← Quay lại trang sách

Chương 7 Bưu phẩm tử thần

Giữa đàn ông và đàn bà không có tình bạn trong sáng, chỉ có sự đam mê, thù hằn, sùng kính, yêu đương, và tuyệt nhiên không có tình bạn đơn thuần nào.

− Oscar Wilde −

1

Phùng Chí Huyền vừa bước vào thang máy đã nhăn mày.

Nơi anh ta ở là một chung cư tái định cư, khu chung cư này lúc mới xây trông cũng rất ra dáng nhưng chỉ vài năm sau thì chỗ nào trong chung cư cũng ngập rác, dẫu sao trình độ văn hóa của cư dân sống ở đây chỉ có hạn. Thực ra, thường ngày đều có người đến quét dọn, nhưng chủ nhân của những đống rác này đều không muốn dọn chúng đi, bởi vì một vài cư dân thất nghiệp mưu sinh bằng nghề bới rác tái chế trong thùng, họ tự chọn một khu vực công cộng, gom rác chất thành đống, giống như khoanh vùng lãnh thổ của nhà mình, bó lại, mang đi bán.

“Khéo chỉ có công nhân viên chức, người bán hàng vỉa hè và người thu gom phế liệu mới vào ở khu chung cư này.” Phùng Chí Huyền than thở thành tiếng, bản thân anh ta đang mệt muốn chết mà nhìn đâu cũng thấy rác, mà còn chất thành đống to, khiến anh ta càng thêm buồn bực, phiền chán.

Nhà của Phùng Chí Huyền ở trên tầng hai, lán để xe đạp phía dưới phòng ngủ đã bị một bà già chiếm dụng, thường ngày nhét đầy rác tái chế. Sắp vào hè đến nơi, đám rác đó sẽ trở thành đại bản doanh của lũ ruồi muỗi. Nơi bị ảnh hưởng trực tiếp nhất chính là cửa sổ phòng ngủ ở tầng 2 của anh ta. Chính bà lão này là người tiên phong thu gom rác tái chế khiến những người khác trong khu chung cư bắt chước thu gom theo, số người càng ngày càng đông. Chuyện bà lão chiếm dụng lán để xe khiến Ban quản lý tòa nhà và chính quyền thành phố đến nhắc nhở không biết bao nhiêu lần nhưng họ đành bó tay với bà lão vừa ghê gớm lại vừa tai quái này. Vì muốn đẩy Ban quan lý đi, bà lão sẵn sàng cởi quần áo ăn vạ trước mặt mấy chục cậu thanh niên làm việc trong bộ máy chính quyền thành phố. Đúng là khu chung cư có một người như thế cũng đủ khiến Ban quản lý khu chung cư phải nhức đầu.

Muốn hỏi tại sao Phùng Chí Huyền không chuyển nhà? Chẳng còn cách nào khác, anh ta chưa lấy vợ, lấy hết số tiền tiết kiệm mấy năm nay, lại còn vay bố mẹ không ít tiền mới trả được khoản tiền trả góp mua nhà đợt một. Anh ta trách mình lúc đầu cả tin nên mắc lừa tay cò mồi bất động sản, nào ngờ mới có năm năm mà khu chung cư rất ra dáng ngày nào đã trở nên tàn tạ như bây giờ. Mà cũng trách bản thân khi đó ham rẻ, nên giờ dẫu muốn đổi nhà khác, nhưng dựa vào thu nhập hiện tại của mình thì chỉ sợ phải đợi đến kiếp sau.

Lúc ấy nghe người ta nói cái gì mà xây xong tổ mới dụ được phượng hoàng, giờ mua phải cái tổ rách nát thế này thì biết đi đâu dụ dỗ phượng hoàng? Dụ được con sẻ quạt đã là may mắn lắm rồi.

Phùng Chí Huyền lái xe chạy trên con đường quanh khu chung cư, nhìn camera ở góc đường. Ngay cả camera cũng là hàng dởm, lần trước xe máy điện của anh ta bị kẻ trộm lấy mất, anh ta yêu cầu Ban quản lý tòa nhà bật camera giám sát lên kiểm tra, kết quả nhân viên Ban quản lý nói hệ thống camera trong khu đều hỏng hết. Vì việc này mà Phùng Chí Huyền cãi nhau một trận nảy lửa với Ban quản lý, hơn nữa, từ đó trở đi, anh ta nhất quyết không nộp phí quản lý tòa nhà nữa.

Càng ngẫm, Phùng Chí Huyền càng tức lộn ruột, trở về nhà, ăn gói mì tôm, rồi bò lên giường ngủ luôn, chẳng buồn tắm rửa. Ai cũng bảo viên chức nhà nước nhàn việc, bảo họ có phúc, nhưng anh ta làm việc trong cơ quan nhà nước đã gần mười năm, mà sao càng ngày lại càng thấy mệt? Sao chẳng thấy được hưởng phúc lợi gì? Giữa lúc lơ mơ nửa tỉnh nửa mê, trong đầu Phùng Chí Huyền ngập tràn oán hận.

Chẳng biết bao lâu trôi qua, dường như trong mơ, Phùng Chí Huyền nghe thấy giọng phụ nữ thét lên thất thanh. Anh ta thoắt chốc tỉnh táo hoàn toàn. Nhìn ra ngoài cửa sổ, lúc này trời đã tối mịt, ánh trăng treo vắt vẻo trên cao. Phùng Chí Huyền bấm điện thoại di động xem giờ, thời gian là 11 giờ 20 phút đêm.

Tiếng thét chói tai của phụ nữ dường như chỉ vang lên một lần rồi hoàn toàn tắt lịm.

Anh ta vừa nằm mơ ư? Lẽ nào muốn lấy vợ đến mức này à? Khéo anh ta mơ thật! Bởi dẫu thực sự vợ chồng nhà ai cãi nhau giữa đêm khuya khiến cô vợ phải la hét thì cũng không thể chỉ kêu một tiếng rồi thôi.

Phùng Chí Huyền bò dậy, rót cốc nước lọc uống cạn. Đồng thời, anh ta dỏng tai nghe ngóng động tĩnh bên ngoài. Tuy rằng khu chung cư cách âm bằng tấm thủy tinh hai lớp nên hiệu quả cách âm không tồi nhưng vì muốn tận hưởng nốt chút khí trong lành từ thiên nhiên trước khi mùa hè ập đến nên anh ta vẫn mở rộng cửa sổ. Nếu có âm thanh thì nhất định sẽ nghe thấy.

Ngoài trời hoàn toàn tĩnh lặng, không hề có một tiếng động.

Phùng Chí Huyền vẫn thấy không yên tâm, liền đi ra ban công, ngó nghiêng xung quanh. Cửa sổ nhà ai cũng tắt đèn tối om, không ai giật mình thức giấc vì tiếng kêu, thậm chí nhỏm dậy đi kiểm tra những hộ gia đình khác giống như anh ta.

Xem ra tiếng thét thất thanh kia thực sự chỉ ở trong giấc mơ của anh ta mà thôi.

Phùng Chí Huyền nhếch miệng cười tự trào hai tiếng, không biết cô vợ tương lai của mình đang trốn ở nơi đâu.

Nằm trở lại giường nhưng Phùng Chí Huyền không ngủ nổi nữa, anh ta tỉ mỉ nhớ lại tiếng thét vừa nghe khi nãy và thấy âm thanh này vô cùng chân thực, không giống như âm thanh phát ra trong mơ. Trước đây anh ta đã từng nằm mơ thấy những cảnh tượng giống như thật, nhưng thật đến mức tựa hồ vang lên ngay bên tai như khi nãy thì chưa bao giờ trải nghiệm. Chuyện gì thế nhỉ?

Khi Phùng Chí Huyền lại lần nữa chìm vào trạng thái lơ mơ ngủ thì anh ta bị tiếng đóng cửa đánh sầm một cái làm giật mình tỉnh giấc, vẫn như lúc nãy, cảm giác vô cùng chân thực.

Dường như âm thanh phát ra từ tầng 3.

Muộn thế này rồi mà tầng trên vẫn có người ra ngoài sao?

Tầng trên có một đôi vợ chồng trẻ sinh sống, tài mạo đều xuất sắc, hơn nữa đối xử với mọi người lại thân thiện, lịch sự, lễ độ, để lại ấn tượng rất sâu sắc với Phùng Chí Huyền. Phùng Chí Huyền từng nói chuyện phiếm với họ. Người chồng họ Thạch, cùng tuổi với anh ta, năm nay ba mươi hai tuổi, không những thế anh ta còn là viên chức nhà nước. Có điều phần lớn công việc của anh Thạch lại ở ngoại tỉnh nên suốt ngày phải đi công tác. Còn cô vợ họ Tào, chưa đến ba mươi tuổi, cũng là viên chức nhà nước. Hơn ba tháng trước, gia đình cặp vợ chồng trẻ này còn có thêm một thành viên, là một bé trai bụ bẫm. Thời gian gần đây, người vợ đang nghỉ sinh nên chỉ chuyên tâm ở nhà nuôi con.

