà chàng đã trình bầy với Thúy hôm nào. Đó là hãy biết nhận định rõ rệt vị trí của mình. Đừng chủ quan hay vẽ cho mình nhiều ảo tưởng. Mặc dù vậy, thế mà cũng đã rất nhiều lần chàng cũng đã thất vọng sâu xa khi tự biết cánh cửa văn nghệ chưa mở rộng đón tiếp mình. Con đường mà chàng chọn lựa không để lộ cho chàng một chút ánh sáng hy vọng nào. Và chàng cứ dò dẫm đi một mình, mà càng dò dẫm Tân càng thấy khó khăn và gai góc. Đến một thời kỳ, Tân vứt bút buông xuôi với một kết luận gọn lỏn: ” Mình bất tài!”.

Chàng bỏ nghiệp viết để quay lại với đời sống bình thường. Những ngày đầu,’Tân sung sướng thấy tâm hồn quá bình thản, cứ như chàng vừa thoát ra được một cơn mộng dữ với biết bao nhiêu nỗi niềm u tối cứ ám ảnh trong đầu. Nhưng sự trốn tránh không nhận xét và suy tư đã khiến cho Tân rơi vào khoảng trống rỗng mệt mỏi. Đó là nguyên nhân đã dầy vò Tân trong những đêm dài không ngủ. Và bây giờ Tân lại quyết định trở về với ý định ban đầu. Chàng thai nghén một tác phẩm trường thiên mà nội dung là những trang ghi nhận tất cả mọi điều mà tai mắt chàng đã nghe, đã thấy sau khi đãi lọc qua cái vốn liếng kinh nghiệm văn chương ít ỏi của chàng. Tân liệu trước rằng có thể mình sẽ thất bại một lần nữa. Nhưng dù ở trường hợp nào thì chàng cũng sẽ đạt tới một kết quả. Đó là sự chiến thắng được chính mình, qua đó chàng cũng có thể tự hào là mình ít ra cũng đã hoàn thành được một công trình. Kết quả của nó dù có tốt đẹp hay không chỉ là điều thứ yếu.

Khi về đến đầu ngõ, Tân thấy một đám đang xô xát. Một người chép miệng:

– Lại Tư Huy. Bao giờ thì cũng vợ chồng nhà cha đó hết!

Tư Huy ở cách nhà lão Quới hai căn. Ngày trước gã lái xích lô máy, sau vì đồng lõa trong vụ chở hàng lậu thuế, gã bị ba tháng tù. Từ đó gia đình gã xuống dốc một cách thảm hại. Gã thất nghiệp nằm nhà, nấu cơm và trông nom hai đứa con gái nhỏ. Còn vợ gã thì đi làm phu hồ, đi gánh nước thuê. Gặp phải những ngày mưa thì không ai mướn mụ làm cả. Mụ rất sợ khi phải nghe tiếng nói lạnh lùng, thản nhiên của lão cai thầu:

– Hôm nay giãn việc, mai tới coi sao.

Chỉ có một mẩu cộc lốc như vậy, lại được nghe rất nhiều lần, mà không lần nào tim mụ không bị thót lại. Hình ảnh hốc hác, nhăn nhó với những tia mắt đau đáu thất vọng của chị em cái Hỉ lúc đi chơi trở về chỉ thấy bếp tàn, tro nguội làm mụ muốn gào to lên. Mụ có thể sẵn sàng cho ai cắt da, cắt thịt của mình để cho các con mụ khỏi phải bữa đói bữa no, nhiều hôm chúng nó phải ôm nhau đi ngủ sớm cho quên cơn hành hạ của cái đói. Cái câu nói từ miệng trẻ thơ ” Eng (ăn) không eng (ăn), tắt đèng đi ngủ” sao mà cứ làm mụ buốt thót cả ruột gan mỗi khi nhớ tới.

Những ngày không có tiền mang về, gia đình mụ nghiễm nhiên trở thành địa ngục. Chị em cái Hỉ bồng bế nhau ra chợ kiếm chác vài mẩu bánh hay hạt xôi còn dính trên đống lá nơi hàng quà. Còn mụ thì chịu đựng giai giẳng như một người không biết đói, bằng cách nằm cả buổi trên chiếc ghế bố ọp ẹp mà không hé miệng nói năng một câu gì. Chỉ có Tư Huy là hậm hực ra vào, đứng ngồi không yên. Trước gã còn xô bàn, đẩy ghế lay đá thúng đụng nia. Sau cùng gã vặc lên:

– Thì cũng phải chỗi dậy mà đi làm cái gì đi chứ. Ngủ hoài như vậy bộ sống cả đời được sao.

