← Quay lại trang sách

- 2 - THÁNG MƯỜI, NĂM 2003

“Ðến bội thực mất thôi!” – Alice nói, cô mở cửa bước vào văn phòng.

“Vâng, mấy cái bánh ngô đó to thật.” – Dan đi theo sau cười thích thú.

Alice cầm quyển sổ đánh nhẹ vào cánh tay cậu. Họ vừa trải qua một giờ đồng hồ tham gia buổi hội thảo. Dan – cậu sinh viên năm tư có vẻ ngoài theo phong cách của J.Crew – dáng người cao gầy nhưng có cơ bắp, mái tóc vàng cắt ngắn gọn gàng và nụ cười tỏa sáng, trông có phần kiêu ngạo. Xét vẻ bề ngoài thì cậu ta trông chẳng giống John chút nào nhưng ở cậu lại có sự tự tin và tính hài hước gợi cô nhớ đến hình ảnh của John khi anh cũng ở độ tuổi đó.

Sau một vài lần thất bại thì cuối cùng luận văn nghiên cứu của Dan đã thành công. Alice nhận ra cậu học trò của mình đang tận hưởng niềm vui chiến thắng sau thành công ấy nhưng cô hy vọng Dan sẽ coi đó là động lực để phát triển thành một đam mê bền vững. Khi nhìn thấy những thành công mà việc nghiên cứu mang lại thì bất kì ai cũng bị thu hút, nhưng điều quan trọng là có thể tiếp tục theo đuổi việc nghiên cứu khi kết quả không như mong đợi và tìm ra nguyên nhân của những trở ngại.

“Khi nào em đi Atlanta?” – Cô vừa hỏi vừa tìm kiếm bài nghiên cứu của Dan mà cô đã chỉnh sửa trong đống giấy tờ trên bàn.

“Tuần tới ạ.”

“Em có thể nộp bài cho cô trước khi đi, bài của em khá ổn rồi.”

“Không thể tin được là em sắp kết hôn. Trời ơi, em già rồi.”

Cô đã tìm thấy bài nghiên cứu và đưa cho Dan. “Thôi cho tôi xin, em chưa già đâu. Em mới chỉ đang ở ngưỡng bắt đầu của mọi thứ thôi.”

Dan ngồi xuống, cậu bắt đầu lật từng trang, đôi lông mày nhíu lại khi cậu nhìn thấy những dòng chữ màu đỏ viết nguệch ngoạc bên lề. Với kiến thức chuyên sâu và giàu kinh nghiệm, Alice đã giúp Dan hoàn thiện phần mở đầu của bài luận, bổ sung những chỗ hổng trong phần diễn giải, khiến cho bài luận trở thành một bức tranh gần gũi hơn, hợp lý hơn và chỉ ra cách để bài nghiên cứu của Dan có thể lý giải những khúc mắc, hợp ngành ngôn ngữ học cổ điển và hiện đại thành một thể thống nhất.

“Ý này của cô nghĩa là gì ạ?” – Dan hỏi, tay chỉ vào cụm chữ màu đỏ viết nguệch ngoạc.

“Những tác động khác nhau của sự tập trung chú ý và phân phối chú ý.”

“Những ý kiến này tham khảo từ đâu ạ?” – Cậu hỏi.

“À, à, ở đâu nhỉ?” – Cô tự hỏi mình, nhắm chặt mắt lại, cố nhớ lại tên tác giả và năm nghiên cứu. – “Em thấy chưa, chuyện này sẽ xảy ra khi em già đi đấy.”

“Thôi mà cô, cô cũng chưa già đâu ạ. Không sao đâu, em có thể tự tìm được.”

Một trong những gánh nặng lớn nhất đối với những ai nghiêm túc theo đuổi ngành khoa học đó là phải nhớ được năm công bố các nghiên cứu, nội dung chi tiết của các thí nghiệm và tên tác giả thực hiện công trình nghiên cứu đó. Alice thường khiến các sinh viên của mình và các tiến sĩ đang thực hiện nghiên cứu sinh phải kính phục vì có thể kể ra vanh vách và ngay lập tức ít nhất bảy nghiên cứu của một vấn đề cụ thể, cùng với tên của người thực hiện và năm công bố. Hầu hết các giảng viên trong khoa cô đều có khả năng này. Thực tế thì giữa họ tồn tại một cuộc đua ngầm xem trong đầu ai sở hữu nguồn dữ liệu hoàn chỉnh và cập nhật kiến thức linh hoạt nhất. Dải băng xanh dành cho người chiến thắng thường thuộc về Alice.