Hai vợ chồng họ gặp Phùng Chí Huyền ở cầu thang đều nhiệt tình chào hỏi. Có lần còn cùng nói xấu bà lão thu gom rác tái chế trong khu.

Tuy cùng ở trong môi trường tệ hại nhưng Tiểu Thạch nhà người ta giỏi hơn Phùng Chí Huyền rất nhiều, ít ra người ta cũng có cô vợ xinh xắn và đứa con mập mạp, còn mình thì... trăm năm cô đơn.

Có điều chẳng lẽ âm thanh kia vọng từ tầng 3 xuống thật sao?

Phùng Chí Huyền cẩn thận nhớ lại nguồn gốc phát ra âm thanh hai lần trước, càng nghĩ càng thấy đúng là từ tầng 3 vọng xuống. Càng nghĩ anh ta càng thấy bất an. Nhưng đôi vợ chồng trẻ này đã ở đây bốn năm, anh ta chưa thấy họ đánh chửi nhau bao giờ. Thế thì tiếng thét thất thanh kia là thế nào? Phùng Chí Huyền càng nghĩ càng không yên tâm, rất muốn lên đó xem tình hình ra sao.

Có điều bây giờ đã gần 12 giờ đêm, nếu mình mạo muội lên đó gõ cửa phòng nhà người ta liệu có bị coi là tâm thần không nhỉ?

Phùng Chí Huyền lại ra ban công, nhìn về phía cổng khu chung cư. Cổng khu chung cư nhập nhòa đằng xa vì một nửa số bóng đèn đường ở khu này đã bị hỏng, cho nên căn bản không nhìn rõ tình hình ngoài cổng. Nhân viên bảo vệ của khu đều là mấy ông lão tuổi gần thất thập cổ lai hy, họ nói trực đêm cho oai chứ thực ra đều ngủ gục trong phòng trực, bởi thế khu chung cư này chẳng khác gì không có bảo vệ. Liệu người xấu có nhân cơ hội này xâm nhập vào tòa nhà không? Phùng Chí Huyền nhoài nửa thân trên qua ban công, ngó lên tầng trên.

Nhưng góc độ này căn bản không nhìn thấy gì, ngay cả đèn cầu thang có bật hay không cũng chẳng nhìn rõ. Phùng Chí Huyền quay lại giường, nằm xuống, cố gắng lắng nghe xem tầng trên còn động tĩnh gì không. Nhưng từ đó về sau đều im phăng phắc. Tám mươi phần trăm là do mình tự kỷ ám thị rồi, Phùng Chí Huyền thầm nghĩ, cứ nghĩ miên man như vậy hồi lâu, anh ta chìm vào giấc ngủ lúc nào chẳng biết.

7 giờ sáng hôm sau thức giấc thì trời đã sáng bảnh mắt. Phùng Chí Huyền bị tiếng chuông đồng hồ đánh thức. Vì cơ quan yêu cầu nhân viên phải đến văn phòng trước 7 giờ rưỡi nên anh ta đã quen dậy sớm. Sau khi vệ sinh cá nhân đơn giản, Phùng Chí Huyền lái xe đi làm. Lúc mở khóa xe máy điện, Phùng Chí Huyền chợt nhớ đến tiếng thét đêm qua, anh ta vô thức ngẩng đầu liếc lên ban công tầng 3.

Không ngờ đèn tầng 3 vẫn sáng. Nhưng trời đã sáng rõ thế này còn bật đèn làm gì nhỉ? Không được! Phải lên đó xem sao.

Phùng Chí Huyền chạy lên tầng 3, áp tai vào cánh cửa nghe ngóng. Hoàn toàn không có động tĩnh gì.

Nhưng nhà họ sáng đèn cơ mà? Phùng Chí Huyền nuốt nước bọt, mạnh dạn gõ cửa.

Vẫn im lặng như tờ, thậm chí ngay cả tiếng trẻ con khóc cũng chẳng nghe thấy.

Ra ngoài rồi sao? Phùng Chí Huyền nghĩ? Quên tắt đèn chăng? Thế cũng không đúng! Nhà có trẻ sơ sinh làm sao vừa sáng sớm đã dắt díu nhau ra ngoài? Không hợp với lẽ thường chút nào.

Anh ta lại gõ cửa mấy lần nữa, trong nhà im ắng bất thường. Liên tưởng đến tiếng thét mơ hồ tối qua, lòng dạ anh ta lại thấp thỏm bất an.

Phùng Chí Huyền đành xuống lầu, đứng bên xe máy điện kiễng chân nhìn lên tầng trên, nhưng không nhìn thấy gì. Thế là anh ta chạy xe máy đến cổng bảo vệ của khu chung cư, thuật lại đầu cuối tình hình cho nhân viên bảo vệ biết, hy vọng bảo vệ giúp mình liên hệ với gia chủ sống ở tầng 3.

Nhân viên bảo vệ là ông lão tuổi ngoại lục tuần, đội mũ đồng phục còn lệch, vẫn đang uể oải nằm trên ghế sofa cũ rách trong phòng trực, nhướng cặp mắt lờ đờ ngái ngủ nhìn Phùng Chí Huyền, nghe xong, ông ta nói: “Có phải cậu xem phim truyền hình nhiều quá không? Mà gia đình trên tầng 3 có quan hệ gì với cậu? Đúng là ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng, cứ khéo lo chuyện thiên hạ. Tôi còn đầy việc ra đấy, không có thời gian ngồi bày đồ hàng với cậu.”

Tuy “đụng phải vách tường” trong phòng bảo vệ nhưng Phùng Chí Huyền vẫn không yên tâm. Nghĩ đi nghĩ lại, anh ta lấy điện thoại di động bấm số gọi cảnh sát.

“Chà chà, cảm giác này phê quá!” Đại Bảo nói.

Trong văn phòng của tổ khám nghiệm, mọi người đang nhớ lại cảnh tượng diễn ra hai hôm trước khi rời khỏi thành phố Anh, tất cả các thành viên vẫn đang chìm đắm trong cảm giác lâng lâng vì mình đã phá được án.

Sau khi phá được vụ án phóng hoả vô tình giết hại năm mạng người, chúng tôi theo chân đội cảnh sát hình sự chuyên xử lý trọng án, áp giải nghi phạm Lữ Phương đến hiện trường xảy ra vụ án tiến hành nhận diện tình hình tại hiện trường. Đây là công tác bắt buộc phải tiến hành sau khi vụ án được phá giải, thứ nhất là để gia cố chứng cứ thêm một bước, thứ hai là để xác định quá trình xảy ra vụ án, từ đó lấy thêm được vật chứng, cung cấp căn cứ để tổng kết những điểm được mất trong việc tái hiện hiện trường.

Tâm trạng của chúng tôi đối với nghi phạm Lữ Phương rất mâu thuẫn, một mặt thông cảm với cảnh ngộ bi đát của cô ta, một mặt thì tức giận vì hành vi bất nhân của cô ta với chồng cũ, chỉ vì suy nghĩ sai lầm mà gây ra hậu quả nghiêm trọng đến thế. Chí ít ba đứa trẻ vô tội không đáng phải kết thúc sinh mệnh của mình như vậy.

Tôi tin rằng hàng xóm xung quanh cũng có chung cảm xúc với chúng tôi.

Cho nên chúng tôi đưa Lữ Phương vào trong khu vực đường dây cảnh giới ở hiện trường dưới ánh mắt phức tạp của đám đông vây quanh.

Vì quá trình gây án diễn ra đơn giản nên quá trình nhận diện hiện trường chỉ diễn ra trong vòng mười phút, sau đó chúng tôi trở về chỗ để xe của cảnh sát. Lúc xe chầm chậm nổ máy, không biết ai trong đám đông bắt đầu vỗ tay, tiếp đó, tiếng vỗ tay như sấm dậy vang lên khắp hiện trường.

Sau tiếng vỗ tay vang dội, ánh mắt phức tạp của đám đông dần dần trở nên kiên định, họ đã lựa chọn “chính nghĩa theo pháp luật.”

