Chương 2
Tân quen lão trong một dịp tình cờ. Hôm ấy chàng thơ thẩn tại một công viên để suy nghĩ về một đoạn bế tắc trong cái truyện dài đang viết. Trời đổ cơn mưa. Chàng chạy đến núp dưới một hàng hiên rộng. Lão Phấn cũng đang ngồi ở đó.
Bây giờ nom lão lại còn bết bát hơn trước. Đầu tóc của lão rối bù như tổ quạ. Khuôn mặt hom hem, cằn cỗi. Hai mắt của lão trũng xuống như hai cái hố sâu. Râu ria của lão mọc lủa tủa, rối rắm những sợi bạc phơ. Lão không còn cái vẻ khỏe mạnh cứng cáp ngày xưa. Dáng điệu của lão đầy vẻ mệt mỏi bơ phờ. Hai đầu gối thì run rẩy, lúc ngồi một mình, lão hay dùng bàn tay tỉ mẩn cấu từng sợi cói rách mướp trên mảnh chiếu nhẽo nhèo mà lão vẫn cuộn mang theo mình.
Cơn mưa làm hai người thêm gần gũi. Tân ngồi xuống thềm đá, mắt nhìn ra ngoài mưa. Chàng châm một điếu thuốc. Khói thuốc lùa vào hai lỗ mũi lão Phấn làm mặt lão hếch lên, đôi mắt như chợt sáng rực.Rồi lão xòe tay xin một điếu. Tân châm lửa giùm lão. Hai người phì phèo tận hưởng cái thú hút thuốc trong bụi mưa đang hắt mãi vào tận trong hiên. Cơn mưa ngày càng trở nên nặng hạt hơn trước. Nước đổ xuống rào rạt làm trắng xóa những lùm cây, những nóc nhà cao, các đường phố. Lão Phấn chợt cất giọng nói bâng quơ:
– Mưa mãi thế này thì chết hết. Thợ gạch, thợ hồ cũng chết luôn.
Tân hỏi:
– Bộ lão cũng làm thợ hồ hả?
– Không! Con gái tui. Tui có mỗi mình nó, mà nó thì ở mãi tận Ban-Mê-Thuột kìa.
– Ủa, thế sao lão không lên ở cùng với chị ấy?
– Chèn ơi! Nó nuôi nổi được chồng nó, con nó là tôi mừng rồi, mình ăn bám nó làm chi.
Ngừng một giây, lão tiếp:
– Bây giờ thất nghiệp dữ quá hả. Hồi răm bẩy tháng trước, thằng chồng nó cũng đi làm được ít bữa, rồi lại nằm khoèo. Vậy là hết mong lên trển thăm cháu tui rồi. Nghe nói nó giống mẹ như in mà cậu.
Tân an ủi:
– Chẳng lo gì đâu! Mọi sự rồi cũng qua hết. Mà biết đâu hồi này ảnh chẳng có việc làm đàng hoàng rồi. Bộ lão không liên lạc thư từ gì hết sao?
Lão bật lên cười:
– Thơ từ cái gì. Có địa chỉ ở đâu mà nó gởi. Nhà tôi là đây, là đó, là lu bù hết thẩy khắp Sè- goòng. Bây giờ nếu tôi có chết ngắc tụi nó cũng hổng hay.
Tân ngạc nhiên:
– Đâu có thế được! Các anh chị ấy phải xuống đây mà tìm lão chớ.
Nhưng rồi Tân lại chép miệng:
– Mà điều thành phố đông đúc thế này, không có địa chỉ thì biết đâu mà tìm. Hay là lão lên trển thăm họ đi.
– Cậu nói dễ nghe hôn. Vài trăm đồng tiền xe, bộ đi lượm được đó chắc? Hồi tháng trước tui để dành được chừng non trăm bạc, tối ngủ ngoài hiên nhà người ta, không biết thằng ôn dịch nào lần lưng, moi hết.