“Nye, MBB, năm 2000!” – Cô thốt lên.

“Em luôn rất nể phục vì khả năng đó của cô. Em nói thật đấy, làm sao mà cô có thể lưu giữ tất cả những thông tin đó trong đầu như vậy được?”

Cô mỉm cười trước sự ngưỡng mộ của cậu sinh viên. “Rồi em sẽ thấy, như tôi đã nói, em mới đang ở giai đoạn khởi đầu thôi.”

Dan lật xem những trang còn lại của bài luận văn, đôi lông mày cậu giãn ra. “Được rồi, em khá hài lòng về bài luận này. Cảm ơn cô rất nhiều, em sẽ đến gặp cô vào ngày mai.”

Cậu vội vàng ra về. Nhiệm vụ đã hoàn thành, Alice nhìn tờ giấy ghi chú màu vàng dán trên màn hình máy tính, trên đó có danh sách những việc cần làm.

Lớp học Nhận Thức

Hội thảo buổi trưa

Luận văn của Dan

Eric

Bữa tối sinh nhật

Cô thỏa mãn đánh một dấu check bên cạnh dòng chữ “Luận văn của Dan”.

Còn “Eric”? Là ý gì nhỉ?

Eric Wellman là trưởng khoa tâm lý học của trường Harvard. Cô định nói, định hỏi hay đưa cho anh ta xem thứ gì đó sao? Hay cô sắp có một cuộc họp với anh ta? Cô xem trên lịch. Ngày 11 tháng Mười – sinh nhật cô. Chẳng có gì liên quan đến Eric cả. Eric. Khó hiểu quá. Cô mở hộp thư đến của mình. Cũng không có gì từ Eric. Cô hi vọng đó không phải là vấn đề gì quá nghiêm trọng cần giải quyết ngay. Dù hơi khó chịu trong lòng, nhưng cô vẫn tự tin rằng mình sẽ hoàn thành các công việc trong danh sách, bất kể việc cần giải quyết với Eric là gì, cô ném tờ giấy nhớ vào thùng rác – đó là tờ thứ tư trong ngày, rồi cô lấy một tờ mới để viết.

Eric?

Gọi điện cho bác sĩ

Những rối loạn về trí nhớ cứ xuất hiện ngày càng nhiều trong cái đầu nhỏ xấu xí khiến cô bắt đầu lo lắng. Alice chần chừ chưa liên lạc với bác sĩ trị liệu vì cô nghĩ rằng một thời gian nữa mọi thứ sẽ ổn trở lại. Cô vẫn hy vọng sẽ gặp một ai đó đang rơi vào hoàn cảnh giống mình để nói với cô rằng việc này chỉ xảy ra trong thời gian ngắn và đây là điều hoàn toàn tự nhiên để cô không cần phải đi gặp bác sĩ nữa. Nhưng điều đó chẳng bao giờ xảy ra, bởi vì tất cả bạn bè và đồng nghiệp ở Harvard cùng tuổi với cô đều là nam giới. Cô thừa nhận rằng có lẽ đã đến lúc cô nên tìm đến những lời tư vấn về y khoa.

ALICE VÀ JOHN CÙNG NHAU ĐI BỘ từ khuôn viên trường đến nhà hàng Epulae ở quảng trường Inman. Vừa bước vào, Alice nhìn thấy con gái lớn Anna đang ngồi cùng Charlie – chồng của con bé. Bộ đồ vét màu xanh da trời hai đứa mặc thật ấn tượng, chiếc cravat màu vàng trơn là điểm nhấn cho bộ vét Charlie đang mặc, còn Anna là một chuỗi ngọc trai đơn. Hai đứa cùng làm việc cho một hãng luật lớn thứ ba ở Massachusetts được vài năm rồi, Anna làm ở lĩnh vực sở hữu trí tuệ còn Charlie chuyên giải quyết các vụ tranh chấp.

