- 3 - THÁNG MƯỜI MỘT, NĂM 2003
Phòng khám của bác sĩ Tamara Moyer nằm ở tầng ba tòa cao ốc năm tầng phía tây quảng trường Harvard, gần nơi mà Alice bị lạc. Nơi đây vẫn vậy, phòng chờ và phòng khám được trang trí bằng những bức ảnh nghệ thuật của Ansel Adams, mấy tấm áp phích quảng cáo dược phẩm được dán trên dãy tủ kê tường màu xám bạc, chúng khiến Alice không còn những suy nghĩ tiêu cực. Moyer là bác sĩ riêng của Alice trong suốt hai mươi năm qua, họ chỉ gặp nhau khi Alice đến kì kiểm tra sức khỏe, chích ngừa, và cuộc gặp gần đây nhất là buổi chụp X quang kiểm tra ung thư vú.
“Điều gì khiến cô đến đây vậy Alice?” – Bác sĩ Moyer hỏi.
“Thời gian gần đây trí nhớ của tôi không được tốt, tôi nghĩ có thể là triệu chứng của thời kì mãn kinh. Sáu tháng liền tôi không có kinh nguyệt, nhưng mới tháng trước nó lại xuất hiện. Tôi nghĩ tốt hơn là mình nên đến gặp chị.”
“Chị thường quên những vấn đề gì?” – Bác sĩ Moyer vừa hỏi vừa cặm cụi ghi chép.
“Những cái tên, từ ngữ khi nói chuyện, nơi tôi để chiếc BlackBerry hay vì sao tôi lại ghi mấy thứ nào đó vào danh sách việc cần làm của mình.”
“Được rồi.”
Alice chăm chú nhìn vị bác sĩ của mình. Lời chia sẻ của cô dường như không tác động nhiều tới bà. Bác sĩ Moyer tiếp nhận các thông tin này như thể bà là vị linh mục đang lắng nghe một cậu bé tuổi mới lớn thổ lộ những suy nghĩ thiếu trong sáng dành cho cô bạn nào đó. Chắc hẳn mỗi ngày bà ấy đã phải nghe rất nhiều những lời than phiền như vậy. Alice suýt nữa thì thốt ra lời xin lỗi vì đã làm tốn thời gian của bác sĩ một cách ngớ ngẩn. Khi về già thì ai mà chẳng quên những chuyện như thế. Hơn nữa chứng mãn kinh cùng với chuyện cô cứ làm ba việc một lúc và suy nghĩ đến mười hai thứ khác một lần, vậy nên những sai sót trở nên nhỏ bé, vô hại, thậm chí là hợp lý. Ai mà chẳng căng thẳng. Ai mà chẳng có những điều mệt mỏi. Rồi ai cũng sẽ quên thứ gì đó.
“Tôi cũng mới bị lạc ở quảng trường Harvard. Tôi đã không biết mình đang ở đâu trong vài phút rồi sau đó mọi thứ lại quay trở về với tôi.”
Bác sĩ Moyer ngừng ghi các triệu chứng trên tờ đánh giá và nhìn thẳng vào Alice. Các câu hỏi liên tiếp được đặt ra.
“Chị có cảm thấy đau thắt ở lồng ngực không?”
“Không.”
“Chị có thấy nhức mỏi hay ngứa ngáy ở đâu không?”
“Không.”
“Có đau đầu hay chóng mặt không.”
“Không.”
“Tim chị có đập nhanh không?”
“Ừm, có, nhưng chỉ khi tôi bối rối thôi, kiểu như một liều adrenaline ức chế nỗi sợ. Tôi nhớ là cảm giác đó thật sự tuyệt, nhưng chỉ trước khi mọi chuyện diễn ra.”
“Còn chuyện gì khác xảy ra ngày hôm đó không.”
“Không, tôi chỉ vừa trở về từ Los Angeles.”
“Chị có gặp phải cơn nóng bừng nào không?”
“Không. Ừm, tôi biết rõ lúc đó bản thân bị mất phương hướng, nhưng tôi nghĩ chắc chỉ do tôi sợ thôi.”
“Được rồi. Chị ngủ được không?”
“Ổn.”
“Chị ngủ bao nhiêu tiếng mỗi đêm?”
“Năm tới sáu tiếng.”
“Thời gian ngủ có khác gì so với trước kia không?”
“Không.”
“Chị có khó ngủ không?”
“Không.”
“Có bị thức giấc giữa đêm không?”
“Tôi nghĩ là không.”
“Chị có thường đi ngủ đúng giờ không?”