Xe chúng tôi từ từ lăn bánh rời khỏi hiện trường trong tiếng vỗ tay khen ngợi của quần chúng.

Tuy hằng ngày đều phải đến các hiện trường án mạng, nhưng đây là lần đầu tiên chúng tôi được hưởng đãi ngộ này, bởi vậy âm hưởng của tâm trạng phấn khích vẫn cháy mãi không lụi, thậm chí về nhà nghỉ ngơi hai ngày, tâm trạng chúng tôi vẫn kích động khác thường.

“Các anh biết không? Hồi đi thực tập, có lần đến một đồn công an ở nông thôn, muốn yêu cầu cảnh sát địa phương đưa tôi vào trong làng để tìm hiểu tình hình.” Trần Thi Vũ nói, “Chẳng ngờ viên cảnh sát lại từ chối không muốn đưa tôi đi, nói là sợ mặc cảnh phục sẽ gây ra một số hiểu lầm. Lúc đó tôi rất thắc mắc, chẳng lẽ câu Đi sâu vào quần chúng, trở ra với quần chúng chỉ nói cho hay thôi sao?”

“Đúng là có một số đơn vị ở địa phương quan hệ rất gượng gạo với quần chúng.” Tôi nói.

“Cho nên ấy à, lần này tôi cảm thấy vô cùng ấm lòng.” Trần Thi Vũ nói.

“Chẳng thế thì sao!” Lâm Đào vươn vai nói, “Con người ta sống trên đời, cần nhất chính là cảm giác được tồn tại và cảm giác được thừa nhận. Những cảm giác này không tự nhiên mà có, đều phải tự mình nỗ lực mới giành được.”

“Con mắt của quần chúng tinh tường lắm.” Tôi nói, “Chúng ta giống như cây dù, chỉ khi chúng ta thực sự có thể giương dù, che mưa chắn gió cho quần chúng thì họ mới tung hô chúng ta. Còn nếu chúng ta chỉ là cái ô rách để lọt mưa lọt gió thì cứ việc ngồi đó mà đợi bị ném vào thùng rác.”

“Lý luận về cây dù này kinh điển đấy!” Đại Bảo chống cằm nói.

“Đối với chúng ta, chỉ khi phá được án mạng thì mới được công nhận, mới coi là hoàn thành sứ mệnh.” Tôi nói nghiêm túc, “Tuy rất nhiều người cho rằng vụ án mạng nào cũng bắt buộc phải phá được là điều hoang đường, mà trên thực tế không phải thành phố nào cũng có thể phá giải được tất cả các vụ án mạng mỗi năm, ngay như tỉnh ta, tỉ lệ phá án thành công hằng năm là chín mươi chín chấm mấy phần trăm, chứ cũng chưa đạt đến một trăm phần trăm. Nhưng tôi cho rằng, phải có mục tiêu thì mới có thể đốc thúc chúng ta không thể lười nhác, chậm trễ, không dễ dàng thỏa mãn với những gì mình đạt được.”

“Đúng thế! Mỗi lần phá được án, quần chúng đều công nhận chúng ta.” Hàn Lượng nói, “Nhưng kiểu hoan hô nhiệt liệt như lần này thì đúng là lần đầu tiên được trải nghiệm, nên tôi cảm thấy rất đã.”

“Ừm, đây giống như khúc nhạc đệm khích lệ tinh thần chúng ta. Không dám nói chúng ta bất khả chiến bại nhưng chúng ta sẽ cố gắng thừa thắng xông lên.” Tôi càng nói càng phấn khích, “Vụ án tiếp theo, chúng ta vẫn phải cố gắng hết mình để phá giải được nó.”

“Này này! Độc mồm vừa thôi, phỉ phui cái mồm cậu!” Lâm Đào vội vàng giơ tay ra ngăn tôi lại.

Nhưng vừa dứt lời thì điện thoại điều phối liền vang lên như ứng nghiệm lời tôi nói.

“Ôi trời ơi!” Tay Lâm Đào còn chưa kịp rụt lại, liền đập luôn vào đầu tôi, “Cậu đúng là danh bất hư truyền! Cậu tưởng đi khám nghiệm hiện trường là chuyện tốt hả?”

“ít nhất thì cùng không lo bị bệnh trĩ còn gì!” Đại Bảo hớn hở bấm nút loa ngoài của điện thoại.

“Xảy ra một vụ án mạng ở thành phố Lệ Kiều.” Trung tâm chỉ huy nói, “7 giờ rưỡi sáng nay nhận được điện thoại báo án, trong khu chung cư tái định cư có một cặp mẹ con bị giết hại. Chi đội cảnh sát hình sự thuộc Công an thành phố Lệ Kiều vừa gửi thư mời, hy vọng Sở Công an tỉnh chúng ta hỗ trợ. Viện trường Trần đang đi công tác ở ngoại tỉnh, chúng tôi đã xin chỉ thị của ông, Viện trường Trần chỉ thị đội khám nghiệm lập tức đến thành phố Lệ Kiều hỗ trợ phá án.”

“Đã rõ! Tình hình vụ án cụ thể như thế nào?” Tôi hỏi.

“Chưa biết tình hình cụ thể, mới biết bấy nhiêu thôi.” Nói xong, trung tâm chỉ huy ngắt điện thoại.

Điện thoại đã ngắt mà mọi người vẫn ngây ngẩn tại chỗ. Đúng là thời gian gần đây, các vụ án kéo đến hơi dồn dập khiến chúng tôi cảm thấy hơi ngộp thở.

Tôi nhìn các đồng nghiệp đang ngẩn người thì cười bảo: “Đi thôi, tranh thủ thời gian đến Lệ Kiều nghe tình hình tiền kỳ vụ án thì vừa kịp đến giờ cơm trưa đấy.”

Mọi người như bừng tỉnh khỏi cơn mê, người nào người nấy sắp xếp lại hòm dụng cụ khám nghiệm của mình.

Mười phút sau, chiếc xe bảy chỗ dành riêng cho tổ khám nghiệm đã bắt đầu khởi động.

“Một cặp mẹ con bị sát hại? Chắc chắn là do ông bố làm rồi.” Đại Bảo đưa ra phán đoán.

“Lý luận kiểu gì thế hả?” Tôi hỏi.

“Trực giác.” Đại Bảo tỏ vẻ thần bí.

“Anh còn nhớ vụ án lần trước có bà mẹ bị sát hại và cả cô con gái nhỏ tuổi bị đâm mười mấy nhát dao vì dám cắn phần tử tội phạm bị thương không?” Tôi hỏi.

“Nhớ chứ!” Vẻ mặt Đại Bảo thoáng chốc trở nên u ám, “Vụ án đó quá thảm thương, đừng nhắc đến nữa, nhắc đến lại thấy đau lòng.”

“Hy vọng vụ án lần này không bi thảm như thế.” Tôi nói.

Nghĩ một hồi, tôi rút điện thoại gọi cho Giám đốc Công an thành phố Lệ Kiều. Tôi luôn là người nôn nóng như thế, trước mỗi lần đi khám nghiệm đều hy vọng có thể tìm hiểu cặn kẽ tình hình của vụ án, thứ nhất là để thỏa mãn lòng hiếu kỳ, thứ hai là để chuẩn bị trước về mặt tâm lý và về mặt kỹ thuật.

Trước khi khám nghiệm tử thi, các bác sĩ pháp y đều phải vạch ra các phương án dự phòng, như thế mới có thể giúp công tác khám nghiệm tử thi được thực hiện tỉ mỉ và toàn diện hơn. Thực ra công tác khám nghiệm hiện trường cũng vậy, nếu có thể đưa ra các phương án khám nghiệm và giám định dự phòng sau khi hiểu được tình hình bước đầu của vụ án thì càng giúp nhân viên kỹ thuật hình sự đi sâu khám nghiệm, thậm chí vì đưa ra được các phương án dự phòng tốt nên chưa cần tiến hành công tác tái khám nghiệm hiện trường thì đã phá được án.

“Nạn nhân thứ nhất tên là Tào Tĩnh, hai mươi tám tuổi, công nhân viên chức thuộc tổng cục đường bộ, làm việc tại thành phố. Nạn nhân thứ hai là một bé trai sơ sinh mới ba tháng tuổi, vẫn chưa kịp đăng ký hộ khẩu.” Giám đốc Công an thành phố Lệ Kiều họ Cường, ông nói, “Tổng hợp lời phản ánh của người báo án và tình hình khám nghiệm tử thi bước đầu của bác sĩ pháp y thì thời điểm tử vong có lẽ là vào hơn 11 giờ đêm hôm qua.”

“Có xác định là án mạng không? Hay là tự sát?” Tôi hói.

