Chương 8 Xác chết trong thùng giấy
Con người là động vật ích kỷ ngay từ khi sinh ra và mãi mãi như vậy.
− Adam Smith −
1“Muộn thế này rồi, chỉ ba chúng ta đi thôi.” Tôi vừa nói vừa thu dọn hòm đựng dụng cụ khám nghiệm, “Chúng ta đến đó tìm hiểu rõ tình hình trước, nếu cần ba người họ thì gọi họ đến sau.”
Đại Bảo gật đầu, lấy chìa khóa xe dự phòng trong ngăn kéo văn phòng đưa cho tôi. Khi Hàn Lượng không có mặt thì tôi thường lái xe thay cậu ta, bởi vì thực sự không thể tin tưởng vào tay nghề lái xe của hai ông bạn đồng nghiệp.
Xem tài liệu đến tận khuya, không ngờ ngoài trời mây đen giăng kín. Thêm vào đó bắt đầu bước vào đầu hạ, không khí vô cùng oi bức, nóng ẩm khiến toàn thân thấy không thoải mái chút nào. Năm ngoái là năm hạn hán, đặc biệt phía bắc của tỉnh là khu vực trọng điểm hạn hán của toàn quốc. Năm nay ngược lại vừa Tết xong là mưa liên miên, xem ra ông bà thường nói “sau đại hạn là lũ lớn” chẳng sai chút nào.
“Cậu cảm thấy vụ này cũng do kẻ thay trời hành đạo kia làm sao?” Lâm Đào hỏi.
“Không phải vấn đề tôi cảm thấy hay không cảm thấy.” Tôi ngồi ở ghế lái, khởi động xe chuyên dụng của tổ khám nghiệm, nói, “Mà là Trưởng khoa Hồ cảm thấy như thế, cho nên muộn như vậy vẫn hét chúng ta qua đó, ừm, loại xe này to ghê.”
“Cậu lái nổi không đó?’ Lâm Đào ngồi ở ghế phụ lái, vội vàng thắt chặt dây an toàn, “Cậu bảo liệu lần này nạn nhân có bị động vật nào đó gặm cắn không? Liệu có phải vẫn không thể điều tra ra động cơ gây án không?”
“Vế sau có khả năng lớn đấy!” Tôi nói, “Địa điểm chúng ta sắp đến là dãy nhà kho ở khu công nghiệp thành phố Long Phiên. Theo tôi được biết thì các công trình kiến trúc ở đó cơ bản đều là kho chứa hàng của các nhà máy. Sau khi các công xưởng khoanh vùng địa bàn, xây nhà kho thì đều thuê nhân viên kho lần lượt trực ca suốt hai mươi bốn tiếng. Nói gì thì đó cũng là nhà kho, hàng hóa cần được bảo quản, không đến nỗi giống như hiện trường nơi Lưu Tam Hảo bị sát hại, chỗ nào cũng toàn chuột, vả lại chỗ đó cũng không phải ngoại ô hoang vắng, không đến nỗi có dã thú gì đó.”
Có ứng dụng chỉ đường trên điện thoại nên việc lái xe trong thành phố rộng lớn trở nên dễ dàng hơn nhiều. Tuy rằng tôi không phải bản đồ sống giống Hàn Lượng nhưng nhờ sự giúp đỡ của ứng dụng điện thoại, chúng tôi chỉ cần lái xe một tiếng đồng hồ là đến dãy nhà kho ở khu công nghiệp. Lái xe vào lúc quá nửa đêm quả thực rất đã.
Tuy rằng cả khu vực nhà xưởng rộng lớn toàn là nhà kho nhưng giữa mỗi nhà kho của từng nhà máy đều xây tường bao quanh, thậm chí một vài nhà kho chứa hàng hóa đắt tiền còn giăng lưới điện quanh tường khu nhà kho. Dẫu sao đây cũng là nơi ít người qua lại, nên trên đường nối liền giữa nhà kho này với nhà kho khác không lắp đèn đường, thỉnh thoảng mới thấy một vài đốm sáng của bóng đèn dài trong nhà kho nào đó, còn những nơi khác đều tối om, giơ tay ra không nhìn thấy ngón.
Xe cảnh sát của Trưởng khoa Hồ đỗ ở ven đường, chỗ lối vào nhà kho, đèn hiệu cảnh sát vẫn đang nhấp nháy, trông rất nổi bật trong màn đêm đen đặc. Thấy xe của chúng tôi đến, anh thò tay ra khỏi cửa sổ xe vẫy vẫy, rồi dẫn chúng tôi lái xe vào khu vực nhà kho.
Đèn xe chiếu sáng con đường xi măng, vì nhiều năm chưa tu bổ lại, thêm vào đó lại toàn phải chịu đựng trọng tải của xe hàng rất nặng nên mặt đường lõm xuống trông đến thê thảm. Tôi nắm chắc vô lăng, cố gắng điều khiển bánh lái đang không ngừng rung lắc, bám theo xe của Trưởng khoa Hồ đến cổng nhà kho.
Trước cổng nhà kho có mấy chiếc xe cảnh sát đang đỗ, xe nào cũng nhấp nháy đèn hiệu. Nhà kho này thuộc loại nhỏ nhất, diện tích mặt bằng khoảng hai, ba mẫu, bên trong cũng chỉ có một gian nhà xưởng lớn. Lúc này, vì được đèn xe cảnh sát chiếu sáng nên nó trở thành nơi sáng sủa nhất.
Tôi nhảy xuống xe, nhìn khung cảnh xung quanh.
Trên cột trụ bên cạnh cổng xếp inox chạy điện của nhà kho có một hàng chữ sơn đen: Công ty trách nhiệm hữu hạn hàng tiêu dùng Huy Nguyên - Long Phiên. Vài chữ trong số đó đã bị han gỉ, chữ “hạn” bị rơi đâu mất, một đầu đinh cố định trên chữ “Long” bị hỏng, nên con chữ chúc đầu xuống, những chữ khác thì bị han gỉ loang lổ, dưới ánh đèn xe cảnh sát thậm chí còn nhìn thấy mạng nhện giữa các chữ.
Cổng xếp inox chạy điện của nhà kho đang hé mở, một đầu đã hỏng, sụp xuống, giữa các lá cửa và thanh co dãn giăng đầy mạng nhện.
Rõ ràng nhà kho này bị bỏ hoang đã lâu.
Thuận theo chùm sáng của đèn xe ô tô, tôi thấy kết cấu khung thép và mái lợp của những nhà xưởng bên trong không giống với những nhà kho khác. Nhà xưởng này lợp ngói kiểu cũ, chỉ có một xà, mái nhà cao vút, khoảng sáu, bảy mét; diện tích chừng bảy, tám trăm mét vuông. Cửa sổ nhà kho rất cao, khung cửa sổ đã mục nát, chỉ còn lại một vài mẩu kính vỡ.
Bên cạnh chiếc cổng xếp chạy điện có một căn phòng nhỏ khép kín, có lẽ trước đây vốn là nơi ở của nhân viên trực kho, cửa sổ vẫn nguyên vẹn, chỉ có điều bên trong không thấy bài trí gì.
“Địa bàn nhà kho này từng được một ông chủ mua lại để làm sản phẩm hàng tiêu dùng.” Trưởng khoa Hồ giải thích tình hình vụ án, “Khi ông ta mua nhà kho này, thì nó đã có lịch sử mấy chục năm. Ban đầu có khả năng còn chuẩn bị cải tạo để sử dụng, nhưng sau đó vì tài chính gặp vấn đề nên không cải tạo nữa. Thường ngày, nơi đây chất đống các sản phẩm của công ty, sau đó công ty phá sản, ông chủ ôm tiền bỏ chạy, nghe nói đến giờ vẫn chưa bắt được.”
“Trong kho trống không sao?” Tôi hỏi.
Trưởng khoa Hồ gật đầu đáp: “Lúc đó nhà máy phá sản, ông chủ bỏ chạy, công nhân hai bàn tay trắng, nên đành đến kho hô hào nhau cướp hết đống hàng tiêu dùng tồn kho như dầu gội đầu, bột giặt, xà phòng gì đó. Ban nãy chúng tôi đã đi xem một lượt rồi, ngoại trừ mấy chục thùng xà phòng bánh đã biến chất ra thì không còn thứ gì cả.”
“Nạn nhân ở bên trong sao?” Tôi hỏi, “Đã điều tra lý lịch chưa?”