Nhìn ly Martini trên tay con gái và khuôn ngực vẫn ở cỡ B là Alice biết Anna chưa có thai. Con bé đã cố gắng trong suốt sáu tháng vừa rồi nhưng vẫn chưa có kết quả. Cũng giống như tất cả những thứ khác, càng khó đạt được Anna lại càng muốn. Alice đã khuyên con bé nên chờ một thời gian, không cần phải quá vội vàng để hoàn thành cột mốc quan trọng này trong cuộc đời. Anna chỉ mới hai mươi bảy tuổi, vừa kết hôn với Charlie hồi năm ngoái và mỗi tuần con bé phải làm việc tám mươi đến chín mươi giờ. Nhưng Anna không chấp nhận lý do đó, nó nói rằng tất cả những người phụ nữ đi làm khi cân nhắc đến vấn đề sinh con đều đưa ra kết luận cuối cùng rằng: Không bao giờ có thời điểm tốt nhất để thực hiện chuyện này.

Thật ra Alice lo lắng sự nghiệp của Anna sẽ bị ảnh hưởng vì chuyện gia đình. Trên con đường tiến thân trong sự nghiệp, Alice đã phải gặp rất nhiều khó khăn, không phải vì những trách nhiệm cứ lớn dần hay vì những thành tích cô đạt được trong ngành ngôn ngữ học không đủ thuyết phục mà vì những đứa con. Việc nôn nghén, thiếu máu và chứng tiền sản giật xảy ra trong hơn hai năm rưỡi khiến cô bị mất tập trung trong công việc và ảnh hưởng đến tốc độ phát triển sự nghiệp của mình. Hơn nữa, khi mang thai ba đứa con thì phải đánh đổi càng nhiều và tốn thời gian hơn so với bất cứ một công việc khẩn cấp nào ở khoa hay một sinh viên loại A nào mà cô đã từng gặp.

Nhiều lần cô đã sợ hãi khi chứng kiến các nữ đồng nghiệp vốn có một sự nghiệp đầy hứa hẹn đã bỏ lỡ hay thậm chí là phải thay đổi công việc chỉ vì có con. Cô nhớ lại quãng thời gian khó khăn khi nhìn John và những đồng nghiệp nam cùng trình độ nghiệp vụ vượt qua mình. Cô thường băn khoăn liệu sự nghiệp của anh có thể sống sót được sau ba lần sinh nở, cho con bú, nuôi con nhỏ, ngày qua ngày buồn chán hát mãi câu “Những chiếc bánh xe buýt quay đều, quay đều” và cả việc mỗi đêm chỉ được ngủ hai đến ba tiếng đồng hồ mà không bị đánh thức. Cô thực sự cảm thấy nghi ngờ việc đó.

Trong lúc họ ôm hôn nhau, trao cho nhau những cử chỉ hân hoan, chúc mừng sinh nhật thì một người phụ nữ mặc bộ đồ đen có mái tóc tẩy màu trắng tinh tiến về quầy bar chỗ họ đang ngồi.

“Tất cả các thành viên trong bữa tiệc của cô đều có mặt rồi chứ?” – Cô ta hỏi với nụ cười trên môi, nhưng nụ cười lại kéo dài quá mức nên trông có vẻ giả tạo.

“Vẫn chưa. Chúng tôi đang chờ thêm một người nữa” – Anna nói.

“Con đến rồi đây!” – Tom xuất hiện từ phía sau họ. – “Chúc mừng sinh nhật mẹ.”

Alice ôm hôn con trai rồi chợt nhận ra là cậu đến một mình.

“Chúng ta có cần chờ...?”

“Jill ạ? Không cần đâu mẹ, bọn con chia tay từ tháng trước rồi.”

“Em thay bạn gái nhiều đến mức mọi người không nhớ nổi tên của bọn họ nữa rồi” – Anna nói. – “Chúng ta sẽ giữ chỗ cho ai nữa đây?”

“Chưa cần đâu.” – Tom nói với Anna rồi quay sang người phụ nữ mặc đồ đen. – “Chúng tôi có mặt đông đủ rồi.”

Bình thường sau mỗi lần chia tay thì Tom sẽ mất khoảng sáu đến chín tháng để bắt đầu một mối quan hệ mới, nhưng chúng đều chẳng kéo dài được bao lâu. Thằng bé là một chàng trai thông minh, sôi nổi, chính là hình ảnh khi còn trẻ của bố nó, đang học năm thứ ba ngành Y tại Harvard và dự định trở thành một bác sĩ phẫu thuật chuyên khoa tim mạch. Trông nó ăn uống ngon lành. Thằng bé hài hước kể rằng tất cả các sinh viên y khoa và bác sĩ phẫu thuật nó biết đều ăn uống rất tệ, sống nhờ bánh rán, khoai tây chiên, máy bán hàng tự động và căng tin bệnh viện. Không một ai trong số họ có thời gian để tập thể dục, ngoại trừ những lúc leo cầu thang bộ thay vì đi thang máy. Cậu nói đùa rằng những kiến thức được học trong vài năm ít nhất cũng giúp họ có đủ khả năng để điều trị bệnh tim cho nhau.

