Chương 4
Độ chừng hơn nửa tháng sau, một hôm Vũ hớt hải chạy đến tìm Tân. Hắn báo tin cho Tân biết là có một nhà xuất bản nhận in tác phẩm của chàng. Tân lặng người đi vì cái tin vui đã đến thật quá bất ngờ.
Trong nhiều đêm vào thời kỳ còn đang sáng tác, Tân đã luôn luôn mường tượng đến giây phút này đây, cái giây phút nhà xuất bản báo tin sẽ nhận in tác phẩm của mình. Nỗi vui mừng làm Tân thấy nôn nao hết cả người lên, nhưng chàng cố gắng trấn tĩnh để không rơi vài tình trạng mừng hụt:
– Đừng có vội tin. Coi chừng lại là một lời hứa hão!
Vũ trợn mắt lên:
– Hão sao được. Tớ đã nghe noi chắc như đinh đóng cột mà!
Tân tin ngay lời Vũ nói, nhưng chàng vẫn tự nhủ dù in hay không in thì mọi sự vẫn phải coi như bình thường. Sẽ không có gì thay đổi cả. Tuy thế, dù tự nhủ cách nào, Tân vẫn không tránh khỏi nỗi bàng hoàng cứ ngự trị choáng ngợp hết cả đầu óc của chàng. Chàng ngồi xuống tấm phản gỗ, mắt nhìn ra chung quanh. Mọi vật vẫn nằm yên ả dưới cái nóng nung nấu buổi trưa. Mái lá phía trên vẫn chằng chịt mạng nhện, thỉnh thoảng có một cọng khô kêu lách tách như đang cựa mình. Trên mặt bàn viết, một lớp bụi mỏng sáng lên dưới ánh nắng xiên khoai. Ở giữa bàn là một xấp giấy trắng nhằng nhịt chữ viết bằng một màu bút chì. Đó là những trang sơ thảo tác phẩm thứ nhì của chàng. Lần này Tân dự định viết về những con người vất vưởng sống bên ngoài lề cuộc đời. Chàng đặt tên nó là cuốn Ngoài Phố. Bản thảo, Tân đã viết được gần tám mươi trang. Tám mươi trang giấy với những hàng chữ bò ngoằn ngoèo, có khi chẳng thẳng lối ngay hàng, đã chứa đựng, đã chứng kiến những giờ phút khó khăn, ngặt nghèo nhất mà Tân đã phải trải qua. Nhưng cũng chính từ đó, Tân đã tìm thấy biết bao tình người ở trong cái nơi chốn nghèo khó tối tăm này.
Cái tin bất ngờ mà Vũ vừa mang tới đã đem lại cho Tân một niềm khích lệ lớn lao đến tưởng như trong phút chốc, bao nhiêu nỗi ưu tư hắc ám, bao nhiêu tự ti mặc cảm đều vụt biến đi đâu hết khiến cho chàng chợt thêm yêu đời và lòng thêm hăng hái khi nghĩ tới cái công trình thứ hai đang dang dở của mình. Chàng xin Vũ một điếu thuốc rồi nằm ruỗi dài trên giường. Thấy Tân không nói năng gì, Vũ ngạc nhiên hỏi:
– Ê! Cái thằng gàn dở này! Nó nhận in sách mà không thấy mừng rỡ gì cả hay sao?
Tân nhin Vũ mỉm cười:
– Sao lại không mừng rỡ! Nhưng cứ hãy từ từ xem sao. Mình đã ăn khá nhiều bánh vẽ rồi. Chả chơi dại, cứ nhẩy cỡn lên rồi thì mặt lại dài thêm ra.
Vũ quả quyết:
– Lần này thì không như thế nữa đâu. Hôm qua tớ gặp thằng chủ nhà xuất bản Nam Phong, nó túm lấy tớ ở ngay giữa phố rồi la toáng lên ” Cậu có gặp thằng Tân ở đâu không? Nó chết giúi ở đâu mà tớ tìm hoài không ra”. Rồi nó báo tin là nó sẽ bỏ tiền in cuốn Xóm Lá của cậu. Úi giời ơi, chẳng hiểu nó ăn phải cái giống gì mà đưa tác phẩm của cậu lên tận mây xanh. Tớ làm bộ nói ” Mày mà nghe đứa nào xúi dại, in tác phẩm của thằng Tân thì cứ về nhà đem đổ thóc giống ra mà ăn”. Nó cãi sùi bọt mép, nó bảo tớ là thằng phi văn nghệ, đếch có mắt xanh mắt đỏ gì hết. Rồi nó vỗ vỗ cái bóp căng phồng ở sau đít ra cái điều tiền bạc chẳng nhằm nhò gì hết. Văn nghệ là ưu tiên! Mẹ kiếp, tớ cứ nghĩ là sắp trời sập đến nơi rồi!
Tân buột miệng:
– Như thế thì chắc chẳng là bánh vẽ đâu. Nhưng tại sao hồi này “thằng” Nam Phong lại dở chứng ra như thế. Từ xưa tới giờ, nó chỉ toàn xuất bản loại tiểu thuyết vừa in xong đã đem đổ ra bán xon ngay thôi mà. Cái kiểu kinh doanh ấy có lời bằng mấy lối in các loại sách kén chọn độc giả. Cứ đề giá sách cho cao rồi đem ra vỉa hè bán xon trừ năm mươi phần trăm, thiên hạ mua ùn ùn.
Vũ cãi:
– Thì nó cũng phải in sách này sách kia, nhà xuất bản của nó mới có uy tín chứ. Cũng phải công nhận lần này nó có mắt xanh thật đấy. Tớ bảo đảm, tác phẩm của cậu in ra, báo chí sẽ túa lại viết bài phê bình. Cậu tha hồ nổi tiếng, còn thằng đó lại có phen hốt bạc.
Hình ảnh huy hoàng của Vũ vừa chợt vẽ ra khiến Tân cũng thấy lòng mình tràn trề hy vọng. Chàng nhắm nghiền hai mắt thật lâu để tận hưởng cái cảm giác khi có một vài tờ báo lớn ở thủ đô in một cách trịnh trọng bài điểm sách viết về tác phẩm mới ra của mình. Nhưng rồi cái tác phẩm mới ấy mặt mũi nó sẽ ra làm sao? Ai trình bầy bìa? Bìa sẽ được in mấy mầu? Bằng kỹ thuật typo hay offset? Nhà Nam Phong có nhờ ai viết cho một cái tựa để giới thiệu tác phẩm trong phần mở đầu không? Rồi còn cái vụ sửa lỗi morasse trên bản vỗ do thợ sắp chữ nhà in đưa ra nữa. Ừ, có lẽ mình sẽ phải đích thân tự lo lấy để bản in không bị xếp chữ sai những lỗi chết người, mà như thế thì chắc sẽ bận bịu lắm đây. Nhưng muốn gì thì gì cũng còn phải chờ nhà Nam Phong đến tiếp xúc để nói chuyện đầu đuôi cái đã. Những ý nghĩ ấy cứ dồn dập trong đầu khiến cho Tân im lặng mãi mới cất tiếng với Vũ:
– Thôi, chuyện in ấn vào chi tiết tôi cứ nhờ cậu đại diện cho hết. Chỉ khi nào cần sửa bản vỗ nhà in thì tôi sẽ lo lấy.
Vũ mỉm cười:
– Chuyện ấy dễ thôi. Tớ sẽ bắt nó ký giao kèo, nêu rõ số lượng in, số phần trăm nhuận bút tính trên giá đề, lại còn số bản quý để dành cho tác giả biếu bạn bè, thân hữu nữa.
Tân kêu lên:
– Sao mà cậu rành rẽ thế. Cứ như thể một tay văn sĩ chuyên nghiệp không bằng!