“Trên người nạn nhân có chứng minh thư.” Trưởng khoa Hồ nói, “Các cảnh sát điều tra vòng ngoài vẫn chưa về, tôi đoán chắc họ cũng sắp về rồi.”
Tôi gật đầu, đi về phía cổng kho.
Trưởng khoa Hồ kéo tôi lại, chỉ tay vào phòng trực ban ở cạnh công xếp, nói: “Tuy ở đây trống không, nhưng từ kết quả khám nghiệm dấu vết cho thấy nạn nhân từng ở trong đó một thời gian khá dài.”
“Ồ, vậy sao?” Lâm Đào vội vàng đeo bọc giày và găng tay, thận trọng đẩy cánh cửa sắt đã han gỉ của phòng trực ban.
“Ở đây có dấu vết lau quét bụi trên diện rộng.” Một nhân viên kỹ thuật hình sự tên là Lăng Phong chỉ sàn nhà và nói, “Có lẽ một phần dấu vết này hình thành do quần áo của nạn nhân ma sát với sàn nhà, phần còn lại có vẻ như ai đó cố tình quét dọn. Chúng tôi còn tìm thấy mấy dấu chân khá nông trên lớp bụi ở góc nhà, đáng tiếc, theo phán đoán của chúng tôi thì đó là dấu chân của nạn nhân.”
Sau khi Trình Tử Nghiên được điều chuyển đến tổ công tác của chúng tôi thì viên cảnh sát hình sự trẻ tuổi thuộc lứa 9x tên là Lăng Phong trở thành lực lượng cốt cán thế hệ mới của bộ phận khám nghiệm và giám định dấu vết thuộc Công an thành phố Long Phiên.
“Điều đó có nghĩa là có ai đó đã cố tình quét dọn hiện trường để xóa đi dấu vết lưu lại lúc gây án?” Tôi hỏi.
Lâm Đào quỳ trên mặt đất, quan sát một hồi rồi nói: “Cũng khó nói lắm, giờ chỉ có thể khẳng định rằng, dấu vết chi tiết trên sàn nhà có hai loại. Một loại là dấu sợi vải quần áo, còn loại kia không có hoa văn, họa tiết gì cả, giống như dùng chổi nhựa quét vậy.”
“Tôi biết vì sao Trưởng khoa Hồ lại gọi chúng ta đến rồi.” Tôi chỉ vào nhà xướng trong kho hàng, nói, “Giống hệt như tình trạng của Lưu Tam Hảo, nạn nhân bị sát hại trong căn phòng nhỏ khép kín, sau đó bị di chuyển đến nơi khác. Đây chính là điểm đồng nhất trong thủ đoạn gây án của hung thủ.”
Tuy lại có thêm một sinh mệnh vụt tắt nhưng lần này chúng tôi thấy rất kích động, bởi vì hung thủ đã xuất hiện, hơn nữa dường như hắn để lộ thêm một đoạn đuôi nữa.
“Nạn nhân này cũng bị dao đâm chết sao?” Tôi hỏi.
“Không phải, nhìn vết thắt cổ kia thì có vẻ là bị thắt cổ đến chết.” Trưởng khoa Hồ nói, “Mà trên thi thể xem ra không có dấu vết khống chế và dấu vết phản kháng.”
Tôi nhíu mày nói: “Thay đổi thủ đoạn giết người là chuyện rất bình thường, có điều tình trạng khá giống với Lưu Tam Hảo, không hề có quá trình phản kháng, điều đó chứng tỏ khả năng khống chế tinh thần của hung thủ rất mạnh. Lẽ nào hắn có súng? Có súng lại không dùng để giết người, mà chỉ dùng để hù dọa thôi sao?”
“Điểm giống nhau với vụ sát hại Lưu Tam Hảo không chỉ ở chỗ giết nạn nhân trong căn phòng khép kín rồi di chuyển xác chết đến nơi khác.” Trưởng khoa Hồ nhíu mày, dường như vẻ mặt anh biểu lộ thái độ ghê tởm.
Tỏi quan sát thấy điều đó vội hỏi: “Thi thể đã bị phân hủy cao độ sao? Hay lại bị chuột gặm?”
“Anh vào xem thì rõ ngay.” Trưởng khoa Hồ chỉ vào trong nhà xưởng, vẻ mặt rất khó coi.
Làm bác sĩ pháp y bao nhiêu năm, thách thức với mọi trường hợp tử vong thê thảm nhất, về điểm này tôi khá tự tin. Còn loại tử thi nào chưa từng chứng kiến nữa chứ? Chí ít tôi dám tự hào khoe khoang mình chưa từng nôn ọe trước bất kỳ hiện trường khám nghiệm tử thi nào.
Tôi mỉm cười, xách hòm đựng dụng cụ khám nghiệm, đi vào nhà kho trước. Không rõ bộ phận kỹ thuật hình sự của thành phổ mượn ở đâu được mấy bóng đèn halogen chuyên dụng trong các công trường xây dựng. Tôi từng dùng loại bóng đèn này một lần khi phải giải phẫu trên núi, tuy nó vừa tỏa nhiệt vừa tốn điện nhưng hiệu quả chiếu sáng lại khá tuyệt.
Lúc này, phần lớn nhà kho được đèn điện chiếu sáng trưng, mặc dù vẫn còn vài góc chết, nhưng kết cấu tổng thể và tình hình bên trong nhà xưởng đã hiện ra rõ mồn một.
Mùi ẩm mốc quen thuộc trong nhà kho hoàn toàn không át được mùi thối nồng nặc của tử thi đang phân hủy cao độ.
Nhà kho rộng chừng hơn sáu trăm mét vuông, tuy chưa đến mức khiến người ta nảy sinh ảo giác trải rộng ngút tầm mắt nhưng không gian trống trải, rộng lớn của nhà kho khiến người ta cảm thấy vô cùng khoáng đạt, chỉ cần nói chuyện bình thường cũng nghe rõ tiếng vọng của chính mình dội lại.
Trong nhà kho có mấy cột trụ xi măng chống đỡ trần nhà. Vài cây cột trong số đó có đống thùng giấy tựa vào, chữ trên bề mặt thùng giấy đã không còn nhìn thấy gì vì ẩm ướt và mục nát, sau khi viền giấy bị mục nát thì lộ ra một vài bọc nilon đựng xà phòng. Mặt đất vô cùng bẩn thỉu, không cần Lâm Đào nói, tôi cũng biết nơi này không đủ điều kiện lấy dấu vết.
“Đúng là nhà kho bỏ hoang, đồ đạc bị giành giật hết rồi.” Tôi nói, “Thi thể đâu?”
“Thì ở trong đó chứ đâu.” Đại Bảo chỉ vào thùng lớn đựng xà phòng phía sau lưng.
Lúc tôi quay người lại, đèn halogen trong tay liền chiếu sáng góc chết phía sau. Tôi định thần nhìn về phía đó, trong khoảnh khắc, toàn bộ lông tóc trên người đều dựng đứng hết lên, tôi vội vàng lùi về sau mấy bước, đâm sầm vào Lâm Đào.
Lâm Đào lảo đảo vì bị tôi đụng trúng, cao giọng kêu lên: “Ê, giẫm vào giày của tôi rồi đấy!”
Có thể vì nhìn thấy sắc mặt trắng bệch của tôi nên Đại Bảo ân cần hỏi han: “Tần Minh, cậu không sao chứ?”
Nếu Đại Bảo không nhắc thì tôi căn bản không để ý đến đống vật thể đen thui ở trong góc chết đó, hơn nữa vật thể màu đen đó như còn đang ngọ nguậy.
Nói chính xác hơn thì nếu không nhìn thấy các đường nét giống hình khối con người thì tôi không thể nhận ra đó là một thi thể. Khi tôi bình tĩnh nhìn lại thì mới biết thi thể đó bị lũ gián bu quanh, cơ man nào là gián, phủ kín thi thể nạn nhân. Con nọ chồng chéo, giẫm đạp lên con kia, không ngừng ngọ nguậy tạo thành một khối đen sì hình người.
“Ô, Tần Minh sợ gián.” Lâm Đào cười nhạo tôi, bước về phía thi thể, giậm chân mấy cái.
Lũ gián lập tức bò tứ tung khắp nơi, mấy con còn bay lên, liệng qua tai tôi, đậu lên bức tường phía sau, sau đó tìm khe hở chui vào. Tôi rùng mình, lập tức nhắm chặt mắt.
“Ha ha, phát hiện ra thứ khiến anh Tần Minh sợ quả không dễ dàng chút nào.” Trưởng khoa Hồ nói, “Lẽ nào anh mắc hội chứng sợ lỗ tròn?”