Ngừng một lát lão chép miệng:
– Mà tui cũng nghĩ lại rồi. Mình lên đó làm chi cho chúng nó lại phải đèo thêm gánh nặng. Con Phấn mà nó biết tui như vầy, chắc nó lăn đùng ra chết luôn. Nó thương tui lắm, mà cậu!
– Lão nghĩ vậy không được. Bề nào thì cũng có con ở đó, cháu ở đó. Biết đâu hồi này họ ăn nên làm ra, họ chẳng cầu mong cho lão trở về để cả nhà xum họp. Mà coi chừng họ cũng đã về Sài Gòn tìm kiếm rồi mà không gặp lão đó nghe.
Lời nói của Tân khiến lòng lão Phấn chợt bừng lên một tia sáng hy vọng. Lão bỗng có cảm giác như vợ chồng Phấn cũng đã từng đi tìm kiếm lão ở khắp mọi hang cùng ngõ hẻm, rồi không thấy nên lại bỏ đi. Thốt nhiên, lão bưng mặt, tu lên khóc. Tân lại an ủi:
– Chẳng hề gì đâu lão ơi. Nếu lão có địa chỉ của họ thì tôi viết thư lên hỏi giùm cho. Thời buổi này, Sài gòn với Ban Mê Thuột đâu có xa xôi, cách trở gì.
Lão Phấn nghe ra, mừng cuống quít:
– Ừ, phải đó. Cậu Hai nói trúng đó. Mình biên thơ lên trước dò đường. Nếu coi mòi nó làm ăn khấm khá thì hẹn nó ngày giờ về đón mình. Chèn ôi! Có vậy mà tui nghĩ hổng ra chớ!…
– Vậy lão còn nhớ địa chỉ của họ không?
Lão rối rít:
– Nhớ chớ! Nhớ chớ! Coi nào, tui vẫn cất thơ của tụi nó trong đây. Để tui lấy cậu coi.
Nói rồi lão mừng rỡ, run rẩy lần trong thắt lưng moi ra một gói giấy nhầu nát rồi nói:
– Hồi bị lấy mất tiền, may mà tụi nó vứt trả lại tui mấy thứ này. Thế còn là phước cho mình lắm đó. Có nhiều thằng ăn cắp bất nhân, thứ gì xài không đặng là chúng nó còn liệng hết xuống cống kìa.
Đoạn lão trao cho Tân xem thư và ảnh vợ chồng Phấn. Tân thấy ngoài phong bì đề tên Huỳnh-văn-Sự, hãng xe đò Đại-Việt, Ban-Mê-Thuột. Chàng nói:
– Thế này tốt rồi. Tôi sẽ cố giúp lão để liên lạc với ảnh. Lão muốn nhắn gì thì nói đi. Tôi viết giùm cho.
Vừa nói chàng vừa lấy bút và sổ tay ra, rồi ngồi xích vào bên cạnh lão. Lão rít. một hơi thuốc lá, ngẫm nghĩ rồi nói:
– Bề nào thì tui cũng hổng thể cho tụi nó hay là tui khốn đốn như vầy. Tui muốn biểu tụi nó là bây giờ tui sướng bằng lên tiên. Chúng nó mời tui lên chơi cũng đặng mà hổng mời tui cũng đặng. Tôi hổng muốn làm phiền con cái mà. Cậu nghe kịp chớ?
– Dạ kịp.
– Lại nhờ cậu nhắn giùm chúng nó là cấp này tui được lên lương.
Tân ngạc nhiên:
– Lão làm cái gì mà được lên lương chứ?
– Thì phải nói thế để cho chúng tin mình, chúng khỏi lo.
Nhưng ngẫm nghĩ thế nào, lão lại đổi ý:
– Ui, thời buổi này, công việc còn chẳng có, lại đi nói “chiện lên lương”. Thôi, cậu “phò” tui đi. Tui chẳng còn nghĩ ra được cái gì hết trọi.