Vũ cười hì hì:
– Còn lâu tớ mới thèm làm văn sĩ. Cầm cọ sướng hơn. Nhưng giao du với mấy thằng gàn dở cầm bút thì tớ cũng quen đủ mặt. Cứ mò ra tiệm Pôle Nord thì biết khối chuyện.
– Ui, chỗ đó toàn là dân chuyên nghiệp tụ họp. Tớ còn chân trắng, mò vô đó để họ cười cho thối mũi.
– Mai mốt cậu có tác phẩm đầu tay ra đời, hết còn than là chân trắng nữa nhé. Mà nói cho ngay, khối thằng in cả đống thơ, văn, lại còn in carte visite mầu mè khoe rõ Làm Thơ, Viết Văn, Viết Báo mà có mấy ai coi họ là dân trong ngành đâu.
– Thôi, hãy cứ chờ xem. Tớ không thích cái vụ chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng. Mai mốt tay Nam Phong lại đổi ý không in nữa thì cứ là dài mặt ra.
Sau đó chừng hơn hai tháng thì tác phẩm Xóm Lá của Tân được tung ra khắp các hiệu sách. Cuốn sách phải kể là tuyệt đẹp vì kỹ thuật in tốn kém và cái bìa thì lấy một họa phẩm của Vũ làm nền, do chính Vũ lựa chọn. Tiền bản quyền dành cho Tân được tới mười sáu ngàn. Lão Nam Phong lại chơi rất điệu, xỉa ngay một xấp giấy bạc dầy cộm trao cho Tân mà không cò kè bớt một thêm hai, hoặc hẹn hò chờ bán được sách thu vốn xong cái đã như hầu hết các nhà xuất bản vẫn thường làm. Tuy nhiên, điều khích lệ lớn lao nhất đối với Tân là có tới mấy tờ báo đăng bài phê bình tác phẩm. Ngoại trừ một số khuyết điểm được vạch rõ, tương đối các bài viết đều có chiều hướng thuận lợi cho bước đường sự nghiệp của chàng.
Nhưng bỗng một hôm, Vũ chạy xộc tới rủ Tân đi uống cà phê và nói:
– Tân ạ, cậu phải biết chuyện này!
Tân giật mình:
– Chuyện gì thế?
– Chẳng có gì quan trọng lắm đâu. Nhưng tôi mà giấu cậu thì không nên chút nào.
Rồi Vũ kể ra rằng hôm trước Vũ ghé nhà xuất bản Nam Phong, thấy một tay văn sĩ đang kỳ kèo, so bì với lão Nam Phong rằng tiền bản quyền cuốn Xóm Lá sao thanh toán luôn một lúc, còn tác phẩm của gã được in ra có tới nửa năm rồi mà vẫn chưa được thanh toán hết. Lão Nam Phong trả lời rằng chớ có nên so bì, vì vốn liếng in ấn cuốn Xóm Lá là do một người khác bỏ ra. Vũ ngừng một chút rồi hỏi:
– Cậu có biết là ai không?
Tân còn đang lúng túng thì Vũ đã trả lời:
– Thúy đấy! Con bé tầm ngầm thế mà chung tình gớm!
Tân nghe xong, vụt bừng tỉnh! Thảo nào, bản thảo của chàng ôm đi ôm về đến sờn cả bìa vẫn chẳng có ma nào ngó đến, thế mà không dưng lão Nam Phong lại ôm lấy xoắn xuýt, trả tiền nhuận bút xòng phẳng, nếu chẳng có bàn tay của Thúy thì làm gì mọi sự bỗng dưng xuông xẻ đến như thế ở giữa cái thời buổi người khôn của khó này. Đang còn mải suy nghĩ, thì Vũ lại rụt rè tiếp:
– Cậu không bị sốc đấy chứ? Phải phân biệt cho rõ ở chỗ Thúy giúp một tay là một chuyện, còn giá trị tác phẩm của cậu lại là một chuyện khác, đúng không?
Tân ấp úng:
– Nhưng …nhưng sao tôi vẫn thấy kỳ quá.
– Kỳ cái khỉ mốc gì. Cậu chỉ gặp may thôi. Thúy con nhà giầu, xử như thế là phải. Nó không giúp cậu thì còn giúp ai nữa? Vả chăng sách của cậu đâu có thuộc loại vứt vào sọt rác. Mấy tay phê bình có hạng đều khen ngợi đó thôi.
– Vậy cậu khuyên tôi nên làm thế nào bây giờ?
– Chẳng làm cái cóc khô gì hết! Thúy đã giấu biến thì cậu cũng cứ tảng lơ làm như không biết. Cậu mà ló ra chuyện này thì nó dám đem dao đi thiến lão Nam Phong không chừng.
Ngẫm nghĩ một chút, rồi Vũ thêm:
– Cái cách trả lời Thúy hay nhất là cậu lại cho ra lò một tác phẩm nữa thật xôm. Xôm hơn cả cái Xóm Lá vừa in ra nữa. Mẹ kiếp, số của cậu là cái số đẻ bọc điều. Viết văn mà lại có thần hộ mệnh vừa xinh đẹp vừa lắm tiền như Thúy thì văn chương tha hồ mà lênh lánh nhá.
– Nhảm! Tớ đâu có ý định đào mỏ mà cậu nói thế.
Vũ kêu lên:
– Ai nói là cậu đã làm cái chuyện hèn hạ ấy. Đây là vấn đề tự nguyện mà. Đã bỏ tiền ra lại còn giấu biến không cho cậu biết nữa, thế thì quả thật con nhãi này chơi đúng điệu, rất hay, rất đáng cho tớ ngả mũ chào.
Tân thở dài:
– Cậu nói đúng đó. Cách hay nhất để trả ơn Thúy là lại cố gắng mà viết ra những tác phẩm thật hay. Chỉ sợ mình kém tài, làm phụ lòng của em mất thôi.
Vũ cười tí tởn:
– Có tí tiền rồi, cứ đi mẹ nó ra tiệm làm một chầu miến lươn, miến gà cho căng bụng rồi chơi thêm một chầu café ở Pôle Nord là tối về văn chương sẽ ra ông ổng chứ đếch gì.
Thế là cả hai kéo nhau đi ăn và đêm ấy Tân lại cong người trên phản gỗ để hí hoáy viết.
Tiền nhuận bút, ngoài số dúi cho Vũ, Tân còn trích ra một món đưa cho bà cụ Chín để cụ cải thiện gánh hàng rong cho bán được thêm lời. Bà cụ định không lấy nhưng Tân đã khóc với bà. Chàng không biết cắt nghĩa thế nào cho bà cụ hiểu được rằng tấm lòng của bà không có giá nào mua được hết. Và chính những giọt nước mắt xúc động của chàng đã làm bà mủi lòng thay đổi ý kiến. Bà vừa nhận tiền vừa bộc lộ cái ước vọng của mình tuy nhỏ nhoi nhưng đã từng ấp ủ trong bao nhiêu năm trời mà vẫn không thực hiện được. Đó là bà dự trù sẽ sang một chỗ ngồi ở ngay vách hông chợ để đặt gánh bán hàng. Như thế vừa có nhiều khách lui tới mà cũng đỡ cái công gánh đôi quang gánh nặng chĩu đi lang thang khắp nơi trong phố phường. Buổi tối hôm ấy, ba bà cháu đã trải qua một bữa ăn vui vẻ, chan chứa tình thương mến, có cả thịt quay, trứng tráng và một xị rượu. Tân cho rằng đó là bữa ăn ngon nhất trong cuộc đời cơm hàng cháo chợ của chàng.