Tôi hỏi vậy là vì các vụ án mà kèm theo tình tiết giết trẻ em, ngoại trừ do trẻ nhỏ gây án thì phần lớn đều là do tự sát. Trước đây chúng tôi từng gặp một vụ án người mẹ ra tay sát hại chính con ruột của mình rồi tự sát.

“Tào Tĩnh tử vong vì một nhát dao ở cổ, không tìm thấy con dao phù hợp với đặc trưng hung khí tại hiện trường cho nên có thể khẳng định đây là một vụ án giết người. Hơn nữa trên cơ thể Tào Tĩnh còn có dấu vết uy hiếp và dấu vết khống chế.” Giám đốc Cường nói, “Hiện trường có dấu vết vật lộn, xem ra sau khi hung thủ lừa nạn nhân mở cửa thì dùng phương pháp nào đó trói và uy hiếp người bị hại, đồng thời thực hiện hành vi cướp giật.”

“Vậy bố đứa bé thì sao?” Tôi hỏi ngay.

“Bố đứa bé tên là Thạch Viễn Chinh, công tác ở ủy ban Nhân dân thành phố. Lúc xảy ra án mạng, anh ta đang đi công tác ngoại tỉnh.”

“Thông tin này có đáng tin không?”

“Đáng tin. Công tác điều tra vòng ngoài thể hiện rất rõ ràng. Từ tình hình thông tin sử dụng xe, thông tin lưu trú tại khách sạn, thông tin từ camera giám sát và điều tra đối tượng đi cùng anh ta thì đều xác nhận Thạch Viễn Chinh không có mặt tại hiện trường vào thời điểm án mạng xảy ra.” Giám đốc Cường nói, “Hơn nữa, chúng tôi cũng đã điều tra tình hình liên lạc điện thoại của Thạch Viễn Chinh, nhận thấy không hề có vấn đề gì khác thường vào thời điểm trước và sau khi xảy ra vụ án, cho nên có thế loại trừ anh ta khỏi diện bị tình nghi.”

“Nếu đây là vụ án giết người cướp của thì tương đối phức tạp.” Tôi nói.

Đối với những vụ án chuyển vùng không có mục tiêu rõ rệt, việc phá án sẽ vô cùng khó khăn. Thông qua những gì chúng tôi hiểu về tiền kỳ của vụ án thì giờ xem ra tình hình không tốt lắm. Bởi vậy, sau khi tôi gọi điện xong, mọi người đều rơi vào trầm lặng. Không chỉ bởi độ khó của vụ án mà còn bởi mặc niệm và thương xót cho sự ra đi của hai con người vô tội.

2

Nhờ xe của Công an thành phố Lệ Kiều dẫn đường, xe khám nghiệm chúng tôi lái thẳng vào khu chung cư nơi xảy ra vụ án. Lúc này đã gần giữa trưa, cư dân trong khu chung cư lục tục tan tầm trở về nhà, người vây quanh hiện trường ngày càng đông.

Đường dây cảnh giới phong tỏa cổng tòa nhà số ba, nơi xảy ra vụ án, nhưng vì không thể ngăn cản được cư dân sống trong tòa nhà này nên những người sống ở tòa nhà thứ ba vẫn có thể đi vào hiện trường. Cảnh sát lại kéo thêm một đường dây cảnh giới nữa trước cửa phòng 305, hiện trường xảy ra án mạng.

Nhìn cư dân tòa nhà số ba bước vào cầu thang với vẻ mặt kinh hoàng, Lâm Đào dừng bước nói: “Thế là tất cả dấu vết lưu lại ở tòa nhà số ba đều mất hết rồi.”

Tôi xua tay: “Chẳng còn cách nào khác, giờ phải xem hiện trường trung tâm thế nào thôi.”

Chúng tôi mặc đồng phục khám nghiệm sẵn sàng, cùng Giám đốc Cường bước đến cửa hiện trường trung tâm ở tầng 3. Viên cảnh sát có trách nhiệm đứng canh cửa nhìn thấy Giám đốc Cường liền vén dây cảnh giới lên cho chúng tôi chui qua. Tôi không gấp gáp đi vào bên trong, mà đứng ngoài cửa lẳng lặng quan sát một lát.

Căn phòng này là loại phòng tiêu chuẩn với ba phòng ngủ, một phòng khách, một phòng bếp và một phòng vệ sinh, diện tích chỉ chừng trên dưới một trăm mét vuông. Cửa mở rộng, đối diện với phòng khách. Xung quanh phòng khách có năm cánh cửa, lần lượt là các cửa dẫn đến ba phòng ngủ, phòng bếp và phòng vệ sinh.

Phòng khách được bày biện rất gọn gàng, ở cửa đặt một hộp xốp nhựa màu trắng, một góc đáy hộp đã bị vỡ nát, bên cạnh còn có mấy miếng xốp nhựa vỡ thành mẩu vụn, hộp không có nắp, bên trong chứa hai hộp sữa bột và một túi bột gạo.

Trên chiếc ghế cạnh bàn ăn ở phòng khách có một chiếc túi nữ đeo chéo màu đỏ, miệng túi đang mở.

Cách bàn ăn không xa có một thi thể phụ nữ nằm gục ở cửa phòng ngủ. Thi thể này không gục xuống theo tư thế thông thường mà ở tư thế quỳ, nửa người trên phủ phục xuống đất. Mái tóc dài xõa trên sàn nhà, không nhìn rõ khuôn mặt. Trên mặt tường và cánh cửa phòng gần thi thể dính nhiều vết máu phun thành tia. Cạnh thi thể còn có vũng máu lớn, chắn ngang đường vào phòng ngủ.

“Tôi cũng chịu luôn, sao gần đây toàn gặp những vụ án kiểu này.” Lâm Đào đang quỳ gối ở cửa, quan sát lỗ khóa, nói, “Toàn loại sàn nhà không dễ lấy dấu vết.”

Nghe Lâm Đào nói vậy tôi mới nhìn sàn nhà phòng khách. Sàn nhà lát nền phức hợp cường hóa, không phải loại mặt sàn trơn nhẵn, là loại được gia công lồi lõm vân mộc. Tôi khom người ghé mắt nhìn sàn nhà, rất sạch sẽ, chứng tỏ nữ chủ nhân của ngôi nhà thường ngày không chỉ lo chăm con mà còn rất chăm chỉ quét dọn, vệ sinh nhà cửa. Với loại sàn nhà kiểu này, trừ phi phát hiện thấy dấu chân máu, bằng không căn bản không thể lấy được dấu chân có giá trị so sánh và nhận diện.

“Có bao nhiêu điều kiện thì làm bấy nhiêu vậy.” Tôi nói, “Chúng ta cũng không thể hy vọng lấy được tất cả các loại hình vật chứng ở mọi hiện trường vụ án. Khóa cửa thế nào?”

“Vẫn nguyên vẹn.” Lâm Đào đứng dậy nói, “Không có dấu vết cạy khóa.”

“Kẻ trộm đột nhập vào nhà theo lối cửa sổ sao?” Đại Bảo xen lời.

Tôi lắc đầu, chỉ hộp xốp nhựa đựng sữa bột trên sàn nhà, nói với Giám đốc Cường: “Có phải vì vật này không?”

Giám đốc Cường gật đầu.

Đại Bảo vào trong phòng, ngồi xổm nhìn hộp xốp bên cạnh, nói: “Vì vật này? Vật gì thế? Cậu nói vậy là ý gì?”

“Vật này để ở ngay cửa, mà khi nhìn thấy hộp này, cảm giác đầu tiên của anh là gì?” Tôi hỏi Đại Bảo.

Đại Báo ngẩng đầu nhìn tôi, chớp chớp mắt: “Cảm giác đầu tiên à? Chắc là uống ngon đấy.”

“Vớ vẩn!” Tôi đập vào sau ót Đại Bảo, nói, “Cảm giác đầu tiên của tôi khi nhìn thấy hộp này chính là đây là hàng chuyển phát.”

“Ô, mạo nhận mình là nhân viên chuyển phát để lừa gia chủ mở cửa, sau đó thực thi kế hoạch cướp tài sản.” Đại Bảo nói.

“Có điều thời gian xảy ra vụ án là lúc nữa đêm. Nhân viên chuyển phát đến muộn thế mà nữ chủ nhà cũng dám mở cửa sao?” Tôi lẩm bẩm một mình, đi về phía hiện trường trung tâm.