“Lúc nhỏ cậu ấy bị gián nhấm nên khi lớn lên, cậu ấy sợ tất cả các loài côn trùng cánh cứng nhiều chân.” Đại Bảo vừa nói vừa lấy chổi xua những con gián chưa chịu bò đi.
Tôi sợ hãi từ từ mở mắt, thi thể đã lộ ra.
Thi thể này không giống với thi thể của Lưu Tam Hảo ở chỗ nó chưa bị hư hại. Có điều thi thể này cũng lõa thể.
“Ồ, quần áo ở ngay cạnh thi thể, chúng tôi đã mang đi khám nghiệm xem có lấy được dấu vân tay trên cúc áo không. Nhưng tôi đoán hy vọng không lớn lắm.” Trưởng khoa Hồ thấy tôi để ý đến y phục của thi thể nên vội giải thích.
Tôi hít sâu mấy hơi lấy can đảm bước đến gần thi thể. Điều khiến tôi rợn tóc gáy là có mấy con gián phản ứng chậm chưa chịu bay vẫn bò đi bò lại ở phần dưới thi thể.
“Có thể phán đoán hung thủ cố tình để lũ gián cắn thi thể không?” Đại Bảo đứng cạnh cất tiếng hỏi.
Tôi run run đưa tay ra, sờ lớp da thi thể, rồi đưa đầu ngón tay đến gần ngọn đèn. Dưới ánh sáng mạnh của đèn halogen, tôi thấy ở phần bụng ngón tay đeo găng của mình hơi bóng lên.
“Mọi người từng thấy gián nhấm thi thể bao giờ chưa?” Tôi hỏi.
Tất cả đều lắc đầu.
“Môi trường sống của gián cần một vài điều kiện bắt buộc, thứ nhất là môi trường nóng ẩm, thứ hai là có nguồn thức ăn, thứ ba là có các khe hở.” Tôi nói, “Nhà xưởng này hội tụ đầy đủ cả ba điều kiện trên. Thực ra thức ăn của loài gián chính là mấy bịch xà phòng hết hạn kia kìa.”
“Vì hội tụ đủ điều kiện nên có thể phán đoán hung thủ cố tình để gián nhấm thi thể sao?” Trưởng khoa Hồ phát hiện lập luận này không logic lắm.
Mãi tận lúc này tôi mới hoàn hồn, giơ ngón tay ra, nói: “Thi thể này bị bôi một lớp dầu thực vật.”
Mọi người đều kinh ngạc, đổ dồn ánh mắt lên ngón tay đeo găng của tôi.
Trưởng khoa Hồ nói: “Sức chứng minh của chứng cứ này rất mạnh mẽ. Sở dĩ gián thích xuất hiện ở nhà bếp là bởi vì chúng vô cùng mẫn cảm với mùi dầu mỡ.”
“Mà người bình thường chẳng ai bôi dầu mỡ lên cơ thể mình.” Tôi nói, “Cho nên ai đó đã cố tình bôi dầu thực vật lên nạn nhân rồi cố tình vứt xác ở đây, làm như vậy là cố tình dụ gián đến nhấm thi thể.”
“Vụ án này giống vụ án Lưu Tam Hảo, đều giết người trong không gian khép kín gần đó, sau đó kéo xác ra chỗ mà động vật có thể gặm nhấm.” Trưởng khoa Hồ nói một cách tràn trề tự tin, “Tôi tin rằng vì chứng cứ này, tổ chuyên án sẽ gộp chung hai vụ án thành chuỗi án liên hoàn.”
“Chúng ta không chỉ cần gộp hai vụ án này.” Tôi nói, “Còn hai vụ án trước đó nữa. À, quên mất chưa hỏi, đã điều tra rõ lai lịch của nạn nhân chưa? Có phải lại không tìm thấy động cơ giết người không? Có phải nạn nhân đã từng làm chuyện vô lại gì đó khi còn sống không?”
“Vừa mới nhận được tin hồi đáp, có điều muốn gộp cả hai vụ án trước đó nữa thì e là vẫn chưa đủ chứng cứ.” Trưởng khoa Hồ gật đầu, sau đó bước ra khỏi nhà kho, gọi viên cảnh sát điều tra đến giới thiệu tình hình vụ án.
Dưới ánh đèn khám nghiệm, tôi bắt đầu quan sát bề mặt tử thi, không có vết tổn thương rõ rệt, nhưng ở cổ có một rãnh treo khá sâu.
“Thắt cổ!” Ninh Văn, bác sĩ pháp y trẻ vừa mới vào nghề ba năm lên tiếng, “Rãnh treo nằm phía dưới xương giáp trạng, độ sâu và mức độ của rãnh treo đồng nhất, hơn nữa lại giao nhau ở sau gáy. Vùng da xung quanh rãnh treo sưng đỏ, nổi bọng nước, đó là các phản ứng sống điển hình. Các đặc trưng ngạt thở thể hiện rất rõ ràng trên bề mặt thi thể, cho nên rõ ràng người bị hại bị thắt cổ khi đang còn sống.”
Khi các bác sĩ pháp y nhìn thấy rãnh treo trên cổ nạn nhân thì phản ứng đầu tiên là phân biệt xem đó là chết treo cổ hay chết thắt cổ. Điều đó có tác dụng tích cực trong việc phán đoán tính chất vụ án. Vị trí rãnh treo của nạn nhân chết thắt cổ tương đối thấp, độ sâu và mức độ rãnh treo đồng nhất, vị trí nút buộc không nhếch lên, nhưng lại đan chéo nhau. Đây là những điểm then chốt để tiến hành phân biệt với chết treo cổ. Thêm vào đó, rãnh treo có phản ứng sống, thi thể có các đặc trưng của dấu hiệu ngạt thở. Như vậy những chứng cứ để phán đoán chết do thắt cổ đã rất đầy đủ.
Ninh Văn tốt nghiệp chuyên ngành pháp y, lại được tôi luyện qua các khóa huấn luyện nâng cao kỹ thuật pháp y của Công an thành phố nên giờ đã trở thành một bác sĩ pháp y rất ưu tú.
“Nhưng có một vấn đề.” Ninh Văn nói, “Trên cổ nạn nhân không có đường Yoshikawa, vì sao nạn nhân lại không phản kháng khi bị thắt cổ? Trông có vẻ không có các nhân tố khiến anh ta bị hôn mê.”
“Đường Yoshikawa gì chứ, nó là vết cào thì gọi là vết cào được rồi.” Tôi phản cảm đốp lại một câu, “Người Nhật mới gọi nó là đường Yoshikawa.”
Đường Yoshikawa là thuật ngữ của cảnh sát Nhật, ám chỉ việc khi nạn nhân bị thắt cổ sẽ vô thức lấy tay kéo dây thừng ra, từ đó hình thành nên vết thương do cào xước vào cổ mình. Chúng tôi không gọi như vậy mà gọi thẳng là vết cào cấu.
Chắc ngữ khí của tôi hơi nặng nề nên Ninh Văn có vẻ ngượng.
“Nạn nhân tên là Cảnh Linh Xán.” Lúc này Trưởng khoa Hồ bước vào nhà kho, cầm bút lục và nói, “Tình hình gần giống như anh Tần Minh nói, kết quả điều tra bước đầu về người này trong thời gian gần đây cho thấy anh ta không hề gây thù chuốc oán với ai. Vì anh ta vừa mãn hạn tù nên suốt ngày chỉ mải đi tìm việc. Anh ta cũng không đắc tội với ai. Chẳng những không đắc tội với ai mà trên người còn không một xu dính túi, bởi vậy động cơ giết người của vụ án này rất mông lung. Hơn nữa, trước đây Cảnh Linh Xán từng làm một chuyện vô lương tâm.”
“Chuyện vô lương tâm gì vậy?” Tôi nôn nóng hỏi.