Một buổi cuối tuần, Tân cũng mời vợ chồng Vũ đi ăn hiệu để đánh dấu một chặng đường sáng tác đáng ghi nhớ của chàng. Lần này ba người đi ra ngoại thành để vào một quán ăn ngoài trời. Ở đấy thực khách đông đảo ồn ào, xe cộ đậu hàng dẫy tấp nập. Vũ chọn một chỗ ngồi thật khuất, có hàng hiên nhìn ra một con lạch khá rộng, trên trồng toàn rau muống đang ở vào thời kỳ trổ hoa. Trong lúc chờ đồ ăn đem đến, Vũ bóc một tờ lịch ở vách tường cho đúng với ngày tháng rồi chợt kêu lên:
– Ô! Hôm nay là ngày Thúy lên xe hoa về nhà chồng!
Tân ngẩng lên nhìn. Tờ lịch ghi rõ: Thứ Bẩy, 15. Chàng nhắm mắt lại, đầu ngả lên thành ghế thật lâu. Lá thư mà Thúy gửi chàng hôm trước lại vụt hiện rõ trong ý nghĩ:
– Đã nhiều lần anh từng bảo với Thúy là phải biết nhận định rõ rệt về hoàn cảnh cũng như vị trí của mình. Rồi cứ thế mà mạnh dạn cất bước. Bây giờ thì Thúy đã làm theo lời khuyên của anh rồi đó. Anh hãy cầu chúc cho Thúy gặp nhiều may mắn trong cuộc hôn nhân này, anh nhé.
Tân xót xa gợi lại hình ảnh của nàng, gọi tên nàng trong ý nghĩ và cầu chúc cho nàng luôn luôn được hạnh phúc. Vũ nói:
– Thế mà mình quên khuấy ngay đi mất. Ở đây ra, mình đi chơi rồi về thẳng nhà hàng luôn. Đạt có mời chúng tớ.
Bích nói:
– Em chả quên đâu. Nhưng anh định nát ai mà đi ăn cưới bằng bộ quần áo như thế này.
Vũ ngó xuống chiếc áo veste nhàu nát của mình rồi nhún vai:
– Tại sao người ta cứ làm vướng chân nhau vì những cái hình thức bề ngoài nhỏ mọn như thế này nhỉ?
Bích mỉm cười:
– Đó là lý luận của những anh nghèo mạt rệp. Với những người khác thì chuyện áo quần chẳng bao giờ là vấn đề phải đặt ra cả.
Vũ nhìn Bích nhăn nhó:
– Ô! Hôm nay tại sao em lại “kê” anh như vậy nhỉ? Đáng lẽ em phải tìm cách biện hộ thêm cho anh về cái sự quần áo lôi thôi của anh chứ. Xấu chàng hổ ai?
Bích vừa cấu vào tay chồng, vừa nói:
– Xấu hổ cái gì! Mình có đi ăn cướp của ai đâu mà sợ xấu hổ. Này, chính vì cái nghèo mạt rệp của anh mà em lấy anh đó.
Vũ cười toe:
– Ừ, cái con ngựa vía này, lâu lâu “hí” một tiếng nghe cũng đựợc.
Bích quay qua, đấm lên lưng Vũ thùm thụp. Sự vui vẻ của vợ chồng họ, tuy thế cũng không làm cho Tân bỏ được bộ mặt đăm chiêu. Sau một hồi im lặng, Vũ nhìn Tân như thông cảm:
– Đáng lẽ hôm nay là ngày của cậu và Thúy. Chính cậu tự rước cái u sầu ấy vào cho mình.
Tân mỉm cười:
– Cậu nói chuyện lấy nhau dễ như lấy một đồ vật trong túi. Vấn đề là ở chỗ lấy nhau xong rồi thì sẽ còn phải làm sao nữa chứ?
– Ôi! Thời buổi này mà cứ ngồi lo xa thì sẽ chẳng còn làm được gì. Bom đạn cứ đì dùng thế này, hỏi rằng có ai tính trước công việc được quá một vài tháng không đã. Tôi thì tôi cứ đánh bài liều. Được đến đâu hay đến đó.
Tân không trả lời nhưng giơ cái ly lên nói:
– Thôi! Hơi đâu mà nói những chuyện đã qua. Hôm nay là ngày cưới của Thúy, lại cũng là ngày ăn mừng tác phầm mới ra của tôi. Xin các người hãy lo ăn uống đi cái đã.
Cả ba đồng ý xoay câu chuyện về các món ăn bầy la liệt khắp mặt bàn. Vũ nhón lấy một cái càng cua rồi đưa lên miệng. Một bọn trẻ con lau nhau đang len lỏi ở khắp mọi bàn bỗng ùa lại. Chúng hau háu nhìn vào miệng Vũ và trông chờ hắn liệng một cái gì đó ra. Hình ảnh ấy khiến Tân nhớ đến ba mẹ con một người đàn bà ở bên kia cầu Khánh Hội mà đã có lần chàng được gặp.
Hồi ấy Tân sống ở bên Khánh Hội tới gần hai năm. Hai năm lê lết bên cạnh những mảnh đời nghèo khó, chàng đã được chứng kiến rất nhiều cảnh khổ. Nhưng sự đau khổ của cái gia đình nhỏ nhoi gồm ba mẹ con này đã cứ như bóng ma hờn oán ám ảnh chàng mãi không nguôi.
Gia đình người phụ nữ khốn khổ ấy không có được lấy một mái lá trú chân. Mụ dẫn con đi ở lang thang trên các hè phố. Đến tối thì mấy mẹ con ôm nhau chen chúc dưới mái những hàng hiên. Thế rồi, bỗng một hôm mụ tìm ra được một chỗ khá tốt, nơi trú ngụ của một gã chuyên làm nghề bói bài. Tự nhiên, bỗng gã bỏ đi biệt tăm không thấy trở về. Thế là ba mẹ con nhẩy vào thay thế. Đó là một cái mái hiên rộng và kín đáo nằm trong một kho hàng lộ thiên ngoài bãi của bến tầu. Mùa mưa nước không hắt tới, mùa nóng ánh nắng không chiếu quá vào sâu bên trong. Lại có một đống thùng gỗ chất lủng củng, lăn lóc hàng năm không ai rờ tới, thật là nơi lý tưởng có thể giấu giếm vài cái bát mẻ, vài mớ quần áo rách, chai nước lã hay tấm khố tải xác xơ và hôi hám. Đó là cơ nghiệp của một gia đình có ba nhân vật: Mụ đàn bà tương đối dễ coi, hai đứa trẻ cùng là con gái. Đứa lớn lên sáu gọi là con Nhớn, đứa bé lên hai gọi là con Bé. Ấy là chưa kể cái bụng của mụ đàn bà không biết bằng cách nào, ở đâu, với ai mà cứ mỗi ngày một nhú to dần lên..
Ngày nắng cũng như ngày mưa, rất đều đặn, mụ tới chờ ở mé đầu cây cầu gỗ. Những hôm gặp chuyến thì không nói gì, ngay cả vào ngày ít hàng đổ bến mụ cũng chiếm được một chân trong cái nhóm ít ỏi phu phen đi xuống cầu tầu. Đó là nhờ ở cảm tình của gã đầu nậu đặc biệt dành cho mụ. Bởi vì nhan sắc của mụ dễ coi, thân hình của mụ đẫy đà nẩy nở, nhất là bộ ngực phốp pháp cứ cồm cộm lên sau lần áo mà thường ngày gã vẫn nhìn với đôi mắt thèm muốn.