Nói cho ngay, giả thử vợ gã chịu khó ngồi dậy phân trần với gã đôi điều thì có thể gã sẽ nguôi ngoai và đổi cơn giận dữ bằng lòng thương xót không chừng. Nhưng mụ lại lì lợm một cách đáng ghét. Mụ không trả lời gã, cũng không cục cựa nổi lấy cái thân mình. Thật ra mụ cũng chẳng còn có điều gì phải phân trần với gã. Mụ đã tính hết các cách rồi. Chỉ còn thiếu nước mụ ra đứng ở đầu đường xoè tay ra và mở miệng” lậy ông đi qua, lậy bà đi lại”. Sự lầm lì của mụ khiến Tư Huy đã nóng nẩy lại như được đổ thêm dầu. Gã đập bàn, gầm lên:

– Đ.M. Mầy khi ông hả? Ông mới thất nghiệp vài tháng chớ bao nhiêu mà ông nói mầy không trả lời. Tổ cha cái thứ lăng loàn!

Thấy vợ vẫn nằm yên không cựa mình, gã càng nổi khùng hơn, xồ lại chỗ mụ nằm, la lối:

– Đồ chó đẻ! Đàn bà đâu có thứ đàn bà thối thây, mục xác như cái thứ mầy. Hồi xưa ông nuôi mầy, mầy đâu có thế.

Đến lúc đó thì vợ gã không còn chịu nổi được nữa rồi. Mụ tung cái mền trở dậy, mắt mụ long lên, môi mụ tím lại, mụ túm lấy ngực áo của gã và hét lên:

– Anh nói mà anh không nghĩ. Anh thử coi có bữa nào là tôi không vác xác đi xin việc từ lúc mới ló mặt trời không? Nhưng bộ anh tưởng chỗ nào cũng sẵn việc cho tất cả mọi người đó chắc? Chỉ thiếu điều tôi cắt da, cắt thịt cho anh ăn xài đó thôi.

Căn nhà lụp xụp đang im vắng bỗng vì thế mà náo loạn hẳn lên. Mới đầu hai người còn đấu khẩu với nhau. Về sau Tư Huy túm lấy mụ để đấm đá liên hồi. Mụ đàn bà lại gào lên thất thanh:

– Giết chết tao đi thằng Tư Huy! Tao không có ham cái kiếp sống khổ sở ê chề như vầy đâu!

Vừa gào mụ vừa tông cửa chạy băng ra đường. Hàng xóm đổ xô ra ngó, đứng vòng trong vòng ngoài. Tấn kịch có mỗi một màn buồn tẻ ấy đã diễn đi diễn lại biết bao nhiêu lần mà chẳng ai thấy chán ngán. Người ta xúm xít lại bàn tán xôn xao từ phút khởi đầu cho đến khi Tư Huy đóng chặt cửa lại để cho vợ gã ngồi ti iỉ khóc ở ngoài hè. Khi đó mọi người mới lục tục giải tán. Tân cũng chèo lên giường nằm ngủ trưa trong tiếng khóc thê thảm của mụ. Đầu óc chàng vẩn lên biết bao nhiêu ý nghĩ và hình ảnh. Cái nóng hầm hập hắt từ mái lá xuống làm thân mình chàng ướt đẫm mồ hôi. Chàng cố nhắm mắt lại để cho đầu óc được nghỉ ngơi. Chỉ một lát, chàng thiếp đi trong tiếng nhạc đệm ti tỉ của mụ Tư Huy ở ngoài vọng vào.

Tối hôm ấy, lúc đến nhà Thúy dậy học, Tân thấy chỉ có một mình thằng Thành. Thúy cáo ốm không ra. Tân làm việc một cách lầm lì và ít nói. Đến giờ trở về, lúc đi qua sân sỏi, Tân biết Thúy đang đứng ở cửa sổ tầng lầu trên nhìn xuống. Nhưng chàng không ngước lên. Tất cả khung cảnh nhà Thúy mọi ngày thơ mộng, yên tĩnh và đầy gió mát bỗng hôm nay Tân thấy khoác một vẻ gì xa lạ, trưởng giả làm chàng muốn bỏ chạy trốn. Chàng nhớ đến Thúy và tiếng cười rộn rã của nàng. Nhưng âm thanh quen thuộc ấy không gây được sự xáo trộn nào trong lòng Tân. Chàng nhận ra là mình đã chai đá một cách không ngờ.

Rất bình thản, Tân đi uống một ly cà phê nóng ở cái quán cóc đầu ngõ.

Và đêm hôm ấy chàng khởi sự viết thiên truyện dài. Thiên truyện chàng đặt tên là Xóm Lá.