Trưởng khoa Hồ nói: “Cảnh Linh Xán tốt nghiệp một trường đại học có tiếng. Sau khi tốt nghiệp, anh ta trở thành quản lý cấp cao cho một công ty tư nhân trực thuộc một sở nghiên cứu nào đó, mức thu nhập rất cao. Nhưng Cảnh Linh Xán không thỏa mãn với mức thu nhập đó mà còn muốn trục lợi từ các khoản bên ngoài, thế là gây ra một vết ố trong cuộc đời mình. Anh ta lợi dụng các nguồn vốn và các kênh trong tay, lén làm riêng vài vụ, đồng thời thuê một số công nhân mà mình quen biết làm thêm giờ để sản xuất sản phẩm. Người thì có thể làm thêm giờ nhưng máy móc, thiết bị thì không. Thế là một ngày của hai năm về trước, do phải vận hành trong khoảng thời gian dài nên một số máy móc thiết bị đã bắn tia lửa, phát nổ, làm cháy cả dây chuyền sản xuất khiến ba người phải bỏ mạng. Cảnh Linh Xán không chỉ phải chịu án ba năm tù giam vì tội thiếu trách nhiệm gây ra sự cố mà toàn bộ tài sản tích cóp được sau mười năm làm việc vất vả đều hóa thành mây khói theo trận hỏa hoạn đó. Ngay cả bất động sản và tiền tiết kiệm cũng vét cạn cho các phán quyết tố tụng hình sự lẫn dân sự.”
“Làm hại những ba mạng người.” Tôi lẩm bẩm.
“Sau đó nhờ cải tạo tốt, lại lập được công trạng trong thời gian thi hành án nên Cảnh Linh Xán được giảm thời hạn chấp hành hình phạt. Trước khi xảy ra chuyện, anh ta vừa mãn hạn tù, dường như đang đi tìm việc làm.” Trưởng khoa Hồ nói tiếp.
Chuyện đến nước này, trong đầu tôi đã hoàn toàn sáng tỏ. Những hoài nghi trước đó của tôi hoàn toàn không sai, đúng là có một người như thế, một người chuyên đi tìm những kẻ từng làm những việc vô lương tâm để trả thù. Không biết hắn dùng thủ đoạn gì khiến những người bị hại mất đi khả năng kháng cự, sau đó sử dụng các phương thức như dùng dao đâm, dùng gạch đập hoặc chẹn cổ gây ngạt thở cơ học để sát hại nạn nhân, rồi lôi thi thể người bị hại đến những nơi động vật tập trung đông đúc, để động vật gặm cắn thi thể. Đây là loại hành vi xả hận rất rõ nét, chứng tỏ động cơ của kẻ gây án một cách rõ ràng. Tuy chỉ là phán đoán, chưa chắc nhận được sự khẳng định của tổ chuyên án, nhưng về cơ bản tôi đã xác định phán đoán của mình là đúng.
“Bây giờ bên bộ phận điều tra đang tiến hành điều tra những đối tượng tiếp xúc cuối cùng quanh Cảnh Linh Xán khi anh ta còn sống. Nếu có thể phát hiện thấy manh mối, nói không chừng sẽ phá được án.” Trưởng khoa Hồ nói.
Tôi lắc đầu, nói: “Nếu có thể ghép án thì vấn đề trở nên rắc rối hơn rất nhiều. Cảnh sát muốn điều tra ra những chuyện đáng xấu hổ của mấy nạn nhân này đã hao tốn bao nhiêu công sức và thời gian, không biết hung thủ dùng cách gì mà dễ dàng biết được những thông tin đó? Trên thế giới có biết bao nhiêu người làm điều ác, điều xấu, sao hung thủ lại chọn bốn người này? Chắc chắn giữa họ phải có mối liên hệ gì đó.”
2“Nhưng kết quả điều tra cho thấy giữa họ chẳng hề có mối quan hệ nào cả.” Đại Bảo nói.
“Chắc chắn phải có thông tin tiềm ẩn nào đó mà chúng ta chưa phát hiện ra.” Tôi nói, “Chỉ cần phát hiện ra thông tin đó, thì vụ án sẽ có bước đột phá mới.”
Trưởng khoa Hồ đồng tình với nhận định của tôi, đồng thời ghi chép lại vào cuốn số cá nhân.
“Chúng ta đến nhà xác thôi!” Tôi thấy Ninh Văn đang đóng gói thi thể. Sắc mặt Ninh Văn trông khó coi, chẳng rõ có phải vì lời nói hơi nặng nề khi nãy của tôi làm tổn thương lòng tự trọng của cậu ta hay không.
Tình hình khám nghiệm tử thi hoàn toàn đồng nhất với tình hình lúc chúng tôi khám nghiệm bề mặt của tử thi. Nạn nhân bị hung thủ dùng dây thừng cứng siết cổ đến chết vào đêm hôm kia, có lẽ nạn nhân đã mất ý thức trước khi bị thắt cổ chết, do đó cũng mất khả năng kháng cự. Trước khi tử vong, nạn nhân chưa hề ăn gì từ sáu tiếng trước đó, mà nhìn mức độ tổn thương của lòng bàn chân thì biết hẳn anh ta đã phải đi bộ quãng đường khá dài.
Ngoại trừ kết quả khám nghiệm trong dự liệu này, tôi còn phát hiện ra một điểm bất thường. Tóc trên đỉnh đầu của nạn nhân bị ai đó nhổ mất một chỏm nhỏ.
Hiện tượng khá kỳ quái. Thông thường, trong các vụ án mạng thỉnh thoảng cũng xảy ra trường hợp người bị hại bị giật tóc trong quá trình hai bên giằng co, vật lộn, nhưng nạn nhân trong vụ án này đã không có khả năng kháng cự thì vì sao hung thủ lại phải giật tóc của anh ta? Hơn nữa khi giật tóc, nạn nhân còn chưa chết, bởi vì nang tóc có hiện tượng chảy máu.
Tôi cau mày nghĩ ngợi, rồi ngẩng đầu hỏi Trưởng khoa Hồ: “Trong máy tính của anh có ảnh mấy thi thể kia không?”
Trưởng khoa Hồ gật đầu, cởi áo giải phẫu, mở máy tính ở phòng bên cạnh vào mạng ngành công an, chẳng mấy chốc anh đã tìm thấy tập tin ảnh chụp mấy thi thể kia. Tôi bảo Trưởng khoa Hồ tìm những bức ảnh chụp phần đỉnh đầu của ba thi thể trước đó.
Không như thi thể của Cảnh Linh Xán, đỉnh đầu của ba thi thể trước đó còn bị tổn thương với các mức độ khác nhau. Nhưng sau khi quan sát kỹ từng bức ảnh, tôi vẫn nhận ra đỉnh đầu của họ đều mất một nhúm tóc và quanh nang tóc có dấu vết chảy máu giống Cảnh Linh Xán.
“Hung thủ đã nhổ tóc nạn nhân trước khi ra tay sát hại.” Tôi thốt lên, “Các anh thấy chưa?”
“Anh mà không nói thì đúng là tôi cũng không để ý đến.” Trưởng khoa Hồ cảm thán, “Hành vi kín đáo như thế không phải hành vi ghi lại dấu ấn của bản thân. Vậy động cơ của hắn là gì?”
“Động cơ gì thì phải đợi chính hắn khai ra mới biết.” Tôi nói, “Nhưng căn cứ này đủ để chúng ta đưa ra quyết định ghép bốn vụ án trên đây thành chuỗi án liên hoàn.”
Trưởng khoa Hồ gật đầu đồng ý: “Để tôi về báo cáo với lãnh đạo!”
Phát hiện ra căn cứ ghép án mấu chốt này, tôi không thấy kích động lắm. Bởi ngay từ khi xảy ra vụ án thứ ba, quan điểm của tôi về việc ghép án đã xác định rất rõ ràng.
Sau khi kết thúc công tác khám nghiệm tử thi, tôi phát hiện Ninh Văn vẫn trưng vẻ mặt gượng gạo, thế là tôi ôm vai cậu ta, kéo ra ban công phòng giải phẫu ở tầng 2 hút điếu thuốc.
“Sao thế? Tôi nặng lời khiến cậu giận à?” Tôi cười hỏi.
Ninh Văn lắc đầu: “Không liên quan đến anh đâu, chỉ tại dạo này số em hơi nhọ, suốt ngày bị Ban kiểm tra kỷ luật gọi vào phòng nói chuyện.”
“Tưởng chuyện gì!” Tôi nói, “Cậu tự thấy không hổ thẹn với lương tâm đúng không?”
“Đúng!” Ninh Văn kiên định nhìn tôi.
“Tôi cũng thường xuyên bị Ban kiểm tra kỷ luật gọi vào phòng uống trà.” Tôi nói, “Đó là chuyện mà bất kỳ bác sĩ pháp y nào cũng phải trải qua.”
“Nhưng thái độ của Ban kiểm tra kỷ luật với em rất không thoải mái.” Ninh Văn nói, “Tối qua ngồi nói chuyện suốt sáu tiếng đồng hồ, chẳng cho ăn cơm, lại còn mắng xối xả, em chẳng hiểu mình phạm phải lỗi gì, dựa vào đâu mà nói em kiểu đó?”