Trong thời gian mụ đi vắng, có thể là suốt buổỉ, cũng có thể hai ba ngày liên tiếp, thì hai đứa trẻ ôm nhau ngủ. No mắt rồi, chúng bế nhau đi lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm. Có khi chúng nó theo một đám ma đi qua những con đường trong thành phố, có khi chúng lại len lỏi vào các lòng chợ để nhặt nhạnh, chấm mút những gói lá bánh vứt vương vãi ở mọi nơi, mọi ngách. Cũng nhiều khi chúng nó lẽo đẽo đi theo một vài bà sang trọng để ăn xin đồng bạc mua kẹo, mua bánh hay quay số lấy thịt bò viên.
Nhưng bao giờ tới lúc lên đèn thì chúng cũng quay trở về họp mặt với năm bẩy đứa khác tại những quăn ăn lộ thiên ở ngoài bến tầu. Vào giờ ấy, các quán chật ních những người. Từng đứa, từng đứa len qua các gầm bàn, khe ghế như những con chuột xơ xác, còm cõi, hau háu nhìn người ta ăn uống tưởng như họ là những kẻ diễm phúc nhất trên trần gian, trời cho được đặc biệt thụ hưởng đủ thứ của ngon vật lạ trên đời. Thế rồi, một khúc xương gặm vội, một cái càng cua chưa gỡ hết, một mẩu bánh mì khô khốc còn dính bơ hay thịt, khi được vứt ra là tất cả bọn chúng xô lại, giành giựt, tranh cướp lăn lộn ở dưới thềm xi-măng đầy rác rưởi, ẩm ướt và hôi hám.
Sự hỗn độn còn xảy ra ồn ào hơn nữa khi có một bàn thực khách đứng dậy. Năm sáu đứa đổ xô vào cùng một lúc. Đứa thì chộp lấy tô canh đưa lên mồm húp sùm sụp, đứa thì hốt ngay đống xương trên bàn vào vạt áo, đứa thì ngửa cổ hớp cho tới giọt cuối cùng của ly nước ngọt còn sót lại đôi chút cấn thừa.
Thường thường những đứa lớn bao giờ cũng nhanh tay hơn hết. Chúng trút tất cả đồ ăn thừa vào cái gà-mên bằng nhôm để gom thành một món hẩu lốn đủ vị chua, ngọt, bùi, cay và váng những mỡ.
Quả là bọn chúng thiếu mỡ, thèm mỡ và suốt đời chỉ mong ước được ăn cái gì dính mỡ. Dưới ánh sáng của những ngọn đèn ống toả ra rực rỡ, khuôn mặt của cả bọn đều vêu vao, xanh rớt, cặp mắt lờ đờ hết vẻ hồn nhiên trong sáng. Tất cả bọn đều nhuốm vẻ khổn khổ, cằn cỗi phản ảnh những tâm hồn bị gò bó, bị dồn nén triền miên bởi sự thiếu thốn cả về miếng cơm lẫn manh áo. Có thể ví bọn chúng là một lũ chuột, nhưng lại là lũ chuột không được béo tốt bằng chính những con chuột lẩn lút trong từng ống cống của thành phố. Tuổi hồn nhiên của chúng nó không được nhởn nhơ, no đủ như những đứa trẻ đồng lứa tuổi. Bọn chúng không lúc nào bị ngừng thôi thúc bởi những ý nghĩ nhỏ nhen, ganh tị, giành giật, tranh cướp đến độ có thể vật lộn, cắn xé nhau om xòm cả khu phố chỉ vì một mẩu xương hay một bát canh thừa.
Buổi tối hôm ấy nhằm ngày thứ Bẩy, lại vào cuối tháng nên các quán ăn chật ních những người. Chị em cái Nhớn không còn la cà ở trong quán nữa vì đã lê la ở dưới các gầm bàn suốt từ chập tối và cũng đã nhặt nhạnh, liếm láp được đủ mọi thứ cao lương mỹ vị rồi. Bụng cái Nhớn no kếnh lên, vượt quá cả giới hạn nhỏ bé của cái quần ngắn cũn cỡn mầu đen bạc phếch. Bây giờ công việc của nó là đi thu thập các đồ ăn còn dư vào một cái ống bơ để mang về cho mẹ nó.
Mụ đàn bà từ non một tuần lễ nay đã không đi làm được nữa. Cái bụng của mụ đã to lắm rồi. Hôm đầu tuần trước, mụ ra đứng tần ngần ở ngoài cầu gỗ, gần khu kho hàng bến cảng. Mụ thấy rõ sự mệt mỏi, đau nhức râm ran ở khắp các đầu xương. Đứa bé trong bụng lại cứ thôi thúc, vùng vẫy như muốn đạp ra. Nhưng tính kỹ lại, mụ biết mình mới chỉ có chưa đầy tám tháng thôi. Đẻ ngay sao được! Mụ cố nghĩ như thế để yên tâm hơn về tình trạng đau đớn của mình. Mồ hôi ở lưng mụ toát ra, ướt sâm sấp lần áo mỏng. Một tay mụ giữ lấy thành cầu, một tay mụ bưng lấy mặt. Hình ảnh của những kiện hàng chất cao ngất xen lẫn với những tia nắng nhức nhối chói lòa ở phía trước như đang chập chờn nhẩy múa trước mắt. Mụ cố nhìn xuống một cọng rác trôi lều bều dưới mặt nước váng bọt để định thần lại. Nhưng cọng rác lại cứ như muốn phá vỡ ý nghĩ vốn đã mong manh lại còn gieo vào óc mụ những cảm giác tê buốt, xây xẩm. Mụ giơ hai tay lên bưng lấy đầu và nhác thấy gã đầu nậu chắc là vừa hò hét chán chê ở giữa đám đông thợ thuyền lam lũ, nên bây giờ ra đứng châm thuốc hút phì phèo. Nom thấy mụ, gã cất tiếng:
– Bụng to rồi, nghỉ đi!
Mụ mỉm cười gượng gạo:
– Được mà, được mà, mới năm sáu tháng, ăn nhằm gì.
Gã nhún vai không đáp, vừa ném điếu thuốc xuống chân cầu vừa hất hàm ra hiệu cho mụ đi xuống phía hàng hóa đã chất đầy trên sàn gỗ. Mụ cố gắng đi xuống. Mồ hôi vẫn toát ra ướt đẫm ở sau lưng. Một gã đàn ông đẩy mụ tới một đống bao gạo và chẳng nói năng gì. Mụ biết ý, cũng không mở miệng, chỉ mím chặt lấy môi rồi gắng gượng cúi xuống. Người mụ vẫn nóng hâm hấp. Bàn tay mụ nổi lên những hàng gân xanh. Hai chân của mụ run rẩy. Tuy nhiên mụ cũng vẫn cố dùng tất cả sức lực còn lại của mình để bốc bao gạo nặng chĩu lên vai. Nhưng người của mụ chợt ngã chúi hẳn đi, hai cẳng chân loạng choạng dẫm lên phải mấy viên gạch vỡ có những cạnh vừa nhọn vừa sắc. Gã đàn ông chợt phá lên cười:
– Từ sáng mấy “cút” rồi mà cứ như người say rượu thế, hở bà nội?
Nhưng gã vội ngưng ngay miệng lại khi nom thấy mặt mụ đàn bà đang xám ngoét đi. Hai ống chân của mụ lẩy bẩy dưới sức nặng đè chĩu trên lưng. Trong lúc gã chưa kịp phản ứng gì thì mụ đã đổ chúi xuống, như một con quay vừa hết đà nằm chỏng chơ trên mặt cỏ. Bao gạo đè lên thân mình cùng với cái bụng to kềnh của mụ. Rồi mụ ngất đi, không còn cảm giác gì nữa.
Nhưng chỉ trong thoáng chốc mụ đã choàng tỉnh. Vừa nghe thấy nhiều tiếng ồn ào ở chung quanh, mụ nhớ lại được ngay cái giây phút suy sụp vừa qua, nên vội vàng nhỏm dậy và xua tay:
– Có gì đâu. Không hề gì hết. Tôi còn làm được mà….