Thi thể nằm ở cửa phòng đọc sách. Ba căn phòng, bao gồm cả phòng đọc sách đều có dấu vết lục lọi. Tất cả các ngăn kéo, kệ tủ đều bị kéo ra, một số vật dụng rơi lả tả dưới đất.

Trên sàn nhà phòng ngủ chính trải xốp ghép hình màu xanh nước biển, in hình các nàng tiên, khiến căn phòng trông vô cùng ấm áp. Bên cạnh giường ngủ đặt một chiếc nôi xinh xắn. Thi thể thứ hai, đứa trẻ sơ sinh đáng thương vẫn nằm trong đó.

Tôi bước đến bên nôi, đứa bé được phủ chăn lên mặt, nghe nói bác sĩ cấp cứu vội vàng đến hiện trường, sau khi xác nhận đứa trẻ đã tử vong thì đắp chăn lên cho em. Tôi chạm vào chiếc nôi, nó phát ra tiếng kêu kẽo kẹt mãi hồi lâu.

Tôi chần chừ một lát rồi nghiến răng lật chăn lên, một khuôn mặt nhỏ xíu màu tím đen hiện ra trước mắt, phần má có một vài vết máu, phần mũi có ít bọt hình nấm. Mắt đứa trẻ khép hờ, môi tím tái, phần cổ và tứ chi đều có thể nhìn thấy vết hoen tử thi đã hình thành.

Nhìn những hình ảnh ấy, lòng tôi đau nhói. Tin rằng những người khác cũng giống tôi, đều sẽ đứng lặng hồi lâu trước giường đứa bé, không nói nên lời.

Trần Thi Vũ phá tan không khí yên lặng trước tiên, giọng cô hơi run run vì phẫn nộ: “Súc sinh! Đúng là tạo nghiệt!”

“Tôi thấy trong sách nói bọt hình nấm thường thấy ở người bị đuối nước, không phải thế sao?” Trình Tử Nghiên hỏi.

“Không phải thế!” Tôi lắc đầu, “Cơ chế hình thành bọt hình nấm là vì khí quản bị ma sát, dịch nhầy trong ống khí quản tăng lên, không khí và dịch nhầy ma sát trộn lẫn vào nhau tạo ra bọt khí. Những bọt khí này sẽ trào ra lỗ mũi theo đường hô hấp, nó sẽ tiếp tục hình thành sau khi bị lau đi. Bởi vậy những nạn nhân do bị điện giật, ngạt thở cơ học, chết đuối hoặc chết do trúng độc dược phẩm đều có thể hình thành nên các bọt khí hình nấm.”

Thực ra, tôi cố tình phổ biến kiến thức cho cô chỉ để giảm nhẹ cảm giác u uất trong lòng.

“Căn cứ vào tình hình ở hiện trường thì chắc chắn nạn nhân không phải tử vong vì ngạt nước.” Đại Bảo vừa cầm chiếc iPad ở trên chiếc giường lớn, lật qua lật lại xem một hồi rồi nói, “Các hiện tượng ngạt thở biểu hiện trên khuôn mặt cho thấy có lẽ đứa trẻ bị bịt mũi dẫn đến tử vong vì ngạt thở cơ học.”

Tôi gật đầu tán thành với quan điểm của anh ta, rồi cùng Lâm Đào tiến hành khám nghiệm tất cả những nơi bị lục lọi trong phòng.

“Hung thủ đeo găng tay sợi bảo hộ lao động.” Lâm Đào phát hiện ra vài vệt máu ở cánh tủ, sau khi dùng kính lúp phóng to thì thấy trên đó có dấu tay. Có điều dấu tay này không có đường vân tay, mà thay vào đó là dấu vết từng hàng từng hàng sợi thẳng thớm. Lâm Đào nói xong thì giơ máy ảnh đeo lủng lẳng trước ngực lên chụp lại.

Tôi đi một vòng quanh hiện trường. Ngoại trừ hai phòng ngủ và một phòng đọc sách có dấu vết lục lọi ra thì phòng vệ sinh cũng có một vài manh mối. Tôi phát hiện trên thanh treo khăn mặt có năm chiếc khăn mặt treo rất ngay ngắn. Ở giữa chiếc khăn thứ ba và chiếc khăn thứ tư có một khoảng trống, rõ ràng khoảng trống này không phải do chủ nhân ngôi nhà cố tình để lại.

“Không thể nào! Không thể thế được!”

Đột nhiên tôi nghe thấy giọng đàn ông nặng nề vọng vào từ cửa phòng khách, thế là vội vàng chạy ra khỏi phòng vệ sinh kiểm tra xem thế nào.

Tôi thấy hai cảnh sát đang dìu một người đàn ông đứng ở cửa. Người đàn ông mặc vest chỉnh tề, đeo cặp chéo, đầu tóc chải chuốt gọn gàng, trông rất thư sinh, nho nhã. Tuy ăn mặc chỉnh tề là vậy nhưng thần thái anh ta lại thẫn thờ như kẻ mất hồn, hai chân mềm nhũn, phải nhờ sức của hai viên cảnh sát mới có thể miễn cưỡng duy trì trạng thái đứng.

“Anh Thạch, anh không được vào đây.” Viên cảnh sát cố gắng dìu Thạch Viễn Chinh đứng vững, đồng thời ra sức ngăn nửa người trên đang hướng vào trong phòng của anh ta.

“Tôi muốn gặp Viên Đá Nhỏ của tôi, tôi phải vào gặp Viên Đá Nhỏ của tôi.” Thạch Viễn Chinh lẩm bẩm như bị ma nhập.

Tôi nghĩ đến tình trạng thảm thương của thi thể đứa trẻ, tim lại thấy nhột nhạt.

“Anh sẽ được gặp, nhưng không phải bây giờ.” Viên cảnh sát an ủi anh ta.

Thạch Viễn Chinh đẩy mạnh viên cảnh sát, tựa vào khung cửa, ngồi phịch xuống đất. Cặp mắt vô hồn nhìn chằm chằm lên trần nhà, nước dãi chảy ra từ khóe miệng, rớt xuống cổ áo sơ mi, nhưng anh ta không hề chảy một giọt nước mắt nào.

Tôi từng chứng kiến vô số phản ứng của người thân nạn nhân khi hay tin dữ, tuy mỗi người có một cách biểu hiện khác nhau nhưng biểu hiện mà tôi thấy thường xuyên nhất chính là biểu hiện giống như Thạch Viễn Chinh bây giờ. Đôi khi nước mắt không đồng nghĩa với đau đớn, mà đau đớn cũng không đồng nghĩa với nước mắt.

Tôi biết vẻ đau đớn của Thạch Viễn Chinh lúc này không phải giả vờ.

Tôi bước đến bên anh ta, lặng lẽ đứng cạnh. Một người chồng vừa mất vợ, một người cha vừa mất con, cú sốc to lớn này không gì có thế tả được. Tôi yên lặng đợi khoảng mười phút, thấy hô hấp của Thạch Viễn Chinh dần ổn định trở lại, mới ngồi xuống, nhẹ nhàng hỏi: “Trong nhà anh có đồ gì đáng giá không?”

Nghe thấy có người nói chuyện với mình, Thạch Viễn Chinh ngẩn ra, sau đó quay đi không đáp, chỉ nghẹn ngào khóc nấc. Tôi lại yên lặng đợi anh ta bình tĩnh. Anh ta lắc đầu nói: “Không có, chúng tôi đều là viên chức nhà nước, tiền tiết kiệm để hết ở ngân hàng, trong nhà không có gì cả.”

“Anh chắc không?” Tôi hỏi.

“Chắc!” Anh ta đáp.

Tôi gật đầu, đứng chắn ở cửa. Vì lúc này nhân viên nhà xác đang khênh thi thể ra, may mà Thạch Viễn Chinh vẫn đang chìm đắm trong nỗi đau to lớn nên không nhìn thấy quá trình vận chuyển thi thể.

Tôi nghe thấy âm thanh nhốn nháo của đám đông vây quanh tòa nhà, biết thi thể đã được chuyển đi nên đưa cho Thạch Viễn Chinh đôi găng tay, sau đó bảo hai viên cảnh sát dìu anh ta lên, đi vào trong phòng.

Tôi cố tình để Thạch Viễn Chinh đứng xa vũng máu, một là vì sợ anh ta lại rơi vào trạng thái tinh thần mất kiểm soát, hai là vì sợ anh ta giẫm vào vũng máu, ảnh hưởng đến công việc giám định dấu vết của Lâm Đào. Có điều khi Thạch Viễn Chinh đến bên vũng máu và chiếc nôi thì đột nhiên anh ta quỳ sụp xuống, không ngừng dập đầu.