Tân mỉm cười:
– Bảo rằng lão thăng chức được không? Thiếu gì trường hợp thăng chức mà chẳng tăng lương.
– Ui, cái thứ khuân vác như tôi mà chức tước cái gì! Nghe hổng xuôi cậu ơi.
Tân cãi lại:
– Sao không! Lão thuộc loại công nhân. Vậy tôi “thăng” cho lão lên làm đại diện công nhân thì có được không? Đại diện công nhân thì cũng hiểu ngầm được là có thêm tí chức, tí lương rồi!
Lão lo lắng:
– Nhưng đại điện công nhân thì làm những cái thá gì? Cậu phải bầy cho tui hay trước, ngộ mai mốt nhỡ có gặp tụi nó thì mình mới biết đàng mà ăn nói chớ.
– Cứ yên chí đi. Mình còn gặp nhau mà. Rồi tới đâu hay tới đó. Cần nhất là phải bắt liên lạc được với họ trước đã.
– Vậy cậu ở đâu? Cậu vẽ cho tui cái nhà để tới hồi tôi đi tìm cậu cho dễ.
Tân vẽ đường đi cho lão trên một mảnh giấy. Lão nhận lấy rồi chắp tay xá chàng lia lịa. Tân vội nói:
– Lão đừng làm thế mà cũng đừng phải lo nghĩ gì nữa. Tôi xin hết lòng làm giúp. Tôi tin là thế nào lão cũng sẽ tìm được con cháu. Ban Mê thuột ấy mà, chớ có ở Tây, Tầu, Nga, Mỹ gì cho cam. Chừng nửa tháng nữa lão đến tìm tôi, tôi cho hay kết quả. Nhớ giữ cái giấy vẽ địa chỉ của tôi để có cái mà tìm, chớ đánh mất nữa thì hỏng hết chuyện.
Mặt lão hớn hở, miệng nở nụ cười tươi rói:
– Mất sao đặng. Nó là cái chỗ để tôi tới được con tôi, cháu tôi mà.
Trời vừa ngớt cơn mưa. Tân tạm biệt lão đứng dậy. Lão Phấn nhìn theo Tân cho tới khi bóng chàng khuất dạng.
Lá thư ấy Tân gửi đi giùm lão Phấn được mấy ngày thì bị trả lại vì không có người nhận. Tân lại viết cho ông chủ hãng xe đò Đại Nam để hỏi thăm tin tức về người công nhân tên Huỳnh-văn-Sự. Chàng lại được ông ta trả lời là Sự chỉ cộng tác với hãng của ông có ba tuần lễ. Sau đó Sự xin nghỉ để đi làm rừng. Thế là tan tành giấc mộng đoàn tụ ngắn ngủi của lão Phấn. Chàng không khỏi buồn lòng cho lão và cũng không khỏi ngạc nhiên khi thấy trong thời gian chàng trao đổi thư từ với Ban Mê thuột, cũng không thấy lão tìm tới hỏi han.
Những ngày tiếp theo, Tân trở lại chỗ cũ, có ý chờ đợi lão để báo cho lão cái tin không vui này. Nhưng lão cũng không tới. Không bao giờ lão còn tới nữa cả. Tân đã đi cùng khắp các công viên quen thuộc, các cổng chùa, các hàng quán tụ tập đông người ở những khu vực quanh đó, nhưng lão đã biệt vô âm tín.
Có lẽ lão đã bị lùa tới một trại tập trung những ăn mày nào đó để khỏi làm mất vẻ mỹ quan của thành phố. Hay lão đã ngã bệnh và nằm dấp dúi trong xó xỉnh của một nhà thương thí nào. Những ý nghĩ này có thể đã gieo vào lòng Tân một đôi chút ngậm ngùi, xót xa nhưng rồi nó cũng tan biến ngay đi như một đám mây u ám trước một cơn mưa rào. Hình ảnh của lão đối với Tân cũng chỉ vụt đến rồi vụt đi như bao nhiêu nhân vật khác xấu số khác đã đến với chàng trong đầy rẫy những hoàn cảnh sống mà chàng đã từng trải qua. Đối với lão, Tân tự thấy mình đã làm đầy đủ nhiệm vụ như lời đã hứa.