Có người rót cho mụ một ly nước. Mụ chộp lấy uống xối xả rồi lại gắng gượng đứng dậy. Nhưng vào cái giây phút mà tất cả mọi người đang đổ dồn mắt vào nhìn, mụ lại cảm thấy chưa bao giờ cái bụng lại làm mình đau đớn đến như thế. Mặt của mụ bỗng nhăn méo lại. Có kẻ đứng ở gần đó chợt kêu lên:
– Thôi đi, đừng có cố. Coi chừng sẩy cái thai…chẳng bõ!
Gã đầu nậu nghe thấy hai chữ “sẩy thai” thì giật mình nhận ngay ra sự trầm trọng của vấn đề. Gã không muốn gánh lấy trách nhiệm rắc rối nên vội cất giọng quyền uy:
– Thôi! Không làm gì nữa hết! Đẻ đái xong, mai mốt quay lại, tớ dành cho ối việc.
Thế là mụ biết không còn năn nỉ gì được thêm, đành lủi lủi cất bước trở về.
Những ngày tiếp theo, mụ nằm liệt ở nhà, co mình trong đống giẻ hôi thối, bần thỉu nhây nhớp mồ hôi và cả nước mắt. Mụ vẫn cố gắng tự an ủi:
– Không hề gì. Sẽ không có gì xảy ra cả.
Trước đây mụ đã sanh hai đứa, mau chóng và nhẹ nhàng một cách ngon ơ. Cái Nhớn đẻ rơi trong một nhà thương thí trước khi mụ phải lên nằm sắp hàng trên những cái bàn đá như mọi người khác. Còn cái Bé thì mụ đã sanh ngay ở chỗ trú ngụ, nơi mà hồi trước mụ còn có tiền để đi thuê. Mụ tin chắc đứa nhỏ này thì cũng vậy thôi. Nó sẽ ra đời trong sự dễ dàng mau chóng như thế. Một vài giờ chịu đựng, cùng lắm là sau một đêm đau đớn, mụ sẽ lại khỏe khoắn, nhẹ nhõm, chân tay lại cử động thoải mái tự do, không còn phải vướng mắc cái khối nặng nề mà mụ phải đeo đẳng ròng rã suốt bảy, tám tháng trời. Điều làm mụ phải bận tâm hơn hết chính là sự tìm được cách nào ổn thỏa cho giọt máu này của mụ. Mình chẳng nuôi thêm nổi nó đâu. Có khi bỏ đi, ai đó nhặt được, nó sẽ được nuôi nấng tử tế hơn là đeo đẳng với nhau thế này.
Mụ cũng đã nghĩ rất nhiều đến những trại mồ côi mà ở đó cũng có rất đông lũ trẻ được nuôi ăn đầy đủ lại còn cho mặc những bộ đồng phục sạch sẽ, xinh xắn. Hóa ra trong đầu mụ, niềm mơ ưóc dành cho đứa con sắp sanh này chỉ là một cái trại mồ côi.
Thế rồi mụ âm thầm chuẩn bị cho cái giờ phút lâm bồn của mình. Hồi còn mạnh khỏe, còn đi làm được, mụ đã tìm ra một chỗ thật kín đáo để sanh con. Giống như một con mèo hoang chuẩn bị cái ổ đẻ của mình. Đó là một cái cửa ống cống lớn ở mé bờ sông. Mùa nước lên, mặt sông che lấp không ai thấy gì. Nhưng vào mùa hạ, nước sông rút đi, để lộ ra một khoảng rộng rãi có đủ chỗ cho ba bốn người nằm. Mụ định sinh nở ở đó! Bốn bề thanh vắng, xa thành phố, xa tiếng ồn ào, xa mọi cặp mắt dòm ngó và cả những viên cảnh sát vẫn thường đi tuần ở khắp chốn đông người.
Mụ đã mang lại đấy một vài đồ dùng cần thiết như một chai nước lạnh, một cái mền cũ, một mớ giấy bản và một xấp giấy báo cũ. Mụ tưởng ít ra thì cũng còn non hai tháng nữa mới phải dùng tới. Nhưng lần ngã hôm trước đã khiến mụ nổi cơn đau bụng nhiều hơn, có khi vài ba lần lần trong một ngày. Lần chót, tức mới ngày hôm qua, mụ không còn chịu nổi nữa nên đã gắng gượng rời bỏ chỗ trú mọi ngày để đi ra bờ sông, tìm đến ổ đẻ của mình. Một mình thôi, vì mụ đâu có bạn bè gì.
Trời sâm sẩm tối. Thành phố đã lên đèn. Hai đứa con của mụ đã kéo nhau đi kiếm ăn mất biệt từ hồi sáng. Như thế cũng thật là rảnh tay. Mụ không phải thắc mắc gi về sự sống của chúng nó cả. Bê tha ở các chỗ ăn uống, không ít thì nhiều chúng cũng đều được no nê. Mụ hy vọng sáng mai nếu mình khỏe lại, trở về, chúng nó sẽ còn đưa cho mụ những thức ăn ngon, bù vào cái đói, cái mệt, và những lo nghĩ sau một tuần lễ không đi làm việc.
Nhưng rồi mụ lại có cảm giác mơ hồ là mình sẽ chẳng còn đi được đâu, chẳng còn trở về đâu được nữa. Những hơi sức còn lại hình như đang đang rời bỏ mình.
Lúc nằm yên ổn được trong lòng ống cống, mụ thấy rõ máu trong mình đã trào ra thấm ướt suốt cả dọc hai bên ống chân của mình. Mặt sông phẳng lặng soi bóng những đám mây mầu tím sẫm trên nền trời. Phía đằng xa là cây cầu xi măng to lớn, rực rỡ ánh đèn. Văng vẳng từ phía đó đưa lại tiếng còi xe, tiếng động cơ rì rầm. Như một lữ hành cô độc đi trên sa mạc, như một kẻ chiến bại bị đồng đội bỏ rơi phải chiến đấu một mình trong tuyệt vọng, mụ đang trải qua một cơn đau giằng xé, khiến mụ bật lên những tiếng rên la. Tiếng rên của mụ vang trong gió nhẹ buổi chiều và cứ thế mụ thấy trong người mình âm ỉ, đớn đau như một con thú bị đạn đi tìm sự yên nghỉ ở những hốc vắng trong rừng sâu. Mụ như nom thấy những đám mây lơ lửng trên nền trời đổi sắc từ màu tím sang màu xám, từ màu xám sang màu đen, vần vũ thành những hình dáng kỳ lạ, như sứ giả của một thế giới khác ùa tới hối thúc và xô đẩy, khiến mụ chợt cảm thấy như mình nhẹ bỗng đi, không đau đớn, không nhục nhằn, không trốn tránh, không ẩn núp, không cả những cảm giác lưu luyến, xót thương. Mụ không còn buồn bã và cô độc nữa khi nghĩ mình đang tồn tại ở giữa cái thành phố đông đúc, ồn ào và cũng đầy những quanh cảnh sa hoa rực rỡ này. Có vẻ như thực sự là mụ đang được giải thoái, điều mà mụ ước ao từ bao giờ và chờ mong hơn hết. Nhưng rồi mụ lại nghe thấy chính cái tiếng của mình thất thanh kêu lên: “Nhớn ơi! Bé ơi!”. Tiếng gọi thật to nhưng lại nghe mơ hồ, xa thẳm như tiếng kêu tuyệt vọng của một kẻ đắm tàu, chấp chới giữa sóng cả, đang vận dụng hết tàn lực của mình để bấu ví lấy sự sống bằng những tàn hơi cuối cùng trước khi chìm sâu dưới làn nước….