Hành động này không thuộc vào trạng thái đau đớn thường thấy. Có điều tôi biết công tác điều tra vòng ngoài đã rất rõ ràng, Thạch Viễn Chinh không có động cơ và thời gian gây án, cũng không có dấu hiệu liên lạc thuê kẻ giết người.

Tôi đưa Thạch Viễn Chinh đến từng phòng, chủ yếu là để anh ta nhận diện những nơi bị lục lọi, để xem thông qua việc quan sát trực quan có thể phát hiện ra vật nào bị mất hay không. Đi một vòng, chẳng ngờ anh ta lại không phát hiện ra bị mất vật gì.

Chi khi vào phòng vệ sinh, thấy tôi chỉ tay vào khoảng trống trên thanh treo khăn mặt, Thạch Viễn Chinh liên tục lắc đầu, mãi sau mới ngừng lại, nói: “Chỗ này có lẽ là khăn mặt của tôi, màu xanh, bị mất rồi.”

“Mất mỗi chiếc khăn mặt?” Đại Bảo kinh ngạc hỏi.

Tôi trầm tư giây lát, rồi nói: “Lông Vũ, cô bảo hai đồng chí bên phòng kỹ thuật hình sự đi tìm kiếm ở vòng ngoài, trọng điểm là chiếc khăn mặt.”

Trần Thi Vũ gật đầu rời đi.

Tôi nói với Thạch Viễn Chinh: “Anh Thạch, e rằng hai ngày tới anh sẽ phải ở đồn công an, một phần vì chúng tôi cần bảo vệ anh, phần còn lại vì cần hỏi anh các vấn đề có liên quan bất kỳ lúc nào.”

“Ở đâu mà chẳng thế? Nhà không còn nữa rồi! Không còn nữa rồi!” Thạch Viễn Chinh lẩm bẩm.

Tôi đưa mắt ra hiệu cho hai đồng chí cảnh sát dìu Thạch Viễn Chinh, bảo họ đưa anh ta đi, sau đó tôi quay lại chỗ Lâm Đào.

Lâm Đào lúc thì ngồi xổm trên sàn nhà, lúc thì bò ra sàn nhà để tìm dấu vết.

“Hiện trường giết người đầu tiên chắc chắn là ở điểm khởi đầu của vết máu bắn thành tia.” Tôi chỉ vết máu bắn tia ở trên tường cạnh vũng máu và nói, “Nạn nhân Tào Tĩnh bị trúng một nhát dao dẫn đến tử vong chính ở vị trí này, không hề có dấu vết dịch chuyển. Điều này không vấn đề gì chứ?”

“Không vấn đề gì, hoàn toàn chính xác, lúc bị đâm trúng một nhát dao, Tào Tĩnh khuỵu xuống, sau đó nằm rạp xuống đất, tử vong.” Lâm Đào dường như không nghe kỹ lời tôi nói, vẫn mải mê ngồi xổm bận việc của mình, “Tôi thì không tin sẽ không tìm thấy dấu vết gì ở hiện trường trong nhà.”

“Cậu cứ bận việc của cậu đi, tôi đi khám nghiệm tử thi.” Tôi vỗ vai Lâm Đào.

“Đừng vỗ lung tung, áo mới đấy.” Lâm Đào vừa tiếp tục nhìn sàn nhà vừa nói.

Tôi bật cười, vẫy tay với Đại Bảo rồi rời khỏi hiện trường.

Công an thành phố Lệ Kiêu vừa cải tạo xong phòng giải phẫu thi thể pháp y học, căn phòng nhỏ cũ nát trước kia giờ trở thành một tòa nhà hai tầng hoàn toàn thay đổi diện mạo. Tầng 1 là khu giải phẫu với hai phòng giải phẫu. Ưu điểm lớn nhất của kiếu quy hoạch này là có thể đồng thời tiến hành hai cuộc giải phẫu, và đều có biện pháp bảo vệ, đề phòng bị ô nhiễm. Như vậy hiệu quả công việc sẽ đảm bảo hơn rất nhiều.

Lúc ngồi trên xe, tôi đã tính toán đâu vào đấy, nên khi vừa mặc xong đồng phục giải phẫu, tôi liền lao ngay vào phòng giải phẫu số một, bởi vì phòng giải phẫu số một là nơi giải phẫu thi thể Tào Tĩnh. Bác sĩ pháp y sợ nhất là phải giải phẫu thi thể trẻ sơ sinh, đặc biệt là thi thể trẻ sơ sinh bị sát hại. Thế là vì ích kỷ, vì muốn bảo vệ cảm xúc của mình, tôi liền chọn phòng giải phẫu số một. Tính Đại Bảo vô tâm vô tư, nên đành “hy sinh” anh ta, để anh ta giải phẫu thi thể bé trai đó. Lòng tôi thầm suy tính như vậy.

Tào Tĩnh mặc áo ngủ ngắn tay, trước ngực có rất nhiều vết máu. Chúng tôi cởi bỏ quần áo của Tào Tĩnh, chụp ảnh lại rồi dùng bông thấm cồn tẩy rửa sạch vết máu dính trên bề mặt thi thể.

Tào Tĩnh còn trẻ, nên tuy mới sinh con nhưng thể hình vẫn không bị ảnh hưởng lắm. Trên đùi có vài vết rạn da, không hề có dấu vết bị xâm hại tình dục.

Tôi kiểm tra toàn bộ bề mặt thi thể một lượt, ngoại trừ phát hiện một vài vết xuất huyết dưới da dạng nhẹ ra thì điểm đáng lưu ý nhất là vết thương ở cổ. Rất rõ ràng, đây là vết thương chí mạng khiến Tào Tĩnh tử vong.

Cổ phía phải của Tào Tĩnh có hai vết cứa nông, chắc chắn đó là vết thương gây ra do bị vật sắc uy hiếp. Phía dưới vết thương đó có một đường rạch hở, rộng khoảng bốn xăng-ti-mét. Hai khóe vết thương một sắc một cùn, vết thương này hình thành do hung khí một lưỡi rộng khoảng bốn xăng-ti-mét cứa vào.

Trên da phía cổ bên trái của Tào Tình cũng có một vết thương nhỏ, rộng khoảng một xăng-ti-mét. Hai khóe vết thương đều sắc nét, hung khí gây ra vết thương này là loại hung khí hai lưỡi, bản rộng một xăng-ti-mét.

Tuy thoạt nhìn có vẻ đó là hai loại công cụ khác nhau, nhưng sau khi tách các mô ở cố nạn nhân thì phát hiện ra một điều kỳ lạ. Khi tách da cổ của Tào Tĩnh ra, cơ thịt bên dưới lớp da không xuất huyết rõ ràng lắm. Tôi tách dần ba bó cơ ở cổ trái và cổ phải, sau khi lật ra thấy khí quản và thực quản của nạn nhân. Khí quản và thực quản bị cắt lìa, bề mặt cắt rất sắc ngọt. Tôi lật các mô mềm ở cổ nạn nhân theo vị trí giải phẫu, phát hiện hai vết thương ở cổ thông với nhau. Không những thế, mô mềm ở đoạn giữa còn bị cắt rất gọn, vết thương chỉ có một đường thẳng tắp.

Các bác sĩ pháp y chúng tôi đều biết đâm hai nhát dao vào cơ thể người mà lại chỉ hình thành một đường vết thương là một điều cực kỳ khó thực hiện. Bởi vậy cách giải thích duy nhất cho vết thương ở cổ của Tào Tĩnh là hung thủ dùng dao đâm xuyên qua cổ nạn nhân.

Tôi tưởng tượng ra tình cảnh lúc đó, dao nhọn đâm xuyên từ bên phải sang bên trái.

“Anh phân tích rất có lý.” Bác sĩ pháp y của Công an thành phố Lệ Kiều họ Ngô, đã nói vậy, “Sở dĩ hình thái của hai miệng vết thương không đồng nhất là do hình thù của lưỡi dao nhọn quyết định.”

“Đúng thế!” Tôi nói, “Đây là con dao nhọn một lưỡi, nhưng phần đầu của dao lại là hai lưỡi. Khi dao đâm vào thì sẽ hình thành vết thương một lưỡi ở đầu vào và hai lưỡi dao ở đầu ra. Qua đây, chúng ta đã biết độ rộng của phần mũi dao, phần gần chuôi dao và chiều dài của dao, nên về cơ bản có thể phác họa được con dao đó.”

Tôi đang chuẩn bị bảo Hàn Lượng đứng cạnh vẽ hình con dao thì chẳng ngờ cậu ta đã đưa một tờ giấy cho tôi xem. Hình dáng con dao đã được vẽ lại.