*****

Những ngày kế tiếp, buổi học giữa Thúy, Thành và Tân mỗi lúc một uể oải. Chỉ có một lần hôm cuối tháng, Thúy đi ra ngoài đề của bài học. Hôm ấy vào lúc hết giờ, trong khi thằng Thành thu dọn sách vở thì Thúy trao cho Tân chiếc đồng hồ Étanche của chàng. Nàng nói:

– Anh cầm cho Thúy vui lòng. Đây chỉ là cách xử sự của một người em gái.

Tân cầm lấy, ngắm nghía rồi đeo vào tay mình và nói:

– Cử chỉ của Thúy làm anh cảm động. Từ ngày rời bỏ gia đình vào đây, chưa lần nào anh có cảm giác đầm ấm như lần này. Anh sẽ ghi nhớ mãi mãi.

Thúy tiếp:

– Thúy hy vọng là như thế. Và Thúy cũng sung sướng mỗi khi nghĩ là mình có một ông anh đáng quí mến như anh. Những lời khuyên của anh dành cho Thúy thật đúng lúc. Thúy hiểu rất rõ vị trí của mình giữa đám đông ồn ào chung quanh. Thúy mong mỏi mình sẽ sáng suốt như vậy mãi.

Hai người bước xuống sân sỏi đầy gió mát. Bầu trời tối mù mịt và không có lấy một vì sao. Không khí thật là oi nồng báo hiệu cơn mưa sắp tới. Khi tiễn Tân ra đến cổng, Thúy nói:

– Sắp đến kỳ thi rồi, Thúy chỉ còn nghĩ đến bài học mà thôi. Lo quá anh Tân ạ. Còn bao nhiêu thứ cần phải làm.

Tân đáp:

– Tôi tin rằng thế nào Thúy cũng thi đậu, miễn là Thúy đừng có hay suy nghĩ vẩn vơ mới được.

Nói xong Tân bước ra ngoài. Không quay lại Tân cũng biết Thúy đang theo dõi bước chân của chàng. Chàng đi thật mau về đám đông trong thành phố. Sự dứt khoát tư tưởng của Thúy vừa khiến Tân mừng cho Thúy, nhưng cũng vừa làm lòng chàng thấy chua xót. Sự chua xót do chính chàng gây ra để thà phải chịu đựng hơn là sẽ bị dầy vò, hối tiếc. Chàng tự nhủ: Dính vào Thuý thì mình chỉ càng làm khổ Thuý mà thôi. Tình chỉ đẹp khi hãy còn dang dở mà!

Hôm ấy Tân đã đi lang thang qua hết phố này và phố khác. Nhưng lạ thay, sau khi đã có chủ đích dứt khoát với Thuý rồi thì Tân mới nhận ra rằng chàng đã yêu nàng tha thiết. Tuy nhiên, Tân vẫn không thấy hối tiếc về việc mình đã làm. Không thể nào có được sự kết hợp giữa hai cuộc sống hoàn toàn khác biệt nhau mà không làm cho một người phải đau khổ. Mà người ấy chắc chắn là Thúy rồi. Yêu Thúy, lấy Thúy để rồi bắt Thúy phải khổ sở vì nếp sống của mình, đó là đoạn kết của cuộc phiêu lưu. Không bao giờ Tân kéo Thúy tham dự vào cái kết cuộc ấy. Thà rằng chàng chịu đau khổ một mình.

Tân đã đi với đầu óc ngổn ngang như vậy qua không biết bao nhiêu con đường. Cuối cùng chàng dừng lại ở một đầu phố quen thuộc. Chàng vụt nhớ đến thầy Chính và cơn bệnh của thầy. Nhìn đồng hồ thấy mới hơn chín rưỡi, Tân gõ cửa nhà thầy. Bà giáo Chính hiện ra trong một vành khăn trang. Tân giật thót người lên. Trái tim của chàng đau thắt lại. Tân vụt thấy như lại có thêm một sự đổ vỡ nữa ở trong lòng. Chàng bàng hoàng nhìn khuôn mặt hằn lên những nét đau thương của bà giáo. Mái tóc của bà xác xơ và đã điểm bạc. Vầng trán hiện ra nhiều nếp nhăn. Hai gò má hóp lại. Cặp mắt sâu trũng vẫn còn lệ ngấn ở hai hàng mi. Bà nói bằng giọng khản đặc của một người đã khóc quá nhiều:

– Thầy mất ba hôm nay rồi. Mộ của thầy để ở Nghĩa trang Bắc Việt.