Sau những giờ vùi đầu vào việc viết tác phẩm, thỉnh thoảng Tân mới thò mặt ra ngoài, hoặc để chơi vài ván cờ với lão Qưới, hoặc đi ăn một bát cháo trắng với hột vịt muối ở hàng mụ Quảng. Cũng có khi thì chàng lại nằm yên trên giường, nghe vợ chồng Tư Huy, vợ chồng mụ phó Diễn bên nhà ngay sát vách đánh nhau chửi nhau, lắm lúc trước nhỏ sau to, đến trở thành tán loạn cả hàng xóm.
Tiền chi tiêu hàng tháng, Tân trông vào mấy nghìn bạc mà Vũ dúi cho chàng sau khi phòng tranh của Vũ bế mạc. Cuộc triên lãm của hắn coi như khá thành công. Dư luận báo chí thủ đô khen hắn nồng nhiệt. Một vài họa sĩ lão thành đã đích thân viết bài nhận xét về tranh của Tạ Vũ, coi như gián tiếp chấp nhận là hắn đã thực sự được đặt chân vào thế giới của những nhà hội họa chuyên nghiệp. Tuy nhiên, phần lớn tranh bán được trong suốt hai tuần triển lãm lại chỉ là do những người ngoại quốc đặt mua. Cứ mỗi lần Bích hoan hỉ ghim mẩu giấy đề chữ “Sold- Bán rồi” ở cạnh bức tranh thì mặt Vũ lại chẩy dài ra. Hắn nói:
– Chả báu gì đâu. Hết triển lãm, họ ‘bê” tranh đi rồi là vĩnh viễn không còn bao giờ được thấy lại nó nữa!
Rồi hắn lại càm ràm thêm:
– Còn xót xa hơn là cái cảnh bán con cho người ta làm con nuôi nữa.
Nghĩ cho cùng thì Vũ cũng có lý ở điểm này. Không như một bản nhạc hay cuốn sách, mỗi bức tranh là một sản phẩm duy nhất của họa sĩ sau những giờ phút miệt mài sáng tạo. Một khi người mua mang họa phẩm đi rồi thì cơ hội được nhìn ngắm lại nó hầu như chỉ là chuyện đáy bể mò kim. Có lẽ sự thiệt thòi nhất của giới họa sĩ chính là ở cái điểm này đây. Cũng có kẻ, dĩ nhiên là ở ngoài giới hội họa, đã có lần gợi ý với Vũ là hãy “sao” lại mỗi bức tranh mình thích trước khi đem nó ra bầy bán. Nhưng Vũ đã trợn mắt nhìn hắn ta như một quái vật:
– Chuyện ruồi bu! Bộ tớ hết tài rồi hay sao mà lại phải đi “sao” lại chính tác phẩm của mình? Mà có làm như thế thì cũng chẳng thể nào “sao” được những giây phút xuất thần trên giá vẽ.
Như thế, người họa sĩ luôn luôn phải cắn răng lại khi thấy người mua tranh gói ghém đứa con tinh thần duy nhất có một bản của mình rồi đem chở ra xe. Chẳng trách được Vũ đã phải than lên:
– Chả báu gì đâu. Hết triển lãm, họ ‘bê” tranh đi rồi là vĩnh viễn không còn bao giờ được thấy lại nó nữa!