“Cậu gửi đến tổ chuyên án, bảo họ kiểm tra những con dao có hình dáng thế này trước đã.” Tôi nói với Hàn Lượng.

“Động mạch hai bên trái phải của cổ đều bị đứt, nhát dao này hiểm thật đấy!” Bác sĩ Ngô dùng kìm kẹp mạch máu kẹp hai đầu động mạch cổ bị đứt, yêu cầu nhân viên kỹ thuật hình sự chụp ảnh.

“Bao nhiêu máu ở hiện trường thế này... Tôi đoán hẳn là động mạch cổ đã vỡ rồi.” Tôi nói.

Vì mất máu nên nước da nạn nhân chuyển màu trắng bệch, vết hoen tử thi cũng rất nhạt, nhìn không rõ lắm, chính nhờ vậy nên tôi mới phát hiện ra vết thương trên các chi của tử thi.

Hai bả vai của nạn nhân cũng có vết xuất huyết dưới da tương đối nhẹ, hai cổ tay có vết trầy da kèm theo xuất huyết dưới da, tạo thành một vòng tròn quấn quanh cổ tay. Bác sĩ pháp y vừa nhìn là biết, đây là dấu vết khống chế vô cùng điển hình. Vì phần vai có quần áo làm lớp đệm nên không nhìn rõ vết sây sát, nhưng phần cổ tay lộ ra ngoài thì xuất hiện vết sây sát, chứng tỏ kẻ khống chế và trói nạn nhân đeo găng tay. Chỉ có lực tác dụng của loại găng tay làm bằng chất liệu thô cứng mới để lại vết thương như thế trên da, nếu hung thủ dùng tay trần khống chế thì rất khó để lại dấu vết này.

“Tôi từng thấy nhiều trường hợp khống chế cổ tay người bị hại, nhưng rất hiếm khi gặp tình trạng khống chế cả vai và cổ tay như thế này.” Bác sĩ Ngô nói.

Tôi gật đầu: “Đây không phải dấu vết khống chế điển hình, nhưng lại mang hàm ý điển hình. Trong các vụ án mạng, thì những vụ án do một hung thủ chiếm tỉ lệ lớn, bởi vậy dấu vết khống chế chỉ xuất hiện ở cổ tay. Còn với những trường hợp mà dấu vết khống chế xuất hiện ở cả bả vai và cổ tay thì rõ ràng là có hai người gây án.

“Ồ, tôi hiểu rồi.” Bác sĩ pháp y Ngô nói, “Có hai kẻ cùng gây án, mỗi tên dùng một tay nắm cổ tay của người bị hại, tay kia ấn lên bả vai nạn nhân, bởi vậy mới hình thành bốn vết khống chế.”

“Kết hợp tình hình tại hiện trường thì xem ra...” Tôi nói, “Có hai kẻ đã khống chế Tào Tình, khiến cô ấy bị cố định ở tư thế quỳ. Nhưng vết thương uy hiếp trên cổ do đâu mà có nhỉ?”

“Hoặc là có kẻ thứ ba.” Bác sĩ Ngô nói, “Hoặc là hung thủ dùng dao kề cổ, uy hiếp nạn nhân trước, sau đó khống chế nạn nhân, bắt phải quỳ xuống.”

Tôi gật đầu tán thành ý kiến của bác sĩ Ngô.

Theo yêu cầu của thầy, tất cả các vết thương trên thi thể đều phải giải phẫu để quan sát kỹ phần bên trong, tôi giải phẫu vết thương ở cổ tay của nạn nhân, ở đó chỉ có vết xuất huyết dưới da, ngoài ra không còn vết thương nào khác. Nhưng khi giải phẫu vết thương ở vai của Tào Tĩnh, tôi còn phát hiện thấy một điểm khác thường.

Vị trí khớp vai phải của nạn nhân không đúng lắm.

Trước đó, vì thi thể đang ở trạng thái co cứng nên chúng tôi không nhận thấy các khớp có gì khác thường, nhưng giờ mổ khám nghiệm mới phát hiện khớp vai phải của cô ấy đã bị chệch hẳn ra.

“Phải dùng lực mạnh đến mức nào mới khiến nạn nhân bị chệch khớp vai thế này nhỉ?” Bác sĩ Ngô băn khoăn, “Khớp vai có lớp bảo vệ dai chắc và to khỏe, không hề dễ dàng bị chệch khớp được.”

“Lực khống chế mạnh đến đâu chăng nữa cũng không thể dẫn đến việc chệch khớp vai.” Tôi nói, “Chỉ có một khả năng khiến khớp vai bị chệch, đó chính là hung thủ đột ngột dùng bạo lực, hơn nữa còn dùng sức khống chế nạn nhân giữa lúc nạn nhân đang ra sức giãy giụa.”

“Đột ngột ư?” Bác sĩ Ngô nói, “Nhưng quá trình khống chế và uy hiếp nạn nhân đều diễn ra không hề phức tạp, làm sao lại xảy ra sự phản kháng và khống chế một cách đột ngột?”

“Điều này khó nói lắm.” Tôi trầm ngâm, “Kiểm tra tiếp các bộ phận khác của nạn nhân trước đã.”

Tôi tiếp tục tiến hành giải phẫu tử thi theo hệ thống, nạn nhân tử vong sau khi dùng bữa ăn cuối cùng khoảng năm tiếng đồng hồ, hoàn toàn khớp với tình hình mà người gọi điện báo án cung cấp. Những bước giải phẫu khác đều chỉ làm lấy lệ, chúng tôi không phát hiện được thêm manh mối gì.

3

Sau khi tổ chúng tôi giải phẫu xong, tổ của Đại Bảo cũng đồng thời hoàn thành. Giải phẫu cơ thể người trưởng thành phức tạp hơn giải phẫu cơ thể trẻ sơ sinh rất nhiều, tôi nghĩ sở dĩ tốc độ tương đương nhau là bởi vì họ phải chịu áp lực tâm lý vô cùng to lớn khi nạn nhân là trẻ sơ sinh.

Tôi thấy sắc trời đã muộn, nguyên nhân tử vong của đứa trẻ đó có lẽ chẳng khác suy đoán của tôi là bao, cho nên dù chưa gặp tổ Đại Bảo, tôi vẫn dẫn cả nhóm về thẳng văn phòng tổ chuyên án, hội họp với tổ giám định dấu vết của Lâm Đào, tổ điều tra hình ảnh của Trình Tử Nghiên và tổ điêu tra vòng ngoài của Trần Thi Vũ.

Vụ án này thoạt trông thì rất khó khăn nhưng tôi tin rằng chỉ cần các tổ công tác cùng ngồi lại họp bàn thì sẽ phát hiện các manh mối.

Ôm hy vọng đó, chúng tôi đến văn phòng tổ chuyên án.

Đầu tiên, tôi báo cáo với tổ chuyên án về tình hình khám nghiệm tử thi, tiếp đó, Đại Bảo báo cáo nguyên nhân tử vong của đứa trẻ. Trên cơ thể đứa trẻ không hề có vết thương do gây ra, cũng không có dấu vết khống chế, chỉ có mảng xuất huyết trong niêm mạc khoang mũi, lợi cũng bị xuất huyết, bỉm hoàn toàn sạch sẽ. Đứa trẻ bị kẻ thủ ác dùng tay bịt khoang mũi khiến em ngạt thở cơ học dẫn đến tử vong. Da trẻ sơ sinh còn non, mà trên da mũi lại không hề có vết sây sát nào chứng tỏ kẻ thủ ác không dùng găng tay, mà để tay trần tiến hành tội ác. Nhìn mức độ tiêu hóa sữa trong dạ dày của đứa trẻ có thể thấy bé mới uống một chút sữa.

Tổ giám định dấu vết của Lâm Đào nhanh chóng chứng thực phân tích của tôi. Thông qua việc giám định và khám nghiệm hiện trường hết sức khó khăn, Lâm Đào miễn cưỡng tìm thấy bốn loại dấu giày trên sàn nhà. Bởi vì mặt sàn nhà không phẳng nên không thể lấy được dấu giày hoàn chỉnh, không thể phân tích chủng loại giày, độ dài cũng như tình trạng bị mài mòn. Nhưng Lâm Đào vẫn không bỏ cuộc, cố gắng tìm ra một vài dấu giày đứt quãng. Những mẩu dấu vết đứt quãng này tuy không có giá trị so sánh và nhận diện nhưng chí ít có thể chứng minh có những loại hoa văn đế giày nào, ví dụ hoa văn dép lê của Tào Tĩnh là một trong số đó. Căn cứ vào phân tích hoa văn đế giày lấy được, Lâm Đào phân tích có lẽ hiện trường có ba kẻ đột nhập.

