Nhập đề
Có lẽ tôi sẽ quay về sống cùng muông thú
Bảo tàng khảo cổ, Cairo, Ai Cập
Một ngày tháng Mười, vào cuối những năm sáu mươi, một người Anh quốc có vóc dáng thiếu niên đẩy cửa phòng làm việc của tôi. Trời đã xế chiều, bảo tàng đã đóng cửa từ lâu, chỉ còn mình tôi với những nhân viên bảo vệ và tôi cũng đang chuẩn bị ra về. Bruce (tôi nghe không rõ tên của anh khi anh tự giới thiệu về mình) vừa mới từ bỏ công việc ở Sotheby’s để theo học ngành khảo cổ ở Edinburgh.
“Tôi tự nhủ chừng này tuổi rồi, mình có sai lầm không khi quyết định quay lại trường đại học?” Anh nói với tôi.
“Tại sao sai lầm?”
“Anh có bị trầm cảm không? Chán sống?”
“Tôi không nghĩ thế, nhưng tôi thấy đâu có gì liên quan.”
“Rất nhiều nhà khảo cổ muốn lôi chúng ta xuống mồ cùng với họ. Tôi tự hỏi đó có phải là một lời nguyền. Anh thật may khi ở đây, giữa những xác ướp này. Còn tôi, vùng trời của tôi chỉ quanh quẩn trong nước Anh thời La Mã, bị các thành lũy bao vây. Chán nản vô cùng. Tôi cảm thấy tù túng.”
Bruce giải thích với tôi rằng anh muốn quay trở lại Sudan nơi anh đã từng đến cách đây hai năm. Một người bạn làm báo ở Barcelona khuyên anh đến gặp tôi. Vợ mất sớm, tôi bắt đầu học khảo cổ và bằng một sự kì diệu nào đó, tôi tìm được một nơi thực tập ở Cairo. Bruce lớn tuổi hơn tôi, và cũng có vẻ liều lĩnh hơn. Tôi dẫn anh ấy tới quán cà phê Nubien trong một khách sạn ven bờ sông Nile.
“Anh có nghe nói đến dân tộc Beja?” Anh hỏi tôi.
“Chưa bao giờ.”
“Họ là những người du mục vùng Đông Sudan. Kipling ca tụng lòng dũng cảm của họ.”
“Sao anh lại quan tâm đến họ?”
“Họ sống y như cách ta đã từng sống. Những người Bédouin này ngồi không cả ngày, đàn ông chỉ làm những việc vô bổ. Đặc biệt hung hăng hiếu chiến, những chiến sĩ bậc nhất [1] , họ chẳng cầu sự tiện nghi vật chất nào.”
“Đó là điều tích cực đối với anh à?”
“Chúng ta đã đánh mất bí mật của cuộc sống. Họ thì vẫn hít thở bầu không khí nơi thiên đường. Anh biết Walt Whitman...”
“Có lẽ tôi sẽ quay về sống cùng muông thú...”
“Xuất sắc! Một người Pháp như anh làm tôi ngạc nhiên đó. Chúa Giê-su, đấng vĩ đại của chúng ta, sinh ra trong một cái chuồng, bên cạnh bò và lừa. Vậy nên Thiên Chúa giáo là một câu chuyện về bầy thú, về những con cừu lạc lối...”
Trước khi đặt chân đến Cairo, tôi là người chưa từng giở cuốn Kinh Thánh, đã mua một quyển kinh Cô-ran, đọc và ghi chú lại. Tôi đã nói với Bruce về tập quán du mục của đạo Hồi và hành hương như Jihad trên con đường của Chúa.
“Anh nói đúng,” Bruce cho biết. “Mahomet đã nói không ai trở thành nhà tiên tri nếu chưa là người chăn cừu.”
Đêm hôm ấy, tôi cho Bruce tá túc trong căn phòng của mình ở viện. Anh hỏi tôi liệu anh có thể lấy địa chỉ của tôi cho bạn bè muốn viết thư gửi anh trong lúc anh ở Sudan không. Sáng hôm sau, tôi dẫn anh đi dọc những con đường ở Cairo. Anh muốn mua bưu thiếp bằng được, sau đó vội vàng viết và gửi đi. Bruce không trở lại lấy thư từ của mình. Tôi không gặp lại anh và thế giới cũng thay đổi nhiều kể từ cuộc gặp ấy.
Trong nguyên tác sử dụng tiếng Anh: first class fighting men. Các chú thích trong sách đều của người dịch thêm vào.