Khi tất cả mọi người đã ổn định chỗ ngồi bên chiếc bàn hình bán nguyệt có đầy đủ đồ uống và món khai vị thì chủ đề câu chuyện dần chuyển sang thành viên không đến tham gia được.

“Lần cuối cùng Lydia tham gia một bữa tối cùng cả nhà là khi nào nhỉ?” – Anna hỏi.

“Con bé đã có mặt trong tiệc sinh nhật lần thứ hai mươi mốt của em.” – Tom nói.

“Đó là chuyện của gần năm năm trước rồi! Đó là lần gần nhất sao?” – Anna tiếp tục hỏi.

“Không, không thể nào.” – John không đồng ý nhưng không nói thêm gì.

“Con nghĩ đó là lần gần nhất.” – Tom khẳng định.

“Không phải. Ba năm trước con bé có tham dự buổi mừng sinh nhật tuổi năm mươi của bố các con ở nhà hàng Cape.” – Alice nói.

“Con bé đang làm gì vậy mẹ?” – Anna hỏi.

Anna rõ ràng rất vui vì Lydia không học đại học; con đường học vấn bị cắt ngang giữa chừng của Lydia đã giúp Anna bảo vệ vững chắc vị trí đứa con gái thông minh nhất, thành công nhất của nhà Howland. Anna khiến bố mẹ hài lòng bởi sự thông minh của mình và cũng là đứa con gái tuyệt vời nhất. Mặc dù Tom cũng rất thông minh nhưng Anna chưa bao giờ để ý nhiều đến thằng bé, có lẽ vì Tom là con trai. Thế rồi Lydia có mặt trong gia đình họ. Cả hai cô con gái đều thông minh nhưng trong khi Anna phải rất cố gắng mới đạt được những điểm A thì bảng thành tích của Lydia lại cực kì xuất sắc dù con bé chẳng cần cố gắng nhiều. Anna thật sự để tâm chuyện đó. Cả hai đều rất hiếu thắng và vô cùng độc lập nhưng Anna không phải là một người ưa mạo hiểm. Con bé có xu hướng theo đuổi những mục tiêu an toàn, nhiều lợi thế và chắc chắn phải kèm theo phần thưởng hữu hình.

“Lydia vẫn ổn.” – Alice trả lời.

“Thật không thể tin là con bé vẫn tiếp tục như vậy. Nó đã làm được cái gì chưa ạ?” – Anna hỏi.

“Năm ngoái, con bé diễn rất tuyệt trong vở kịch đó.” – John nói.

“Nó đang đi học.” – Alice nói thêm.

Khi nhắc tới điều ấy thì Alice cũng chợt nhớ ra rằng chính John là người đã giấu giếm cô chu cấp tiền cho con bé theo học một chương trình không bằng cấp. Tại sao cô lại có thể quên đi việc đó mà vẫn thoải mái nói chuyện với anh như vậy nhỉ? Cô tia một ánh nhìn đầy giận dữ về phía anh, chính xác là dừng lại trên khuôn mặt anh khiến anh hoàn toàn cảm nhận được điều đang diễn ra. Anh nhẹ nhàng lắc đầu rồi đưa tay xoa xoa lưng cô. Bây giờ không phải là lúc thích hợp để giận dữ. Cô sẽ nói chuyện này với anh sau, nếu như cô vẫn nhớ.

“Ồ, ít nhất thì con bé cũng đang làm gì đó.” – Anna nói có vẻ thỏa mãn vì mọi người dường như đều nhận ra vị trí hiện tại của những cô con gái nhà Howland.

“À, thí nghiệm thực hành của bố thế nào rồi?” – Tom hỏi.

John vươn người về phía trước và bắt đầu nói đến những thông tin nghiên cứu mới nhất của mình. Alice nhìn chồng và con trai, cả hai đều là những nhà sinh học và họ đều đang bị cuốn vào cuộc thảo luận phân tích, đều đang cố gắng gây ấn tượng với người kia về những điều mình biết. Nơi khóe mắt John có những đường chân chim thường xuất hiện khi anh cười nhưng ngay cả những lúc anh nghiêm túc nhất vẫn có thể nhìn thấy mờ mờ, lúc này khi anh đang say sưa nói về nghiên cứu của mình những nếp nhăn ấy trở nên thật sâu và thật sinh động, hai tay anh cũng phụ họa cho cuộc nói chuyện, trông như những chú rối đang biểu diễn trên sân khấu.