Cho mãi đến gần nửa khuya. Hai chị em cái Nhớn mới trở về. Một tay Nhớn cặp con Bé. Tay kia, nó bưng lon đồ ăn chứa đầy ắp, bên trong có đủ những mòn gà xào, cua nướng, trứng chiên mỗi thứ một tí, một tị ngoại trừ hai cái đùi ếch chiên vàng.
Đó là bữa ăn cuối cùng con bé mang về cho mẹ nó. Bữa ăn chẳng bao giờ có ai đụng tới vì hôm ấy nó ngồi bó gối suốt đêm mà không thấy mẹ trở lại. Nó đã để lon đồ ăn trên mặt cái thùng gỗ ẩm mục tới hai ngày, rồi ba ngày, mọi thứ đã bắt đầu bốc mùi thiu thối mà mẹ chúng nó vẫn biệt tăm.
Ngày hôm sau nữa, một gã đàn ông say rượu chợt xà vào cái ngách trú ngụ của ba mẹ con, xách cổ cả hai đứa lên rồi du mạnh ra đường. Hắn ta ngang nhiên dọn dẹp cái ổ chật hẹp ấy để chiếm chỗ. Và cũng chính gã cũng đã đem quăng cái lon đồ ăn thiu thối kia vào một hốc sâu sau đống thùng gỗ. Gọi là món quà ra mắt của gã đối với đàn chuột cống đang chui rúc cùng với gã ở cái nơi chốn hẻo lánh, xác xơ này…
Hoàn cảnh của gia đình mụ, sau này Tân được nghe kể lại cũng đã trở thành những nỗi ám ảnh trong đầu chàng mãi không nguôi. Ngồi trong quán ăn, nhìn đám trẻ túa ra nhặt những mẩu xương thừa làm Tân trạnh nhớ đến cái Nhớn, cái Bé, không biết bây giờ chúng nó trôi giạt về đâu, và chỉ những ý nghĩ ấy cũng đủ làm cho chàng cảm thấy không còn hứng thú gì để ăn uống nữa. Chàng chỉ ngồi nhắm nháp với vợ chồng Vũ rồi để cho hai người trở về sửa soạn đi dự đám cưới của Thúy, do Đạt mời.
Hôm ấy tưởng Vũ sẽ đi đến nửa khuya, nhưng Tân không ngờ hắn lại từ đám cưới mò về tìm. Giọng hắn hơi chuếnh choáng:
– Đám cưới rất đông, rất vui. Cô dâu rất đẹp. Hai người nom rất xứng đôi. Nhưng nghĩ đến cậu lủi thủi một mình trong cái đêm “cắc cớ” này, nên tớ thả Bích về nhà rồi lại mò tới đây, rủ cậu đi lang thang cho đỡ buồn.
Tân thầm cám ơn tấm lòng chí tình của bạn. Chàng cố nén nỗi chua xót đang tràn ngập trong lòng, lấy giọng vui vẻ nói:
– Ừ, mình ra bờ sông ngồi. Ngoài ấy thoáng đãng, có thể nhìn sao trên trời và đưa ra được một lời cầu chúc tốt đẹp cho vợ chồng Thúy.
Thế là hai người kéo nhau ra ngồi ở ghế đá ngoài bờ sông. Trời im ả. Mặt nước đen ngòm. Có tiếng sóng vỗ vào mạn bờ nghe róc rách. Vũ ngồi ngả dài trên thành ghế hút thuốc lá lim dim. Trong khi ấy, Tân nghĩ đến Thúy và những kỷ niệm đã qua.
Tân gặp Thúy vào một buổi chiều mùa hạ. Mẹ Thúy đã nói với chàng trước:
– Chúng nó lười và nghịch. Nếu cần thì cậu cứ cho chúng nó mấy roi.
Tân tưởng như sẽ gặp một cô bé con, cắt tóc Nhật Bản và mặc váy ngắn. Nhưng chàng xiết bao ngạc nhiên khi thấy Thúy gần cao bằng mình. Còn Thành, em của Thúy thì cũng đã trên mười tuổi rồi. Thúy nhìn chàng bằng cặp mắt soi mói xen một chút nghi ngờ và kiêu hãnh.
Khi vào buổi học, Tân thấy sách vở của Thúy khá bê bối. Nàng chép bài vào những mảnh giấy nháp, mỗi chỗ một bài, mỗi chỗ một đoạn, lúc đem ghép lại thì đầu đuôi lộn xộn không biết đâu mà tìm. Vì thế, cái lệnh đầu tiên của cậu giáo Tân là bắt Thúy chép bài nào vào vở ấy. Thúy có vẻ tức vì chưa chi Tân đã định bầy tỏ ngay cái uy quyền của một thứ précepteur mà Thúy vẫn coi không ra cái gì cả. Buổi học hôm sau, thấy Thúy không làm theo lời mình, Tân giận dữ nói:
– Không phải tôi đến đây để làm một trò hề. Nếu cô không bằng lòng hợp tác thì thôi, tôi xin nghỉ!
Phản ứng mạnh mẽ của chàng làm Thúy ngạc nhiên. Chưa có “cái anh précepteur” nào trước đó lại dám ngang nhiên nói nặng với Thúy như vậy cả. Thúy vẫn thường mang cái mặc cảm tự tôn là mình đẹp nhất, nhì ở trong lớp. Mà với một người đẹp, “hắn” dám mạnh mồm đến thế sao?
Buổi học hôm ấy diễn ra nặng nề, lặng lẽ và thời gian trôi qua thật chậm chạp. Hôm sau, trước khi tới nhà Thúy, Tân đã đinh ninh là sẽ bỏ cuộc ngay nếu Thúy vẫn không làm theo lời của mình. Nhưng chàng ngạc nhiên thay khi thấy Thúy đã bầy ra bàn một loạt vở mới, cuốn nào cũng đều có bọc giấy bóng bên ngoài với cùng một mầu rất cẩn thận và nom khá mỹ thuật. Trong thâm tâm, Tân chợt nén một tiếng thở phào nhẹ nhõm.
Kỷ niệm mà người ta muốn giữ lại bao giờ cũng đẹp và êm đềm. Chỉ mới nhớ lại những ngày đầu gặp Thúy mà Tân như vụt tìm thấy trọn vẹn cả chuỗi thời gian êm đềm ngày xưa. Chàng nhớ lại những lúc ngồi trên bệ đá, dựa lưng vào tường ở khu vòm tròn hàng hiên nhà Thúy, nơi được dùng làm chỗ chàng giảng bài cho hai người. Bên ngoài hàng hiên là vườn cây um tùm có gió mát đưa hương ngọc lan thoang thoảng trong không gian. Bên cạnh chàng, thằng Thành uể oải ngồi học. Còn Thúy thì chăm chỉ ngồi giải một bài toán khó. Những giọt mồ hôi thấm ướt hai bên má, chỗ làn tóc mai của nàng rủ xõa xuống. Quả là Thuý xinh đẹp thật.
Tân muốn không gian, thời gian hãy dừng lại để cho chàng chìm đắm hết ý nghĩ của mình vào vùng kỷ niệm êm đềm ấy. Nhưng bên cạnh chàng, Vũ đã ném xuống mặt nước sông một hòn sỏi nhỏ. Mảng ánh sáng của ngọn đèn đường in trên mặt nước vụt vỡ ra, xao động chợt kéo Tân về thực tại. Vũ nói:
– Từ lâu, tớ đi tìm cách pha mầu cho cái sự tan vỡ của mảng ánh sáng loang trên mặt nước vào ban đêm như thế này. Chúng có mầu vàng, đen và xanh đấy, nhưng sao tớ thử mãi mà vẫn thấy thiếu một cái gì kỳ ảo, diễn tả không được.