“Ha ha!” Tôi vỗ vai Ninh Văn, rồi bảo, “Tôi nhớ nguyện vọng một của cậu là chuyên ngành pháp y. Chỉ vì bị gọi vào phòng Ban kiểm tra kỷ luật nói chuyện mấy lần mà đã khiến lý tưởng của cậu lung lay rồi sao?”
Ninh Văn cúi đầu nói: “Muốn trở về trường đi vài vòng, xây dựng lại lý tưởng của mình quá, coi như trở về điểm khởi đầu của mơ ước để tăng thêm nhiệt huyết.”
Tôi gật đầu, nói: “Cũng tốt, xin nghỉ phép về lại trường cũ xem sao. Có điều tôi cũng mong cậu luôn luôn ghi nhớ rằng niềm đam mê trong tim là của chính bản thân mình, không thể suy chuyển vì bất kỳ môi trường ngoại cảnh hay ánh mắt của người ngoài cuộc nào. Đam mê chính là đam mê, chúng ta chọn nó là bởi sự nhiệt huyết từ chính trái tim mình. Làm lâu năm một ngành nghề nào đó quả thực có thể khiến những góc nhọn dần bị mài mòn, nhưng niềm đam mê tuyệt đối không bao giờ lịm tắt. Đó mới là niềm đam mê thực sự.”
“Anh Tần Minh, liều doping này của anh, em chấp nhận tiêm.” Ninh Văn cao hứng phá lên cười.
“Ối!” Tôi chợt kêu lên khiến Ninh Văn làm rớt điếu thuốc đang cầm trên tay, “Cậu xem gì thế kia?”
Lúc này trời đã bắt đầu hửng sáng, nhìn theo hướng tay tôi chỉ, phía xa là dòng sông Long Phiên. Nếu tôi không nhìn nhầm thì trên mặt sông Long Phiên có một chiếc thùng giấy đang trôi dập dềnh. Chúng tôi ở khoảng cách rất xa mà vẫn nhìn rõ đó là thùng giấy, chứng tỏ chiếc thùng giấy đó không hề nhỏ.
Dòng sông Long Phiên trong vắt không hề bị ô nhiễm kia làm sao lại có chiếc thùng giấy to như vậy trôi nổi trên sông được chứ? Rõ ràng đây là hiện tượng cực kỳ không hợp lẽ thường. Mà hễ xuất hiện hiện tượng bất hợp lý, quá bán là ám chỉ chúng tôi sắp có việc phải làm.
“Ruồi nhặng là bạn tốt của chúng ta.” Đại Bảo ngồi xổm bên cạnh thùng giấy, nói, “Bao nhiêu ruồi nhặng bay bên trên thế kia, tôi thấy ấy à, bên trong chắc chẳng phải thứ gì tốt đẹp.”
“Hờ hờ, bạn tốt của anh thì có!” Trần Thi Vũ cười nhạt, “Tôi chẳng muốn làm bạn với ruồi nhặng chút nào!”
Lúc này trời đã sáng hẳn, lại xuất hiện tình hình mới nên tôi gọi điện thoại đánh thức các thành viên còn lại của tổ khám nghiệm và yêu cầu tập trung ở bờ sông Long Phiên cạnh nhà xác.
Trong lúc tôi và Ninh Văn nói chuyện thì chúng tôi nhìn thấy thùng giấy này. Tốc độ dòng chảy của con sông không nhanh lắm, cho nên thùng giấy chỉ trôi lững lờ trên sông. Lúc đến gần mới thấy đó là một thùng giấy rất lớn, lớn cỡ chiếc máy giặt lồng ngang. Chiếc thùng giấy đó không hoàn toàn nổi trên bề mặt nước, mà nó chìm dưới mực nước một chút, điều đó chứng tỏ trong thùng chứa vật gì đó khá nặng.
Điều này rõ ràng rất đáng nghi.
Thùng giấy trôi giữa sông, chúng tôi không thể trực tiếp ra đó vớt lên nên tôi đành bảo Trưởng khoa Hồ gọi cho đồn công an địa phương, tìm chiếc thuyền nhỏ, sau đó chầm chậm chèo thuyền đến gần thùng giấy.
May mà bơi chậm nên chúng tôi không làm kinh động đến lũ ruồi nhặng bu đầy phía trên thùng giấy.
Ruồi nhặng thích mùi phân hủy hôi thối, cho nên khi trên sông bỗng nhiên xuất hiện một thùng giấy lớn, thùng giấy đó lại thu hút rất nhiều ruồi nhặng thì tôi biết chắc trong thùng chỉ có thể là tử thi.
Chuẩn bị trước tâm lý nên tôi không hấp tấp yêu cầu cảnh sát địa phương vớt lên mà bảo họ bơi vòng quanh thùng giấy, chỉ cần không làm kinh động đến lũ ruồi nhặng đang mải mê đẻ trứng là được. Lâm Đào cũng căn cứ vào vị trí của con thuyền để chụp ảnh thùng giấy với đủ mọi phương vị và góc độ sao cho chụp được nó ở trạng thái nguyên thủy nhất. Cuối cùng, chúng tôi ghi chú thời gian. Lúc này đã 5 rưỡi sáng. Vớt thùng giấy dễ hơn trục vớt thi thể nhiều. Cảnh sát địa phương dùng móc câu móc vào thành thùng giấy, sau đó bơi thuyền kéo thùng giấy vào bờ.
Thùng giấy này quả nhiên là thùng đựng máy giặt, xung quanh dán băng dính gia cố một cách chắc chắn. Vì chúng tôi dịch chuyển thùng giấy cho nên lũ ruồi nhặng đậu bên trên cũng nghe tiếng gió mà đua nhau chạy trốn.
Đã nghi ngờ chiếc thùng giấy này chứa thi thể nên trước khi chúng tôi mở thùng, thì Lâm Đào tiến hành khám nghiệm xung quanh thùng giấy một lượt, nhờ đó phát hiện ra dấu vết vân tay rất rõ ràng. Có điều thùng giấy ngâm trong nước quá lâu nên bị ngấm nước. Tuy chỉ một phần thùng giấy chìm xuống nước nhưng do đặc tính hút nước của giấy nên cả chiếc thùng đều ẩm ướt. Nếu có dấu vân tay thì nó chỉ lưu lại trên băng dính không thấm nước dán trên thùng mà thôi.
Thùng giấy này không bị dán băng dính chằng chịt giống như các bưu phẩm chuyển phát nhanh, mà chỉ chằng mấy vòng quanh thân thùng, mục đích là để đóng kín miệng thùng. Ở điểm đầu và điểm cuối của băng dính đều không phát hiện thấy dấu vân tay.
Chúng tôi biết vì băng dính có độ dính cao nên chỉ cần ngón tay chạm vào bề mặt băng dính là dấu vân tay nhất định sẽ bị giữ lại trên băng dính. Cho dù đeo găng tay bảo hộ lao động thì sợi len cũng bắt lại trên băng dính. Nhưng Lâm Đào kiểm tra đi kiểm tra lại mà vẫn không có thu hoạch gì.
Căn cứ vào phân tích của Lâm Đào thì nguyên nhân không có dấu vân tay hoặc là do người dán băng dính đeo găng tay cao su, găng tay nhựa hoặc là do kẻ đó sử dụng dụng cụ cắt băng dính. Vì hiện giờ ngành nghề chuyển phát nhanh đang phát triển đi lên như diều gặp gió, càng ngày càng có nhiều người sử dụng dịch vụ chuyển phát nhanh nên trong nhà có dụng cụ cắt băng dính là điều rất bình thường.
Khi chúng tôi chuẩn bị mở thùng ra thì nhóm các cô gái tổ khám nghiệm ngồi “xe tải” của Hàn Lượng đã đến bên bờ sông ngay phía ngoài nhà xác.
Chúng tôi dùng dao dọc giấy rạch băng dính ra trong khi Lâm Đào lấy máy ảnh quay lại toàn bộ quá trình.
Các cảnh sát địa phương đứng xung quanh đồng thanh “Ồ!” một tiếng, bởi vì không ngoài dự đoán của chúng tôi, bên trong thùng giấy quả thật có một thi thể đang nằm ở tư thế cuộn người lại.
Tôi biết tại sao họ lại ồ lên. Là bởi nhìn các bác sĩ pháp y chăm chú khám nghiệm thùng giấy, các cảnh sát địa phương đã chuẩn bị sẵn tâm lý đón nhận. Chỉ có điều trước khi phá được án thì họ lại có việc phải làm.