Tuy nhiên, nói gì thì nói, tất sẽ chẳng có bất cứ một họa sĩ nào khi mở một cuộc triển lãm tranh lại không mong mỏi có nhiều kẻ yêu hội họa tới mua tranh của mình. Đó là một nghịch lý bắt nguồn từ cái sự “tranh vẽ rồi mà không bán được thì tiền ở đâu ra mua vải cọ mà bột mầu để mà vẽ tiếp!”
Sau cuộc triển lãm lần này, chẳng những Vũ có dư tiền để mua thêm bột mầu và khung vẽ mà lại còn sang được hẳn một căn nhà rộng rãi, khá khang trang dù nó nằm ở một khu bình dân, chẳng có vẻ gì là sang trọng lắm. Hôm ăn mừng nhà mới, Vũ nói với Tân:
– Nếu tác phẩm của cậu được in ra vào dịp này thì hoàn toàn biết mấy. Tớ có phòng tranh, cậu có sách. Được như thế mới là vui trọn vẹn.
Ngừng một lát, hắn lại hỏi:
– Mà cậu vác cối đá đến đâu rồi? Gớm, tính rặn đẻ ra rồng ra phượng gì hay sao, mà lâu thế!
Tân nhún vai:
– Thì cũng phải từ từ chứ. Viết văn đâu có phải bổ củi như cụ Tản Đà đã nói đâu.
Vũ mỉm cười:
– Ừ, thôi cũng chẳng nên vội vã làm gì. Tôi kỳ vọng cậu sinh ra một thằng con hồng hào khỏe mạnh chứ không phải thứ bụng ỏng đít teo, mới thò mặt ra đã bị bàn dân thiên hạ bĩu môi dè bỉu rồi.
Tân đáp:
– Ui, tớ chẳng kỳ vọng con “rồng, con “phượng” gì như cậu nói đâu, nhưng dĩ nhiên là cũng không ẩu tả đến độ bạ gì viết nấy. Lắm lúc cong cổ lên viết thâu đêm hàng xấp giấy, đến hôm sau ngồi đọc lại thấy chả ra gì lại đem đi nhóm bếp. Cứ như bị ma quỷ nó ám vậy!
Bích chen vào:
– Này, dám thế lắm đấy anh Tân ạ! Hay là… hay là…mình lên đền xin một cái lễ đi!
Vũ chợt ré lên cười:
– Ôi chao, cái thứ ngựa vía này! Cô học được ở đâu cái thói tin vào thánh vào thần từ bao giờ thế?
Bích xông lại giơ bàn tay búp măng ra bịt ngay lấy miệng Vũ rồi nói:
– Đừng có mà nhạo báng thánh thần..
Rồi Bích nũng nịu lăn vào hai vòng tay chồng, dí một ngón lên trán Vũ, nói tiếp:
– Cứng đầu, dắn mặt lắm có ngày thánh vật cho đó!
Thế là hai người ôm chặt lấy nhau, hôn nhau túi bụi làm Tân phải giả tảng quay đi.
Hạnh phúc của hai người khiến Tân tranh nghĩ đến Thúy. Đã lâu lắm Tân không được biết tin tức gì về Thúy cả. Cũng đã từ lâu, chàng tránh né không đi qua khu phố quen thuộc của nhà nàng. Những kỷ niệm buồn bao giờ Tân cũng cố gắng chôn sâu. Nhưng rút cục Tân nhận ra một điều là không bao giờ chàng có thể trốn tránh nó được vì hình ảnh của Thúy, mỗi khi có dịp lại bùng lên trong ý nghĩ của chàng. Tim chàng nhói đau. Lòng chàng quặn thắt. Tuy thế, chưa bao giờ chàng lại hối tiếc về sự đã quyết định rời xa Thuý của mình. Chàng đã thấy rõ Thuý có nhiều ảo tưởng. Đã rất nhiều lần Tân cố gắng đập phá cái ảo tưởng mà Thúy tưởng như đã tìm thấy trong con người của chàng:
– Thúy phải thực tế hơn mới đưọc. Cuộc đời gai góc lắm chứ không chỉ có một mầu hồng như Thuý đã nhìn qua tôi đâu.