Tân đáp:
– Không có chất gì pha được vào đó cả. Bởi vì cái điều thiếu xót ấy là hồn nghệ sĩ. Qua bàn tay khối óc của nghệ sĩ cái sự kỳ ảo mà cậu vừa nói, nó sẽ hiện lên.
Vũ chịu là Tân nói đúng và hắn chép miệng:
– Thế thì muốn trở thành nghệ sĩ thật là khó. Không có ai dạy mà cũng chẳng có ai gán cho. Chỉ có mình tự tìm lấy cho mình thôi.
Một lát sau hai người đứng dậy. Tân ngỏ ý muốn Vũ dẫn mình đi qua tiệm rượu để mua một chai. Vũ ngạc nhiên nhìn chàng:
– Đau đớn đến thế kia hả?
Tân mỉm cười:
– Một hôm nay thôi. Ngày thứ Bẩy, 15.
Đi qua một tiệm còn mở cửa, Tân hỏi mua một chai vang đỏ làm Vũ phá lên cười:
– Ui, thế ra cậu định dìm tâm sự vào hũ nước lã này đó hả?
Tân ngắm nghía chai rượu rồi mỉm cười:
– Tôi không quen uống nên đối với tôi, rượu nào thì cũng là rượu hết. Cứ tống vào là đủ thấy mình không còn là mình nữa rồi.
Vũ nhún vai:
– Thế thì về nhà tu hết cả chai đi. Còn tớ thì những thứ này có đổ cả thùng vào bụng cũng chẳng thấy nhúc nhích cóc khô gì hết!
Tân về đến đầu ngõ thì trời đã quá khuya. Mọi nhà trong xóm đã đóng cửa im ỉm. Thỉnh thoảng trong khoảng tối tịch mịch lại vẳng ra tiếng võng đưa, tiếng trẻ con khóc ời ợi và tiếng chó sủa vu vơ.
Tân nghĩ đến Thúy trong đêm nay, đêm vui nhất của đời nàng. Giờ này chắc Thúy đang ở bên Đạt. Phòng cô dâu chắc đầy hoa và ánh sáng. Mùi nước hoa quen thuộc mà Thúy vẫn ưa dùng chắc bay thoang thoảng trên mặt gối, trên nệm giường và nhất là ở mái tóc mềm mại rủ xuống đôi vai trắng ngần của Thúy.
Tân vụt thấy cổ họng của mình như tắc lại. Những nỗi đau đớn dầy vò bị dồn nén từ bao lâu nay vụt trỗi dậy, xô đẩy hỗn độn trong đầu óc của Tân. Chàng kê cái cổ chai vào một bờ tường rồi đập mạnh. Chai rượu bị vỡ vẹt đi một mảng ở gần miệng. Tiếng thủy tinh dội lên như cứa xé nỗi lòng đang tan nát của Tân. Chàng ngửa cổ lên tu ừng ực, và nghĩ:
– Mình sẽ bước vào một khoảng không. Không có mình, không có Thúy, không có Đạt, không có tất cả mọi người.
Rồi Tân nhớ đến một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết nào đó đã nói: ” Có bốn điều mà tôi phải chọn một: tham dự thì gây đổ vỡ, bỏ đi thì bị dầy vò, tự tử là hèn nhát. Vậy chỉ còn một điều cuối cùng là tìm đến cái khoảng không của men rượu.”
Tân vẫn thường không đồng ý về sự lựa chọn ấy. Nếu hắn ta lấy cái sự vùi đầu vào men rượcu hay khói thuốc phiện như lẽ sống ở đời thì cuộc sống sẽ trở thành bê tha. Mà kẻ đã bê tha thì nhiều khi không còn giữ được tư cách của mình. Một người nghệ sĩ lại để cho tư cách bị đánh mất thì quả thật là hết sức đáng buồn. Chàng tự nhủ:
– Mình sẽ chịu nhận cái điều thứ hai là bỏ đi để bị dầy vò. Nhưng ít nhất thì cũng không phải là đêm nay. Đêm buồn nhất đối với mình và cũng là đêm sung sướng nhất trong cuộc đời của Thúy.
Một lát sau về tới nhà, Tân loạng choạng đi qua ngưỡng cửa vẫn được khép hờ bằng một mảnh nan tre. Vẫn quen với bóng tối, Tân lần về được căn buồng xép của mình. Đầu Tân nặng trĩu nhưng ý nghĩ thì vẫn như đang quay cuồng. Vì không uống rượu quen, Tân thấy nó nhức như búa bổ. Một sức nặng vô hình nào cứ đè lên khối óc của Tân mỗi lúc một tăng. Thế là chàng không còn kịp thay quần áo mà cứ để cả nguyên giầy, vớ nằm vật xuống giường.
Rồi Tân thiếp đi trong một cơn mơ dài. Cảm giác khó chịu dần dần tan đi. Tân thấy lòng mình lâng lâng bay bổng. Trong khoảng không vật vờ, hình ảnh của Thúy lại lộng lẫy hiện ra với bộ trang phục của cô dâu trong chiếc khăn choàng trắng dài lướt thướt có một vòng hoa trắng cài trên đầu. Thúy đẹp lộng lẫy như một nàng tiên chập chờn trong khung cảnh đầy hoa thơm, cỏ lạ. Sắc đẹp của nàng khiến Tân bàng hoàng. Chàng nhớ mang máng là đã gọi tên Thúy nhiều lần. Tân thấy Thúy quay lại. Nàng tiến đến gần. Hơi thở của nàng nòng hổi một bên tai. Rồi hai người ghì chặt lấy nhau. Tân hôn thật lâu lên cặp môi nóng bỏng của Thúy. Và chính Thúy đã tự tay thổi tắt ngọn đèn leo lét trên vách gỗ. Thế rồi hai người đã dìu nhau trên con thuyền lãng mạn để sang tới bến mê của tột đỉnh hoan lạc.
Rạng sáng hôm sauTân khát nước, choàng tỉnh dậy. Chàng hốt hoảng nom thấy Cúc đang nằm ngủ ngoan ngoãn trong lòng mình. Cái áo sơ mi quen thuộc của chàng đã được mắc ngay ngắn trên vách gỗ. Ôi! Cúc! Sao lại thế này? Thúy của chàng đâu rồi? Trong những cảm giác như thất thần, Tân vẫn có cảm giác như Thúy, người tình không bao giờ phai mờ trong trí não của chàng, vẫn như còn để lại hơi hướng nồng nàn, bỏng cháy lẩn quất đâu đây, sau giấc mơ tuyệt vời mà chàng còn nhớ đến từng chi tiết vừa qua.
Dưới ánh đèn héo úa, Cúc vẫn nằm ngủ mệt nhọc. Tóc nàng xõa xuống, rối bù trên mặt gối. Nước da Cúc bạc nhược, tái xám. Miệng Cúc há hốc nửa chừng, hơi thở của nàng nặng nề, khó nhọc. Chiếc áo cánh vải hoa bị Cúc ném xuống chân giường, còn sợi đây nịt vú thì vẫn lỏng lẻo thõng xuống ngang bụng.
Nhìn hình dáng lúc này của Cúc, chưa bao giờ Tân lại có cảm giác ê chề đến như thế. Chàng vụt nổi cơn bực bội và chẳng cần biết Cúc đang ngủ say mê mệt, Tân lấy chân đạp vào thật mạnh vào mình Cúc. Nhưng Cúc chỉ cựa mình ậm ừ.