Nạn nhân là nam, trên người chỉ mặc một chiếc quần lót, người ngợm bẩn thỉu, dính bùn đất và bụi bặm lem nhem, nằm co ro trong thùng giấy.
Tôi lấy túi đựng tử thi trong xe ra, trải trên mặt đất, sau đó gọi Đại Bảo, Hàn Lượng và Lâm Đào đến giúp, kéo hai tay của thi thể lên, nhấc ra khỏi thùng giấy.
Quá trình co cứng tử thi đã hình thành ở tất cả các khớp chính của thi thể, vì thế lúc cho vào trong túi đựng tử thi, thi thể vẫn giữ nguyên trạng thái nằm cuộn tròn, không hề thay đổi.
“Chà, thế lại càng nhàn.” Đại Bảo nói, “Chúng ta đưa luôn thi thể vào phòng giải phẫu, không cần nhờ nhân viên nhà xác giúp đỡ nữa.”
“Thủ tục cần làm thế nào thì cứ làm thế đó.” Tôi dang rộng hai tay đeo găng, nhìn vào trong thùng giấy.
Trong thùng giấy không còn vật gì khác, nhưng trên vách trong của thùng giấy lại có không ít vết lấm tấm.
“Đừng sốt ruột!” Tôi thấy Lâm Đào định bắt đầu tiến hành khám nghiệm thùng giấy liền nói: “Bên trong không có vật kèm theo, chỉ có một vài dấu vết cọ sát. Tôi thấy chúng ta vẫn nên khám nghiệm tử thi trước.”
“Ồ được!” Lâm Đào gật đầu, “Tôi không sốt ruột, lát nữa trực tiếp khám nghiệm tử thi luôn. Tôi ở phòng chứa vật chứng xem phía ngoài thùng giấy còn vật chứng dấu vết nào có giá trị không, tuyệt đối không động vào bên trong thùng.”
Bây giờ mới là lúc sáng sớm, nhà xác vẫn chưa chính thức làm việc, hai nhân viên trực ban vươn vai bước ra từ cửa sau, nói với chúng tôi: “Chỉ cách một vách tường, các anh tự khênh vào trong đi!”
Tôi chỉ cười, không phản bác hay giải thích gì. Khi nhân viên trực ban khiêng thi thể lên tầng giải phẫu trong nhà xác, tôi giúp Lâm Đào thận trọng khênh thùng giấy lên phòng chứa vật chứng ở tầng 2.
Đại Bảo và tôi mặc quần áo giải phẫu, khiêng thi thể lên bàn giải phẫu. Quan sát thi thể co quắp kia ở tư thế nằm nghiêng, tôi thấy đó là một thanh niên chừng ngoài hai mươi tuổi, da rất trắng, tóc xoăn nhuộm vàng. Nếu độ co cứng của thi thể nằm cuộn người này đang ở mức cứng nhất thì bác sĩ pháp y sẽ rất đau đầu. Với những thi thể trong trạng thái co cứng nhất, bác sĩ pháp y thường xuyên phải phá khớp vai, khớp khuỷu tay và khớp gối, và việc phá khớp háng thực sự không hề dễ dàng chút nào cho dù đã dùng hết sức.
Trước khi phá vỡ trạng thái co cứng của thi thể, Đại Bảo liếc nhìn đồng hồ treo tường trong phòng giải phẫu, rồi nói: “Bây giờ là 8 giờ sáng.”
Tôi gật đầu, ra hiệu Đại Bảo, Ninh Văn và tôi sẽ hợp sức phá vỡ trạng thái co cứng này để tử thi trở về trạng thái nằm thẳng.
Gần như tất cả các bác sĩ pháp y đều có thói quen xem đồng hồ trước khi quan sát các hiện tượng của thi thể, như thế sẽ thuận tiện trong việc gợi ý thời gian tử vong thông qua các hiện tượng của thi thể, từ đó suy đoán những thời khắc tử vong cụ thể của thi thể.
Có điều tôi và Đại Bảo mất năm phút đồng hồ cố gắng bẻ thẳng thi thể lại mà không được. Vì Lâm Đào và Trình Tử Nghiên đang khám nghiệm thùng giấy ở tầng dưới nên chúng tôi đành gọi hai người vẫn đứng “quan sát cuộc chiến” từ nãy đến giờ là Hàn Lượng và Trần Thi Vũ đeo găng tay vào giúp chúng tôi một tay. Trưởng khoa Hồ phụ trách ghi hình. Lúc này không phân biệt nam nữ gì nữa, đã là công việc lao động chân tay thì nữ giới cũng phải ra trận.
“Khỉ thật, sao cứng thế không biết, tôi cảm thấy găng tay sắp rách đến nơi rồi.” Đại Bảo nghiến răng nghiến lợi dùng hết sức, “Thi thể cứng nhất sau khi chết chừng mười lăm đến mười bảy tiếng đồng hồ. Xem ra anh ta chết trước khi dùng bữa tối ngày hôm qua.”
Lại mất thêm mười phút nữa, nhờ sự hợp lực của năm người, cuối cùng trạng thái co cứng của tử thi cũng được phá vỡ. Thi thể trở về trạng thái nằm duỗi thẳng. Trước mắt chúng tôi là thi thể của một chàng trai trẻ dính đất cát khắp người.
Bốn chúng tôi lần lượt dựa vào tường, thở hổn hển.
“Anh xem, tôi bẻ cái chân này còn thẳng hơn anh bẻ.” Trần Thi Vũ nói với Hàn Lượng.
“Vâng vâng vâng, cô là nữ cường.” Hàn Lượng chắp tay tỏ vẻ bái phục, “Xin nữ hiệp sĩ nhận của tôi một bái.”
Tôi nghỉ ngơi trong chốc lát, lấy nhiệt kế ra cắm vào hậu môn nạn nhân để đo nhiệt độ của trực tràng. Sau đó dùng gạc lau sạch nhiệt kế, nhìn một lát rồi nói: “Ừm, đúng thế, có vẻ nạn nhân đã tử vong từ mười lăm tiếng trước, nghĩa là khoảng 5 giờ chiều ngày hôm qua.”
“Trên người có vết thủng này.” Đại Bảo vừa nói vừa dùng miếng gạc thấm cồn lau bụi trên thi thể, “Ngoài vài vết thủng, còn có hiện tượng xuất huyết dưới da trên diện rộng. Ôi trời, cả mảng lưng đằng sau đều có, mặt sau bắp đùi cũng có nữa. Anh ta bị thương nhiều đấy! Đúng rồi, những vết thương này liệu có phải vết thương chí mạng không nhỉ?”
Nói xong, Đại Bảo dùng kim thăm dò cắm vào một số vết thủng trên lưng và phía ngoài bắp đùi của thi thể.
“Hả? Lạ quá! Sao những vết thủng này chỉ nằm ngay dưới da nhỉ? Hơn nữa lại bất quy tắc, mà hình như còn hơi sưng viêm.” Đại Bảo nói.
Câu này của Đại Bảo thu hút sự chú ý của tôi. Tôi vội vàng bước nhanh đến xem.
Phần lưng eo và má đùi ngoài của nạn nhân có mười mấy lỗ thủng giống như miệng vết thương, có vài chỗ khá dày đặc khiến người ta nhịn không được cảm giác ghê tởm. Tôi nhíu mày dùng kính lúp quan sát kỹ hơn, xung quanh miệng vết thương trái phải đều bất quy tắc, hình thái của mười mấy vết thương không đồng nhất. Bờ vết thương không chỉ cong vòng mà còn có vùng da màu vàng sẫm rộng chừng năm mi-li-mét, trông giống như nạm viền, khác biệt hẳn với những vùng da trắng khác. Bề mặt vết thương màu vàng, hơn nữa còn ươn ướt, dù lấy gạc thấm cũng không thể lau khô được. Tôi biết nó đang chảy mủ. Các vết thương đều không sâu, nằm ngay dưới da, không nhìn thấy lớp mỡ và cơ dưới da.
Tôi nghĩ một lát, rồi thình lình lùi về sau mấy bước, nói: “Đại Bảo, lập tức yêu cầu Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh gửi cho chúng ta một ít que thử sắc ký miễn dịch đến.”
“Que thử gì cơ?” Đại Bảo hỏi.
Tôi nhìn Đại Bảo, anh ta như sực hiểu, kêu lên: “Ồ! Hả? Lẽ nào...”