Cô rất thích nhìn anh như vậy. Ngày trước anh thường hào hứng kể cho cô nghe về các nghiên cứu của mình một cách chi tiết, nhưng bây giờ thì không. Cô luôn hiểu rõ về công việc của anh để có thể trao đổi với anh về chúng nhưng chưa bao giờ đi sâu vào chi tiết. Cô nhận ra những lần nói chuyện như thế giữa anh và cô quan trọng như thế nào khi ở cùng với Tom hoặc đồng nghiệp của John. Trước đây anh thường nói với cô tất cả mọi điều, còn cô thì luôn chăm chú lắng nghe. Cô băn khoăn không biết điều ấy đã thay đổi từ khi nào, ai là người không còn hứng thú làm vậy nữa, là anh không muốn nói hay là do cô không còn muốn nghe.

Món mực ống, hàu nướng sốt cua vùng Maine, salad rau arugula và bánh xếp nhân bí ngô đều rất tuyệt vời. Sau bữa tối mọi người cùng nhau hát vang bài “Chúc mừng sinh nhật” khiến các vị khách ở những bàn khác cũng hân hoan, vui mừng vỗ tay theo. Alice thổi ngọn nến cắm trên miếng bánh chocolate ấm áp. Mọi người cùng nhau nâng ly vang Veuve Clicquot trên tay, John nâng ly cao hơn một chút nói.

“Chúc mừng sinh nhật người vợ xinh đẹp và tuyệt vời của anh. Chúc mừng năm mươi năm tiếp theo của em!”

Họ cùng nhau cụng ly và uống rượu.

Alice nhìn chăm chú vào gương trong phòng vệ sinh. Hình ảnh người phụ nữ đã có tuổi ở trong gương không giống lắm với hình ảnh mà cô đã nghĩ về bản thân. Đôi mắt màu nâu vàng của cô trông có vẻ mệt mỏi dù vẫn được nghỉ ngơi rất tốt, làn da trông đã sạm hơn và không còn săn chắc như trước. Cô chắc chắn mình trông giống một phụ nữ hơn bốn mươi tuổi. Mặc dù không còn trẻ nhưng cô nghĩ mình chưa đến mức già nua. Gần đây, chứng đãng trí của tuổi tiền mãn kinh đáng ghét khiến cô nhận ra mình đã chuyển sang một giai đoạn khác của cuộc đời. Nếu không có nó thì cô đã luôn cảm thấy trẻ trung, mạnh mẽ và sung sức.

Cô nghĩ đến mẹ mình. Hai người trông rất giống nhau. Trong trí nhớ của cô hiện lên gương mặt lúc nào cũng nghiêm túc và chăm chú của bà, nó chỉ lốm đốm những vết tàn nhang ở mũi và hai gò má chứ không hề có nếp nhăn hay chảy xệ. Bà không sống được đủ lâu để có những thứ ấy trên gương mặt. Mẹ của Alice qua đời khi bà mới chỉ bốn mươi mốt tuổi. Anne – em gái của Alice bây giờ cũng bốn mươi tám. Alice đang ngồi cùng bàn ăn với chồng và các con mình, cô cố hình dung xem Anne trông như thế nào, nhưng cô không thể.

Khi đi vệ sinh cô lại nhìn thấy máu. Kỳ kinh của cô. Đương nhiên cô hiểu rằng trong giai đoạn đầu của thời kì tiền mãn kinh, chu kỳ kinh nguyệt sẽ không có qui luật, nghĩa là nó sẽ không đột nhiên hoàn toàn biến mất. Nhưng trong tâm trí cô lại cứ lởn vởn suy nghĩ rằng đó không phải giai đoạn tiền mãn kinh mà là một vấn đề nào khác đang tồn tại trong cô.

Ý chí của cô bị champagne và máu làm cho yếu đi rồi gục ngã. Cô bắt đầu òa khóc nức nở. Cô dần cảm thấy khó thở, không khí hít vào không đủ. Cô đã năm mươi tuổi và cô cảm thấy mình đang dần dần rơi vào tình trạng mất trí.

Có người gõ cửa.

“Mẹ ơi?” – Anna gọi. – “Mẹ không sao chứ?”