Cơn giận cứ mỗi lúc một bừng lên, lần này thì Tân túm lấy hai bàn tay của Cúc giật mạnh. Cử chỉ thô bạo này làm Cúc hốt hoảng, mở choàng ngay hai mắt ra, bàn tay còn giơ lên quệt dòng nước rãi cho chẩy sang bên má. Tân cất giọng lạnh lùng:
– Ai bảo cô sang đây?
Cúc ngạc nhiên:
– Kìa, em thấy anh gọi mà.
Rồi Cúc lại lăn vào lòng Tân nũng nịu:
– Anh làm sao thế? Đêm hôm qua anh dễ thương lắm mà. Thôi nằm ngủ tới sáng đi. Anh cũng làm Cúc mệt thấy mồ.
Tân rùng mình khi thấy hình ảnh Thúy sáng lên trong ý nghĩ. Chàng vội vàng xô Cúc ra và với tay lên vách, lục trong túi áo ra một tờ giấy bạc, dúi vào tay nàng.
Cúc mở to mắt ra nhìn Tân. Ánh mắt của nàng từ ngạc nhiên chuyển sang hờn oán rồi giận dữ. Phải một lúc lặng đi thật lâu, Cúc mới nói:
– Anh cất ngay tiền đó đi. Với anh, Cúc không phải gái làng chơi.
Tân hậm hực:
– Vậy thì cô là cái gì?
– Gì thì anh biết đấy!
Giọng Tân trở nên gay gắt hơn:
– Tôi không biết!
Bây giờ thì Cúc hết còn nhịn nổi nữa rồi. Con người vốn dĩ của nàng vụt chồm dậy làm nàng đổi ngay cái giọng chanh chua:
– À đồ đểu! Húc mặt vào đấy mãi rồi nói không biết!
Tân nghiến hai hàm răng lại để kìm cơn giận dữ đang chực bùng nổ trong đầu:
– Cô đừng ăn nói với tôi cái giọng đó. Tôi đối xử với cô cũng như chán vạn ngưới khác thôi. Có gì khác biệt đâu?
– Anh đừng có giở cái giọng đó ra với tôi. Tôi tin anh, nên tôi đã đối xử với anh khác với tất cả mọi người khác.
Tân nhún vai:
– Chẳng có gì là khác hết. Cũng tiền trao, cháo múc thôi!
Cặp mắt của Cúc chợt long lên lên sòng sọc, nàng nhìn thẳng vào mặt Tân, giọng rít lên qua hai kẽ răng:
– Tiền trao cháo múc hả? Anh vẫn nghĩ là tiền trao cháo múc hả?
Tân nhún khẽ hai vai không trả lời trong khi Cúc hổn hển giọng cứ mỗi lúc một lạc đi:
– Tôi không ngờ…tôi không ngờ…
Rồi Cúc ngồi phắt dậy, quơ lấy chiếc áo cánh dưới gậm giường, vừa mặc vào vừa nói:
– Thôi được rồi…Thôi được rồi… Ít ra là tôi cũng thấy được cái tâm địa của anh là khốn nạn như thế…
Nói xong, Cúc quơ lấy đôi guốc, xỏ vào chân rồi xăm xăm đi ra, nhưng khi bước đến cửa buồng thì chợt đứng khựng lại. Rồi bỗng nhiên Cúc bưng hai tay lên mặt, tu lên khóc. Thái độ bất ngờ này của Cúc làm cho Tân nhăn mặt lại. Chàng hất hàm hỏi:
– Đâu có đến nỗi nào, mà sao cô phải khóc?
Cúc không đáp, chỉ cất giọng khóc to hơn. Tiếng nức nở của nàng vang lên trong căn buồng tối tăm, chật hẹp. Rồi chợt có tiếng của Cúc não nuột vang lên:
– Anh ơi! Em có bầu với anh rồi!
Như một tiếng sét đánh bên màng tang, Tân giật bắn người lên, giọng của chàng cũng lạc hẳn đi:
– Cái gì?…. Cô nói cái gì?….
Cúc vụt quay trở lại, nhào vào Tân khi đó vẫn còn ở trên giường và tiếng khóc của nàng bây giờ thì như lặng đi trong tức tủi. Tân vội vã gỡ nàng ra và chàng thấy mình đã bình tĩnh trở lại. Chàng cất giọng rành rẽ:
– Cô nói cái gì lạ lùng như thế chứ. Không thể như thế được.
Cúc không đáp, chỉ khẽ nhích người thêm một chút rồi cầm ngay lấy một bàn tay của Tân đem đặt lên lớp da bụng của mình.
Tân nhăn mặt lại, cố quay đi không nhìn, nhưng cái cảm giác cộm lên trong lòng bàn tay đã cho chàng thấy như bụng Cúc đang căng lên, phình ra và điều này lại càng khiến cho chàng trào lên những cảm giác kinh tởm.
Phải cố gắng lắm Tân mới cất lên tiếng nói được, như một kẻ đắm tầu đang cố quơ lấy một cái phao mỏng manh đang vật vờ trên sóng nước:
– Ừ, thì cô có bầu thật, nhưng….nhưng biết bao nhiêu là người….Đâu…đâu…có phải mình tôi…
Cúc nhìn Tân bằng ánh mắt vừa như ghét bỏ vừa như muốn gợi tình thương ở nơi chàng:
– Tại cái tối hôm đó.. cái hôm trời mưa to …Em tính ngày em biết. Có bầu được, dễ gì!
Tân ngoảnh mặt quay đi để tránh tia nhìn của nàng, hai vành môi của chàng mím chặt lại. Rồi Tân hừ lên một tiếng đầy vẻ khinh bỉ, thù hằn. Nhưng hình như Cúc không nghe thấy. Nàng vẫn tiếp tục nói, giọng cứ mỗi lúc một tin tưởng hơn:
– Có lẽ lão Nhớn nó bói đúng. Nó bảo sau này em sẽ có chồng, có con đàng hoàng.
Thấy Tân vẫn không trả lời, Cúc tiếp tục giọng như vui hơn:
– Mà chồng thì là thứ khá chứ không phải tầm thường đâu. Gặp anh là em biết ngay mình thế nào cũng khá mà.
Nói rồi Cúc ngẩng mặt lên nhìn. Nàng bắt gặp nét mặt dữ tợn của Tân ẩn hiện chập chờn dưới ánh đèn leo lét. Niềm vui của nàng vừa chợt nhóm lên đã như bị một gáo nước lạnh dội vào làm cho tắt ngóm. Lập tức, nàng xô ngay Tân ra và cất giọng bải hải:
– Anh không chịu hả, anh chối hả. Ôi giời ơi! Tôi biết mà! Tôi biết cái thân tôi mà!
Thế rồi Cúc lại òa lên khóc. Mặt Tân hơi nhăn lại vì tiếng khóc của Cúc lần này to hơn hơn lần trước. Chàng không nhìn nàng, cũng chẳng cần thấy phải dỗ dành, chỉ bật đứng dậy và bỏ đi ra đứng ngoài sân đất.
Bầu trời êm ả, lưa thưa sao. Bồn bề im vắng. Các mái nhà thấp như sáng lên, lờ mờ dưới ánh trăng đầu tuần héo úa. Trong lòng cống, tiếng nước róc rách chảy. Có đôi ba tiếng người cựa mình trên giát nứa, tiếng trẻ con khóc ời ợi. Khung cảnh mang vẻ tồi tàn, tăm tối như ý nghĩ tăm tối của Tân lúc đó.
Chàng ngồi xuống bực thềm đưa hai bàn tay ôm lên mặt. Tuy cố kìm giữ nhưng hai hàng nước mắt cũng đã chảy nòng trên hai má của chàng. Tân có cảm giác như mình đang chìm đắm trong tủi nhục, đớn hèn, đáng phỉ nhổ, nhưng cũng chẳng vì thế mà chàng có ý muốn thoát ra.