“Mau!” Tôi giục giã.
Hàn Lượng và Trần Thi Vũ đứng cạnh nghe mà ngơ ngác không hiểu gì, nên sốt ruột hỏi tôi.
Tôi nói: “Đó là phương pháp test nhanh dựa trên nguyên lý sắc ký miễn dịch.”
“Xét nghiệm sắc ký miễn dịch à? Trước đây có nghe thấy.” Hàn Lượng nói, “Nhưng hình như người ta thường dùng phương pháp này để kiểm tra ma túy gì đó mà?”
Tôi lắc đầu: “Da của người này lở loét khắp nơi, tôi nghi ngờ anh ta bị AIDS, que thử mà tôi yêu cầu Đại Bảo lấy là que test nhanh HIV.”
“AIDS...?” Hàn Lượng giật nảy người, “Vừa nãy tôi bẻ thằng thi thể, liệu... liệu có...”
Trần Thi Vũ lắc đầu nhìn cậu ta với ánh mắt xem thường: “Cần phải sợ đến mức đó không? Chỉ tiếp xúc một chốc, làm sao mà lây nhiễm được. Anh không biết sao? Chúng ta vẫn có thể tiếp xúc thông thường với bệnh nhân nhiễm HIV, không khủng khiếp như anh nghĩ đâu.”
“Nói... thì nói thế.” Hàn Lượng chạy vào phòng vệ sinh kế bên rửa tay, nói vọng ra, “Nhưng trong lòng vẫn thấy gờn gợn.”
Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh chỉ cách đây một cây số, cho nên trong lúc mọi người nói chuyện thì que thử đã được gửi đến phòng giải phẫu. Tôi quên cả cám ơn đồng nghiệp ở Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh, vội vàng lấy máu trong tim nạn nhân, nhỏ vào que thử. Chỉ một lát sau, que thử đã hiện rõ hai vạch màu đỏ.
“Dương tính mạnh.” Tôi nói, “Thay đổi biện pháp phòng ngừa.”
Trưởng khoa Hồ gật đầu, vội vã lấy bộ trang phục phòng hộ chuyên dụng trong phòng giải phẫu bao gồm kính chắn và mặt nạ phòng độc. Chúng tôi mặc kín bưng chẳng khác nào các bác sĩ trong thời kỳ bệnh cúm gia cầm H1N1 bùng phát, sau đó đeo hai lớp găng tay cao su, lại lồng thêm găng tay sợi ở ngoài.
“Các anh cũng kỳ thị bệnh nhân AIDS à?” Trần Thi Vũ hỏi.
“Không phải vấn đề kỳ thị hay không.” Giọng tôi ồm ồm vọng ra từ sau mặt nạ phòng độc, “Đúng là tiếp xúc thông thường với bệnh nhân AIDS thì không có vấn đề gì, nhưng bác sĩ pháp y chúng ta đâu phải chỉ có những tiếp xúc thông thường với họ.”
Bác sĩ pháp y cần giải phẫu thi thể, cho nên đương nhiên phải tiếp xúc với lượng lớn máu của nạn nhân. Nạn nhân trước mắt chúng tôi mới tử vong mười mấy tiếng đồng hồ, virus HIV trong cơ thể chưa chết, vẫn tồn tại khả năng lây nhiễm như cũ. Nếu trong lúc làm việc, chúng tôi sơ ý làm đứt tay hoặc để máu của nạn nhân bắn vào phần niêm mạc bị tổn thương thì chúng tôi sẽ bị truyền nhiễm. Chúng tôi phải lồng găng tay sợi bên ngoài hai tầng găng tay cao su là vì muốn ngăn ngừa khả năng cứa vào tay ở mức cao nhất, bởi xác suất găng tay sợi bị cứa đứt thấp hơn khả năng găng tay cao su bị cứa đứt rất nhiều.
3Tôi từng đăng ảnh võ trang kín mít từ đầu đến chân khi tiến hành khám nghiệm cho thi thể bệnh nhân mắc HIV lên Weibo, kết quả mang về hàng đống lời chê trách, chửi bới của cộng đồng mạng. Đương nhiên tôi chẳng hề bận tâm với những lời mắng chửi đó, bởi tôi cảm thấy bác sĩ pháp y làm tốt công tác phòng ngừa ở mức cao nhất nhằm bảo vệ bàn thân thì chẳng có gì sai. Tôn trọng bệnh nhân HIV không có nghĩa là không cần thực hiện các biện pháp phòng ngừa trong lúc khám nghiệm thi thể bệnh nhân HIV. Ngược lại, chỉ khi nghiêm túc hoàn thành công tác khám nghiệm tử thi cho bệnh nhân trong tình trạng bản thân được bảo vệ an toàn, rồi trả lại công bằng cho nạn nhân, đó mới là sự tôn trọng lớn nhất dành cho bệnh nhân HIV.
Trong công việc thực tiễn của bác sĩ pháp y luôn gặp phải rất nhiều thi thể mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, khi gặp phải tình huống này, chúng tôi không thể cứ thế đánh trống thu quân, mà vẫn phải cố gắng gồng mình khám nghiệm đến cùng. Để đảm bảo tính tỉ mỉ của công tác khám nghiệm, việc duy nhất chúng tôi có thể làm là cố gắng tự bảo vệ bản thân. Điều này không phải bởi bác sĩ pháp y sợ chết mà bởi nếu để bản thân bị mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm trong quá trình làm việc, thậm chí còn liên lụy đến người nhà thì đúng là tự gây nghiệp chướng.
Vì vấn đề kinh phí, nên trong giai đoạn hiện nay, các bác sĩ pháp y chưa được phân phối nhiều bộ quần áo phẫu thuật, kính chắn và mặt nạ phòng độc, cũng không được phân phát nhiều que thử sắc ký miễn dịch để test các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Chẳng qua trong quá trình khám nghiệm tử thi, nếu các bác sĩ pháp y phát hiện ra hiện tượng bất thường ở các thi thể thì căn cứ vào kiến thức y học của mình phán đoán nạn nhân có mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nào đó hay không, sau đó tự tiến hành các biện pháp phòng ngừa đặc thù.
Thực ra, đây cũng là điểm nguy hiểm nhất trong công tác pháp y.
Một tỉnh trong một năm có hàng chục ngàn thi thể chết bất thường cần các bác sĩ pháp y tuyến cơ sở khám nghiệm tử thi, mà rốt cuộc có bao nhiêu thi thể trong số này mắc bệnh truyền nhiễm nguy hiểm thì chưa có ai thống kê cả. Đa số trường hợp đều là thi thể đã được đưa đi hỏa táng xong xuôi, bác sĩ pháp y mới biết họ mắc bệnh truyền nhiễm thông qua công tác điều tra hậu kỳ, hoặc thậm chí còn mãi mãi chẳng ai biết. Loại găng tay cao su mà chúng tôi thường sử dụng là loại găng tay y tế bình thường, mũi dao vừa chạm là rách luôn, thậm chí còn làm tổn thương ngón tay bên trong. Mà trong quá trình khám nghiệm tử thi, lỡ thao tác sai một bước là hậu quả thật không thể tưởng tượng nổi.
Bởi vậy bây giờ chúng tôi vẫn đang làm một việc: một mặt hô hào các cơ quan ban ngành cấp thêm kinh phí để mua nhiều vật liệu y tế, giúp nâng cao tiêu chuẩn phòng ngừa trong công tác khám nghiệm tử thi cho các bác sĩ pháp y ở mọi tuyến; bắt buộc các bác sĩ pháp y phải mặc đồng phục giải phẫu, đeo kính chắn và mặt nạ phòng độc trước khi tiến hành bất kỳ cuộc giải phẫu nào; một mặt khác, bàn bạc và thỏa thuận với bên Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh để họ cấp phát que thử sắc ký miễn dịch giúp test nhanh các bệnh truyền nhiễm nguy cơ cao thường thấy cho bác sĩ pháp y các tuyến; bắt buộc các bác sĩ pháp y phải tiến hành sàng lọc kiểm tra trước khi tiến hành khám nghiệm tử thi.
Nhưng tôi biết mục tiêu này rất khó thực hiện, thứ nhất vì kinh phí có hạn, thứ hai vì rất nhiều bác sĩ pháp y ngại phiền phức. Ví dụ ở một số địa phương, phòng giải phẫu còn không có máy lạnh, vào mùa hè phải chui vào bộ đồng phục phòng hộ cá nhân bí bức, thì thật chỉ muốn cởi phăng ra mà trần như nhộng. Nếu phải mặc cả bộ đồng phục giải phẫu làm việc trong căn phòng nóng nực dưới ánh nắng gay gắt suốt mười mấy tiếng thì chỉ sợ chẳng bác sĩ pháp y nào có thế sống sót ra khỏi phòng giải phẫu.