Kết hợp với tình hình khám nghiệm tử thi - Tào Tĩnh - thì thấy kết luận của Lâm Đào hoàn toàn chính xác.

Ngoại trừ điều đó, Lâm Đào còn kiểm tra tay nắm cửa, tay nắm cánh tủ quần áo trong phòng ngủ và phòng đọc sách, những địa điểm có dấu vết lục lọi, để ấy mấy dấu vết của găng tay dính máu.

“Vậy chiếc túi nữ đeo chéo tại hiện trường thì sao?” Tôi hỏi.

Lâm Đào nói: “Trong túi có ít chìa khóa và ví tiền, ví tiền ở trạng thái mở, không có tiền mặt, nhưng trên thân túi không có dấu máu.”

“Căn cứ vào lời tường thuật của Thạch Viễn Chinh thì chắc trong túi phải có khoảng một ngàn tệ.” Viên cảnh sát điều tra nói.

“Thạch Viễn Chinh đã hồi phục tinh thần rồi sao?” Tôi vội hỏi, “Vậy anh ta có thể cung cấp manh mối gì có giá trị không? Ví dụ như Tào Tĩnh nuôi con bằng sữa mẹ hay sữa ngoài? Trong nhà anh ta còn lại bao nhiêu hộp sữa bột?”

“Vì ở cạnh hiện trường có hộp sữa bột mới chuyến phát đến nên tôi cũng đã hỏi anh ta về chuyện này.” Viên cảnh sát nói, “Tào Tĩnh mất sữa nên từ đầu đến cuối đều nuôi em bé bằng sữa bột và bột, trong nhà không còn bột, cũng không còn bao nhiêu sữa bột.”

“Đúng! Chỉ còn lại một hộp đã cạn đến đáy.” Lâm Đào xác nhận.

“Thạch Viễn Chinh đi công tác mấy ngày, trước khi đi lại quên mua.” Viên cảnh sát nói, “Vào buổi chiều hôm xảy ra án mạng, Thạch Viễn Chinh vẫn đang bận, Tào Tĩnh gọi điện thoại cho anh ta, hỏi anh ta thường mua sữa ở đâu. Vì trước đây Thạch Viễn Chinh đều phụ trách việc mua sữa nên anh ta định ngày mai mình sẽ gọi điện thoại đến cửa hàng quen nhờ họ chuyển đến. Nhưng còn chưa kịp gọi thì anh ta nhận được tin cả vợ và con đều đã tử vong.”

“Thế thì lạ thật!” Tôi nói, “Nếu chuyện này chỉ có hai vợ chồng biết thì làm sao hung thủ biết mà lợi dụng chuyện này để lừa gia chủ mở cửa?”

“Chắc chỉ trùng hợp ngẫu nhiên thôi.” Giám đốc Cường nói, “Thạch Viễn Chinh xác nhận mình không hề nói việc này cho ai biết. Tào Tĩnh ở nhà cả ngày, không hề ra khỏi cửa, không sử dụng điện thoại, cũng không nói chuyện với người khác. Vì thế có thể chuyện này chỉ là tình cờ thôi.”

“Vậy thẻ ngân hàng trong ví tiền tại hiện trường có bị lục lọi không?’ Tôi hỏi.

Lâm Đào lắc đầu: “Thẻ ngân hàng vẫn ở vị trí cũ, có điều tôi vẫn gửi ví tiền và thẻ ngân hàng đến phòng kỹ thuật để họ giám định xem có tìm thấy dấu vân tay trên đó không.”

“Còn khăn rửa mặt thì sao?” Tôi hỏi tiếp Trần Thi Vũ.

“Tìm thấy rồi.” Trần Thi Vũ lấy túi nilon đựng vật chứng ra, bên trong chứa một chiếc khăn mặt màu xanh, “Tìm thấy nó ở nhà vệ sinh nam trong một nhà vệ sinh công cộng cách hiện trường khu chung cư khoảng hơn một trăm mét. Thạch Viễn Chinh đã xác nhận chiếc khăn mặt này là của anh ta.”

“Lấy khăn mặt làm gì nhỉ?” Đại Bảo thắc mắc.

“Đương nhiên là để lau vết máu trên người.” Tôi nhíu mày đáp.

“Không, trên khăn mặt không hề có vết máu.” Trần Thi Vũ nói.

“Hả?” Điều này khiến tôi hết sức bất ngờ, tôi cúi đầu suy nghĩ, nhưng không nghĩ ra manh mối gì. Có điều chiếc khăn mặt đó cũng không thể trở thành điểm đột phá của vụ án, chúng tôi phải tìm cách khác.

“Phía chúng tôi cũng khá thất vọng.” Trình Tử Nghiên nói, “Cổng chung cư có lắp camera, nhưng chỉ là loại camera thông thường, thêm vào đó đèn đường lại bị hỏng nên ngay việc nhìn thấy bóng người còn khó. Trưởng khoa Lâm bảo tôi tìm bóng ba người cùng đi với nhau, nhưng quả thực điều kiện đưa ra chung chung như thế rất khó tìm.”

Tôi cau mày không nói gì nữa.

Thông thường lúc tâm trạng tôi không tốt, Lâm Đào thường chủ động thay thế vị trí của tôi. Cậu ta nhìn tôi, hiểu tôi muốn nói gì, liền bảo: “Trước mắt chúng ta nắm được khá ít chứng cứ, chỉ có dấu hoa văn đế giày ngắt quãng. A, không, đợi chút!”

Lâm Đào có tin nhắn, cậu ta cúi đầu xem điện thoại di động, tràn đầy tự tin nói: “Tôi vừa nhận được tin nhắn, lấy được ba dấu vân tay còn mới trên túi đeo chéo của nạn nhân, mà ba dấu vân tay này đều không phải của các thành viên trong gia đình này. Đây chính là điểm đột phá. Chúng ta không chỉ có căn cứ để khu biệt phần tử tội phạm mà còn có chứng cứ trước tòa án.”

Tổ khám nghiệm và giám định dấu vết đã lập công lớn. Đây là chuyện tốt.

Lâm Đào nói tiếp: “Tình hình hiện tại chúng ta nắm được là thế này: Ba kẻ tình nghi mạo nhận là nhân viên chuyển phát nhanh lừa gia chủ mở cửa. Sau khi vào được hiện trường, hai tên trong số chúng tiến hành khống chế Tào Tĩnh, tên còn lại vào phòng lục lọi tài sản. Kết hợp với phản ánh của người báo án thì lúc 11 giờ 20 phút đêm hôm đó, nạn nhân Tào Tĩnh đã hét lên một tiếng. Thế là hung thủ liền sát hại hai mẹ con họ, đào thoát khỏi hiện trường. Giờ xem ra mục đích của hung thủ là cướp của, sở dĩ chúng chọn gia đình này là vì có thế lấy cớ đưa sữa đến để che mắt. Có lẽ chúng đã theo dõi trước rồi. Cho nên tôi cảm thấy ở bước tiếp theo, Trình Tử Nghiên cần tiến hành quan sát camera mấy hôm trước của khu chung cư để tìm ra những kẻ đột nhập không phải cư dân ở đây. Chỉ cần tìm ra những kẻ lạ mặt xâm nhập khu chung cư mấy hôm trước là có thể phá án.”

“Được! Không thành vấn đề!” Trình Tử Nghiên cất máy tính, rời khỏi hiện trường với lòng tự tin phơi phới.

Lâm Đào nhìn tôi như thể muốn trưng cầu ý kiến. Nhưng các mạch tư duy trong đầu tôi lúc này vẫn hết sức hỗn loạn, không làm sao có thể sắp xếp một cách rõ ràng được, thế là tôi nói: “Hay là chúng ta về trước đã, mai bàn bạc sau.”

Mật độ công việc dày đặc như vậy khiến chúng tôi không có thời gian suy nghĩ, đặc biệt là với vụ án phức tạp như thế này mà không suy nghĩ thì càng không dễ làm rõ mạch tư duy. Tôi và Lâm Đào đều biết, những mô tả trước đây của chúng tôi về quá trình xảy ra vụ án có rất nhiều khe hở. Chỉ có điều trước khi lần ra manh mối tư duy, chúng tôi đành điều tra theo hướng các động cơ phạm tội có thể xảy ra nhất, đó chính là cướp đoạt tài sản. Nếu đây thực sự là vụ án cướp đoạt tài sản thì điểm có khả năng đột