Thúy đáp lại bằng một giọng bùi ngùi:
– Thúy có cảm giác rằng anh đang bỏ rơi những tiểu tiết để đi tìm cái gì cao xa hơn. Nhưng chính vì thế Thúy lại yêu mến anh ở thái độ đó.
Tân đã mỉm cười:
– Thúy mắc phải cái bệnh chung của nhiều người là hay thần thánh hóa những điều rỗng tuếch rồi coi đấy là lý tưởng đáng tôn sùng. Có thể đó là do sự nhẹ dạ, cả tin. Có thể là do sự lười biếng đào sâu suy nghĩ cho đến tận cùng của vấn đề. Mà cũng có thể là do cái sự a-dua, bè phái với nhau nữa!
– Em chỉ nói về anh thôi. Chưa bàn đến những cái gì cao xa khác.
– Ô! Về tôi thì lại càng rõ hơn nữa. Trong hoàn cảnh của tôi, nhiều lúc phải ăn nhờ một bữa cơm, chịu ân huệ một bát cháo, lắm lúc ước ao làm sao chỉ cần có vài chục bạc trong túi để mua một vài tờ tạp chí hay một cuốn sách mới ấn hành. Như thế Thúy bảo còn đầu óc đâu mà suy tưởng đến những chuyện cao xa. Cuộc đời thật ra rất giản dị nếu ai cũng biết nhìn vào khía cạnh thực sự của nó.
Có thể trong lúc trò chuyện đó, Thúy đã không hiểu và cho Tân là kẻ kiêu hãnh ngầm hay gàn dở. Nhưng Tân tin rằng có ngày Thúy sẽ hiểu ra, sẽ thấy rõ sự chọn lựa của chàng là sáng suốt. Điều ước ao cuối cùng của Tân là mong Thúy hiểu ra rằng chàng từ chối tình yêu đối với Thúy chính là vì chàng đã quan tâm tới đời sống hạnh phúc của nàng.
Thời gian trôi qua mau chóng, đến hồi đầu tháng chạp thì Tân được tin Thúy sắp sửa kết hôn với Đạt, một luật sư tập sự đang chuẩn bị chính thức tuyên thệ trước Luật sư đoàn. Đạt lại quen với Vũ. Theo lời Vũ kể thì Đạt trẻ tuổi, hào phóng, tính tình chân thật và cởi mở. Tân như thấy mình đang ngụp lặn giữa một dòng sông tối đen như mực nhưng chàng cũng cố ngoi lên để cất một tiếng thở dài nhè nhẹ:
– Như vậy là mừng cho Thúy. Kể ra như thế thì họ thật là đẹp đôi. Nhưng bao giờ thì họ cưới nhau nhỉ?
Vũ đáp:
– Còn chờ Đạt vô xong Luật sư đoàn cái đã. Coi như đại đăng khoa rồi mới tiểu đăng khoa chứ.
Ngày hôm được cái tin vui mà cũng rất buồn đó, Tân bắt Vũ chở mình đi uống rượu. Hai người lại vào tiệm Au bon coin và ngồi ở cái bàn mà bọn chàng vẫn chọn. Chỉ khác lần này vắng mặt Bích vì nàng bị xẩy thai và còn đang ở thời kỳ tĩnh dưỡng. Vũ nói:
– Sau tai nạn đến với Bích, mình mới thấy sự có mặt của đứa con là vô cùng ý nghĩa. Nó sẽ như vầng dương soi sáng bầu trời hạnh phúc, sẵn sàng xua tan đi mọi nỗi ưu tư, phiền muộn hoặc những va chạm dù nhỏ nhặt trong gia đình. Tội nghiệp Bích. Từ ngày biết mình có thai, trong mọi câu chuyện, bao giờ Bích cũng có cách để quay sang nói về đứa bé. Bích đã sửa soạn cho nó biết bao nhiêu là thứ cũng như dệt bao nhiêu ước mơ về nó.