Chúng tôi không thể thay đổi thế giới, chỉ có thể cố gắng bảo vệ chính mình. Thế là chúng tôi không nói thêm gì nữa, cắm cúi giải phẫu tử thi.
Toàn thân nạn nhân bị lở loét trên diện rộng, xuất huyết dưới da, nhưng không có vết thương hở. Cổ và mũi nạn nhân không có dấu vết tổn thương do bị thắt cổ hay treo cổ, da đầu cũng lành lặn, nguyên vẹn. Kết quả khám nghiệm tử thi như vậy về cơ bản có thể loại trừ khả năng tử vong do chấn thương sọ não hoặc do ngạt thở cơ học.
Lưng thi thể có mảng lớn xuất huyết dưới da, nốt nông nốt sâu không đồng nhất. Vì chịu lực nhiều lần nên các nốt xuất huyết dưới da đã nhập thành một mảng lớn, thậm chí không nhìn rõ hình thái của công cụ gây sát thương, có chỗ bị thâm tím kèm theo tróc da. May mà lúc Đại Bảo lau rửa bụi bẩn bám trên thi thể, cậu ta sử dụng bông y tế thấm cồn. Lúc này, cồn đã làm bay bớt hơi nước trên bề mặt da, khiến vết thâm tím càng hiện lên rõ ràng hơn. Đây chính là tác dụng thần kỳ của cồn mà chúng tôi vẫn gọi đùa là “phép thuật nhiệm màu của cồn”.
Trên lưng và eo của nạn nhân, chúng tôi phát hiện mấy vết bầm song song, vết bầm song song còn được gọi là vết bầm đường ray. Loại vết thương mang tính đặc trưng này được hình thành do dùng vật sát thương hình gậy tròn đánh liên tục vào mô mềm. Khi bị đánh, mặt chịu lực bị đè xuống tức thì nên máu bên trong mao mạch nhanh chóng ứ đọng ở hai bên cạnh thành mạch khiến mao mạch hai bên chịu lực vỡ ra, gây xuất huyết dưới da, thể hiện là ở khu vực xuất huyết có một đường màu trắng ở giữa, hai bên là hai đường xuất huyết song song. Loại vết thương này phản ánh rõ ràng đặc trưng hình thái, đường kính, độ rộng hẹp của cây gậy gây sát thương.
Tôi đo khoảng cách giữa hai đường song song, chừng ba xăng-ti-mét, rồi nói: “Anh ta bị gậy hình tròn có đường kính chừng ba xăng-ti-mét đánh liên tục vào lưng gây ra vết thương kiểu này, tôi đoán có khả năng cái chết của anh ta liên quan đến điều này.”
Vì chưa giải phẫu thi thể nên tôi không dám khẳng định chắc như đinh đóng cột. Tôi thận trọng dùng dao mở khoang ngực bụng của nạn nhân. Vì tôi là bác sĩ giải phẫu chính nên liên tục nhắc nhở hai trợ thủ là Đại Bảo và Ninh Văn, yêu cầu họ giải phẫu lần lượt theo thứ tự, người khác đang làm thì đừng hấp tấp chen ngang. Vì tôi biết gần như tất cả các bác sĩ pháp y thao tác nhầm lẫn cứa vào tay đều là do họ theo đuổi hiệu suất, bác sĩ chính và bác sĩ phụ mổ hạ dao xuống cùng lúc gây ra hậu quả đó.
Giống như tôi nghĩ, nhìn bề ngoài thì các cơ quan nội tạng của nạn nhân không xuất hiện tình hình bất thường. Trong dạ dày và trong ruột đều trống rỗng. Tôi lấy một ít gửi đi làm xét nghiệm.
“Có lẽ nạn nhân đã không ăn gì tầm mười hai tiếng trở lên, nội tạng tôi sẽ gửi đến chỗ Chủ nhiệm Phương Tuấn Kiệt để tiến hành khám nghiệm bệnh lý học các mô, đặc biệt là phải xem thận của nạn nhân thật kỹ càng.” Tôi vừa nói vừa xâu kim chuẩn bị khâu thi thể lại.
“Đã giải phẫu khớp mu.” Đại Bảo nói, “Chắc hơn hai mươi tuổi rồi. Đợi tôi nấu xong sẽ xác định độ tuổi chính xác.”
“Tầng trên có phát hiện mới.” Trình Tử Nghiên bước vào phòng giải phẫu nói vậy, “Trưởng khoa Tần, các anh sắp xong chưa? Đã tìm ra nguyên nhân tử vong chưa?”
“Đừng lại gần, bệnh nhân bị nhiễm AIDS đấy!” Hàn Lượng muốn ngăn Trình Tử Nghiên lại nhưng cánh tay lại vô tình chạm vào ngực cô. Mặt Trình Tử Nghiên lập tức đỏ bừng, đầy vẻ ngượng ngùng.
“Này, anh bỏ ngay ý định tán tỉnh Tử Nghiên đi!” Trần Thi Vũ đứng chen vào giữa Hàn Lượng và Trình Tử Nghiên.
“Cô nói gì thế?” Hàn Lượng lắc đầu.
“Phát hiện thấy gì?” Tôi hỏi.
“Anh lên đó là biết.” Trình Tử Nghiên giơ tay ra hiệu mình khó có thể diễn đạt rõ ràng.
Tôi gật đầu, đưa kim cho Ninh Văn, vừa cởi trang phục phẫu thuật vừa nói: “Được rồi, để tôi lên đó. Nguyên nhân tử vong phải đợi kết quả khám nghiệm bệnh lý chỗ anh Phương mới đưa ra kết luận cuối cùng. Song theo kinh nghiệm của tôi thì cơ bản có thể khẳng định nạn nhân tử vong vì hội chứng vùi lấp.”
“Hội chứng vùi lấp ư?” Trình Tử Nghiên thắc mắc.
Tôi cười giải thích: “Hội chứng vùi lấp không hẳn là chỉ nạn nhân chết vì bị vùi lấp. Tên hội chứng này bắt nguồn từ vết thương bị đè ép trong quá trình chịu vùi lấp. Nếu bị vật thể quá to hoặc quá nặng đè, ép, đập vào người thì sẽ gây ra vết thương ở diện rộng trên da hoặc các mô nằm sâu dưới da. Đương nhiên nếu bị dùng khảo hình trong suốt thời gian dài thì cũng hình thành nên vết thương diện rộng kiểu này. vết thương đã có cùng tính chất thì cũng có cùng nguyên nhân gây tử vong, loại nguyên nhân tử vong này được chúng tôi gọi là hội chứng vùi lấp.”
“Xem ra sau lưng, mông và đùi nạn nhân đều có vết thương, rõ ràng đây không phải vết hoen tử thi.” Trình Tù Nghiên tò mò kiễng chân rướn người qua vai Hàn Lượng quan sát thi thể.
Tôi gật đầu nói: “Đúng vậy, vết thương và vết hoen tử thi tương đối dễ phân biệt, vết hoen tử thi không có bờ, mức độ đồng đều, nằm ở vị trí nhất định, đôi lúc ấn xuống, nó cũng không bị phai màu, còn vết thương thì không giống vậy.” Sau lưng nạn nhân đều là vết thương, vì anh ta ở trạng thái nằm nghiêng bên phải, cuộn tròn người cho nên vết hoen tử thi đều ở phía phải.
“Bao nhiêu vết thâm tím thế này cũng khá nghiêm trọng đấy!” Trình Tử Nghiên nói, “Có điều chỉ thâm tím trên diện rộng mà có thể dẫn đến tử vong sao?”
“Có thể chứ.” Tôi nói, “Nhưng không phải tuyệt đối, mỗi người có khả năng chịu đựng khác nhau. Sau khi mô mềm bị thâm tím thì một lượng lớn huyết tương sẽ thấm ra ngoài mạch máu, khiến dung lượng máu giảm mạnh, tế bào cơ bị tổn thương giải phóng ra lượng lớn myoglobin vào máu, đồng thời sau khi tế bào hồng cầu bị võ thì myoglobin xâm nhập vào huyết tương, sau khi được tiểu cầu thận lọc sẽ hình thành trụ niệu tại tiểu quản, đặc biệt là ?