Tiếng nói của bà làm Tân xúc động thêm. Chàng muốn oà lên khóc. Trên căn gác hẹp, bàn thờ của thầy còn đó, khói nghi ngút che mờ cả bức ảnh chụp hồi thầy còn trẻ. Trán ông cao và phẳng. Cặp mắt tươi vui, láu lỉnh. Cái miệng duyên dáng như lúc nào cũng mỉm cười. Đó là hình ảnh thực sự đã sống trong óc của Tân ngày xưa như là hình ảnh của một thần tượng. Chàng không thể tưởng tượng được lại có một sự liên hệ từ con người ấy với con người mà mấy hôm trước còn nằm ở đây, da bọc xương, mặt hốc hác, nước da xanh rờn với hơi thở khò khè yếu đuối.

Lúc thắp hương cúng thầy xong, Hưng, con trai thầy mời Tân xuống nhà ngồi uống nước. Hưng được nghỉ phép mấy ngày và cũng đang sửa soạn để sáng mai trở về trại. Chỉ có cô Hạnh, con gái của thầy là chưa về kịp vì mới bị băng huyết cách đây một tuần. Căn nhà bây giờ có vẻ trống trải hẳn đi. Ngoài tiếng khóc sụt sịt của bà giáo, Tân chỉ còn nghe thấy tiếng mọt gỗ nghiến trong gậm tủ hay tiếng mối kêu ở trên trần nhà. Hưng trao cho Tân một điếu thuốc lá và nói:

– Ngày trước tôi cũng muốn theo gót thầy tôi làm nghề dậy học. Nhưng chính lớp học của ông đã bóp chết cái ước muốn ấy của tôi.

Tân châm thuốc lá rồi nhìn Hưng tỏ vẻ không hiểu. Hưng tiếp:

– Như anh biết đấy. Hồi cha tôi mở cours riêng ở đường Bàn Cờ, ông cũng bắt tôi ngồi lẫn vào đám học trò để trau giồi thêm môn sinh ngữ. Giọng ông đã yếu, tiếng xe cộ bên ngoài lại càng lấn át nó hơn nữa. Trong lúc ấy, mấy đứa học trò không có lấy một đứa nào có thiện chí ngồi học. Hình như chúng nó chỉ dùng lớp học của ông để làm chỗ gặp nhau hàng ngày.

Ngừng một lát, Hưng tiếp:

– Cho nên, những giờ ngồi trong lớp đối với tôi là một cực hình. Tôi phải nghe giọng của cha tôi lải nhải một cách lạc lõng. Rồi phải chứng kiến luôn cả sự hỗn láo của mấy thằng, mấy con nhãi ranh cùng tuổi tôi và tôi mới lại càng thấy cái sự bạc bẽo của cái nghề cầm phấn trong thời buổi này. Thú thật với anh, hồi đó tôi thù ghét nghề dạy học, thù ghét cái gọi là tuổi xanh hoa mộng của bọn choai choai, và rồi tôi khinh miệt luôn ngay chính cả cha tôi nữa.

Nói đến đây Hưng rướm rướm nước mắt. Chàng vuốt bàn tay lên mặt bàn, ngừng một lát rồi lại nghẹn ngào:

– Bây giờ ông đã nằm xuống. Hoàn toàn được yên nghỉ. Hoàn toàn được giải thoát. Hoàn toàn được rũ bỏ những ưu tư, phiền muộn trong cuộc đời. Nhiều khi người ta chết được thì cũng là một cách tìm thấy hạnh phúc cho bản thân mình.

Tân nói:

– Hồi đó trái lại, tôi đã quan niệm khác anh nhiều. Cuộc đời của Thầy càng đi xuống tôi càng kính phục sự can đảm và bình thản của Thầy. Thầy đã dạy tôi những điều không có trong sách vở, không có trong chương trình của bộ Giáo Dục. Bởi vì bài dạy của Thày, Thầy đã soạn bằng chính kinh nghiệm bản thân của mình với đầy đủ những nỗi niềm xót xa, đau đớn, tủi nhục mà thầy đã từng phải chịu đựng. Tôi không thể nào quên được cái nhìn của thầy vào mặt tôi khi Thầy ném một đồng tiền bán hàng vào hộc tủ. Đó không phải là cái nhìn tự ti mặc cảm, cũng không phải cái nhìn bối rối che giấu sự chua xót bên trong, nhưng chính là cái nhìn thản nhiên can đảm, không tự hạ mà cũng chẳng tự kiêu, không oán hờn mà cũng chẳng an phận. Tôi đã cảm nhận được lại hết cái quan niệm của Thầy về cuộc sống bằng những giây phút cảm thông như thế.