Rồi Vũ cũng vẫn không bỏ được cái tính bờm sơm của mình:
– Thế đấy! Khi lập gia đình rồi, mình cứ chui cổ vào hết tròng này lại đến tròng khác. Mà …ôi….cái tròng nào thì cũng đều phiền toái một cách êm ả như nhau cả!
Ngừng một chút, chợt Vũ hỏi:
– Thế còn cậu thì sao? Cứ cơm hàng cháo chợ mãi như thế sao?
Tân mỉm cười:
– Sự tự do nào mà không phải trả giá. Còn có cơm hàng cháo chợ mà sống qua ngày là may. Từ ngày xa Thuý, tớ chưa bao giờ lại thấy thỏai mái như bây giờ.
Vũ gật gù:
– Ừ! Nhớ lại cái thời bông lông, đếch phải ràng buộc vào chuyện gì, tớ cũng thấy đó là những ngày thần tiên. Bây giờ, nửa đêm chợt thức giấc, muốn nhỏm dậy ra ngồi trước giá vẽ thì vợ nó ì sèo không cho. Chờ đến sáng mai thì bao nhiêu hứng đã bị tiêu ma mẹ nó đi hết rồi.
Tân kêu lên:
– Ui, thế thì cậu sắp sửa trở thành công chức mất rồi. Sáng chờ vợ gõ kẻng thì ngồi vào giá vẽ, sau tám tiếng nó lại gõ tiếp, thế là buông bút, buông cọ đứng dậy, chờ hôm sau. Phải thế không?
Vũ lắc đầu:
– Đâu mà đến nỗi đeo gông ra Côn Đảo như thế! Cuộc đời thằng họa sĩ mà đến như vậy thì quăng cha nó giá vẽ đi cho rồi. Ở đây, Bích chỉ ra cho tớ có mỗi một cái luật thôi, đó là muốn thức đêm vẽ vời gì thì cũng được, nhưng hễ đã buông cọ vào giường rồi thì cấm “nhỏm” dậy ra ngoài vẽ tiếp. Khởi đầu thì tớ cũng ấm ức lắm, nhưng riết rồi cũng quen đi. Thôi, nhịn vợ một tí, nhịn vẽ một tị. Cho nó êm cửa êm nhà!
– Cứ cung cách ấy hèn chi hồi này thấy cậu béo trắng hẳn ra. Còn đâu cái diện mạo của thằng Vũ quanh năm hốc hác, dơ bẩn như một thằng ăn mày.
Vũ cười rích lên thích chí và hắn thấy lòng lâng lâng như vừa tợp một ly rượu mạnh khi hình ảnh của Bích chợt hiện ra choáng ngợp cả tâm hồn của mình.
Đêm hôm ấy, khi trở về căn buồng quây vách ván có cái mái lá thấp tè, Tân lại lôi xấp bản thảo ra nằm úp sấp để cặm cụi viết.
Không hiểu mình đã bị thay đổi thói quen từ bao giờ, những ngày tháng gần đây, Tân chỉ viết được vào ban đêm. Có lẽ vì ban ngày, căn buồng nóng hầm hập như một cái lò hơi, có nhiều hôm mồ hôi của chàng vã ra, ướt nhòe cả bản thảo. Mà cũng có thể vì những tiếng động ồn ào ở cả cái khu xóm lao động này từ ngoài ngõ vọng vào. Đó là chưa kể ở sát ngay vách buồng bên, nhiều hôm Cúc cười đùa, chửng rỡn với khách khứa rồi sau đó là tiếng kéo màn soàn soạt, tiếng rửa ráy bì bõm và những tiếng của cái nắp bô hay vại nước va chạm vào nhau kêu loảng xoảng. Ấy vậy mà trên những trang bản thảo nhằng nhịt những chữ của mình, vẫn có những đoạn văn mà sau này khi đọc lại, Tân cũng chẳng hiểu tại sao mình lại có thể viết lên được trong cái tình cảnh ấy. Thí dụ như: ” Hơi thu nhẹ nhàng lan tỏa qua những kẽ lá, phả xuống mặt hồ một làn sương mỏng, như ẩn như hiện, tản mạn vây quanh những bông sen đầu mùa đang bắt đầu hé ra những lốm đốm nhị vàng nổi bật trên những cánh lá mầu trắng ngần tinh khiết.“. v…v..