Hưng trầm ngâm:

– Đó cũng là một điều hối tiếc lớn lao trong đời tôi. Ngày trước tôi không có được cái nhìn sáng suốt ấy như của anh. Trước mắt tôi, tôi chỉ biết tôi có một người cha thấp kém, hèn hạ, thua thiệt ngay với cả những đứa học trò mới vừa nứt mắt ra đời. Chỉ đến khi nhận được tin ông từ trần tôi mới thấy hết sự chua xót mà ông chịu đựng một cách can đảm. Nhưng lúc biết ra thì đã muộn. Cuộc đời tôi toàn là những chuyến tầu trễ muộn màng như vậy cả!

Ngừng một lát, Hưng lại bùi ngùi tiếp:

– Vì không cảm thông được với cha tôi, nên tôi tình nguyện xin vào lớp sĩ quan Thủ Đức. Ở đấy, tôi đã tìm thấy chỗ trú chân yên ổn, ít ra là trong suốt thời gian học tập. Bởi vì ở trong ấy, tôi đã bị họ quần cho từ sáng đến tối không có mấy lúc đầu óc rảnh rỗi để mà suy nghĩ vẩn vơ. Chỉ có mỗi một sự thèm khát duy nhất là thèm ngủ. Chao ôi, chẳng bao giờ tôi tìm được quãng thời gian ít phải suy nghĩ đến như bây giờ!

Tân nói:

– Nhưng rồi cũng sẽ có một ngày anh phải ra trường để đối diện với thực tế chứ!

– Tất nhiên là như vậy. Nhưng tôi sẽ tự cho tôi là một kẻ mù lòa, mặc cho cuộc đời lôi kéo. Đi đằng nào, lối nào tôi cũng chấp nhận, mà chấp nhận một cách nhiệt thành chứ không than van, miễn cưỡng gì cả.

– Đó cũng là một quan niệm sống rõ rệt của anh, mà có khi lại thích nghi với đời sống trong quân ngũ vì nhiệm vụ của lính tráng là triệt để tuân lệnh cấp chỉ huy. Có khi như thế lại hóa hay, chứ cứ phần đông như tôi chỉ hay suy luận, rồi ngập ngừng mà không quyết định được gì cả, cuối cùng thì cũng chỉ trở thành những kẻ chỉ nằm yên một chỗ để chờ cái guồng máy cuốn đi, mà nhiều khi còn bị nó nghiền cho đến khốn đốn.

Hưng lắc đầu:

– Tôi thì lại nghĩ khác. Tôi tin rằng chính các anh mới là những người chiến thắng cuộc đời. Hay ho gì cái kẻ đầu hàng sự sống như tôi ngay từ lúc mới nhập cuộc.

Tân kêu lên:

– Thì cuộc sống của anh không phải là cuộc đời đáng sống hay sao?

– Nó vẫn đáng sống đấy chứ. Nhưng chỉ đối với những con người hoàn toàn thụ động như tôi. Bởi vì tôi không còn quyền hành gì để quyết định riêng cho mình. Nay mai, ở quân trường ra, số mạng của lũ chúng tôi nhiều khi chỉ phụ thuộc vào một nét bút phẩy tay trên bản đồ hành quân mà ở phía sau nó là cả một hậu trường tràn ngập khói lửa, bom đạn và hàng chục, hàng trăm con người gục ngã, cả bên này lẫn bên kia.

Nhgừng một giây, Hưng tiếp:

– Nhưng tôi đã chấp nhận đời sống tập thể thì từ nay tập thể sẽ chỉ đường vạch lối cho tôi làm. Như một cơ phận trong guồng máy. Như một giọt nước chẩy xuôi theo dòng. Thế thôi anh Tân ạ.

Hai người nói chuyện đến gần mười hai giờ. Tân đứng dậy cáo từ sau khi thắp thêm một tuần hương trên bàn thờ của thầy Chính.

Thành phố đã trở về khuya.

Bóng Tân cô đơn in trên đường vắng. Đầu óc của chàng cứ lẩn quẩn mãi trong cái hình ảnh mà Hưng vừa mới trình bầy: Số mạng của lũ chúng tôi nhiều khi chỉ phụ thuộc vào một nét bút phẩy tay trên bản đồ hành quân. Ô, cuộc đời này thế mà phức tạp thật. Mỗi người một hoàn cảnh, mỗi cuộc sống có một vấn đề riêng rẽ. Như thế thì chuyện viết lách có thiếu gì đề tài để khai thác. Chàng bỗng nghĩ đến những nhân vật như thầy giáo Chính, như Hưng hẳn cũng sẽ phải có mặt trong tác phẩm của mình.