Tân hay mỉm cười một mình:
– Hơi thu..hơi thu…chẳng hiểu sau này có độc giả nào nhận ra rằng cái hơi thu đó đã nẩy nòi ra từ một căn buồng vừa chật, vừa thấp dưới lớp mái lá cứ rộp cong lên vì cái nắng nung nấu suốt ngày.
Có hôm Tân ngủ gục ngay trên những trang bản thảo của mình. Sáng ra, thấy Cúc mở cánh cửa gỗ trên vách, thò đầu sang cuời rúc rích:
– Khiếp, anh học cái gì mà chữ nghĩa “kinh” thế. Lục sục suốt đêm rồi ngủ vùi trên cả sách vở. Nhắm đậu cái bằng tiến sĩ đó chắc?
– Đâu có, tôi viết lách lăng nhăng ấy mà.
– Thôi đừng có giấu! Anh tài cao học rộng như thế, mai mốt ông Nghè, ông Cống mấy hồi. Nhớ đừng có quên em nghe anh.
Tân mỉm cười cãi lại:
– Chả Nghè, Cống gì đâu. Làm thằng văn sĩ quèn còn chưa xong đây mà.
Cúc há mồm:
– A! Thế ra anh là nhà báo hả? Hèn chi….
– Hèn chi cái gì?
– Hèn chi đói rách như tổ đỉa chứ còn làm sao. Không nghiện oặt-sà-lai thì còn là may lắm đó.
Nói xong Cúc rích lên cười rồi thụt đầu về, kéo cái cửa gỗ sập trở lại. Thế nhưng chỉ một lát, lại thấy tiếng nàng vọng sang:
– Đêm qua em tính mò sang với anh, mà anh ngủ say như chết!
Tân giật mình:
– Cô sang hồi nào?
– Lu bù! Có hôm anh chả biết mẹ gì như hôm qua. Cũng có hôm anh quều quào như cái thằng đi trong mơ! Nhớ không?
– Tôi chả nhớ gì hết.
Cúc giận dỗi:
– “Yêu” nhau đến thế mà nói hăn hẳn ra rằng chẳng nhớ gì hết. Cái đồ bạc như vôi!
– Tôi nói thiệt mà…Mà có nhớ thì cũng nhớ..mang máng!
– Quạ tha ma bắt nhà anh đi. Hùng hục như trâu điên mà còn nói “mang máng”!
Tân nhăn nhó, lắc đầu rồi bỏ mặc cho Cúc càm ràm, chàng ra chum múc nước rửa mặt. Quả tình, chàng cũng đã mang máng nhớ rằng mình cũng đã làm tình với Cúc đôi ba lần, trong bóng đêm mù mịt và trong cái tâm trạng chập chờn nửa thức nửa ngủ. Thật tình, Tân cũng chẳng thể ngờ được rằng mình đã đổ đốn đến như thế.
Rồi ngày tháng qua đi, cứ vật vã mãi rồi cuối cùng thì Tân cũng hoàn tất được thiên truyện dài của mình với gần bốn trăm trang viết tay chi chít vào một đêm mưa gió sụt sùi. Đó là thành quả của những ngày lao động cực kỳ khổ nhọc mà cũng đã có nhiều lần chàng muốn quẳng bút buông xuôi.