“Thường là vậy. Trừ những lúc di chuyển công tác, chẳng hạn như thời gian vừa rồi.”
“Chị đi đến những nơi nào?”
“Trong vài tháng qua thì tôi đã đi California, Italy, New Orleans, Florida, New Jersey.”
“Chị có bị ốm sau những chuyến đi này không? Lên cơn sốt chẳng hạn?”
“Không có.”
“Chị có dùng thuốc, chất chống dị ứng, chất bổ sung, hay loại thuốc nào khác không?”
“Chỉ là vitamin tổng hợp thôi.”
“Có gặp tình trạng ợ chua không?”
“Không.”
“Có thay đổi cân nặng không?”
“Không.”
“Có triệu chứng đại tiện hoặc tiểu tiện ra máu không?”
“Không có.”
Bà ấy cứ liên tục đặt câu hỏi sau khi Alice vừa dứt câu trả lời, và chủ đề thì cứ chuyển từ chuyện nọ đến chuyện kia trước khi Alice có thời gian suy nghĩ lí do. Như thể cô đang ngồi trên chiếc tàu siêu tốc, mắt nhắm nghiền và không biết chuyện gì sẽ xảy ra phía trước.
“Chị có thấy lo lắng hay căng thẳng hơn bình thường không?”
“Chỉ những khi tôi bị quên điều gì đó thôi. Còn lại thì không.”
“Chị và chồng chị vẫn ổn chứ?”
“Ổn mà.”
“Chị có nghĩ mình đang có những cảm xúc tích cực?”
“Có chứ.”
“Chị có nghĩ mình bị trầm cảm không?”
“Không hề.”
Alice biết về bệnh trầm cảm. Cái chết của mẹ và chị gái lúc cô mới mười tám tuổi đã khiến cô rơi vào tình trạng chán ăn và mất ngủ trầm trọng, cô cũng không cảm thấy hứng thú với mọi thứ xung quanh. Triệu chứng này đã kéo dài suốt một năm, và kể từ lúc đó cô chưa bao giờ trải qua bất cứ chuyện tương tự nào. Hai chuyện này hoàn toàn khác nhau. Đây không phải lúc dùng thuốc Prozac.
“Chị có uống rượu không?”
“Chỉ uống xã giao thôi.”
“Uống nhiều không?”
“Một hoặc hai ly vang vào bữa tối, có khi nhiều hơn vào những dịp đặc biệt.”
“Ma túy thì sao?”
“Không.”
Bác sĩ Moyer nhìn Alice đầy suy tư. Bà gõ chiếc bút lên cuốn sổ và chăm chú đọc. Alice không tin là câu trả lời nằm trên mấy tờ giấy đó.
“Vậy có phải là tôi đang trong thời kỳ mãn kinh?” – Cô hỏi trong khi cả hai tay bấu vào lớp ghế da.
“Có thể là như vậy. Chúng ta hãy làm xét nghiệm FSH để biết chắc hơn về điều này, nhưng tất cả dấu hiệu trên cho thấy cô đang trong thời kỳ mãn kinh. Tuổi trung bình bắt đầu từ 48 đến 52 tuổi và cô đang ở giai đoạn này. Cô có thể sẽ lại gặp những triệu chứng này trong thời gian tới. Điều này hoàn toàn bình thường.”
“Liệu pháp thay thế estrogen có giúp ích cho việc cải thiện trí nhớ không?”
“Chúng tôi không dùng liệu pháp này cho phụ nữ, trừ khi họ bị rối loạn giấc ngủ, hoặc rơi vào cảm giác nóng bừng bởi chứng rối loạn vận mạch hay khi họ mắc bệnh loãng xương. Tôi không nghĩ vấn đề trí nhớ của cô là do đến kì mãn kinh.”
Máu dồn lên não Alice. Đây chính xác là những gì cô sợ hãi và chỉ mới dám nghĩ tới. Nhưng khi đã có ý kiến chuyên môn, lời an ủi an toàn của cô tan vỡ. Hẳn là có gì đó đã sai, và cô không chắc mình sẵn sàng để nghe tiếp. Cô đang đấu tranh với những thanh âm dữ dội trong đầu, những tiếng cầu xin cô hoặc là ngất hẳn đi hoặc là biến khỏi cái phòng khám chết tiệt này ngay lập tức.
“Tại sao không chứ?”
“Vào thời kì mãn kinh, chứng mất ngủ trầm trọng sẽ xuất hiện và là nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy giảm trí nhớ, mất phương hướng. Một số phụ nữ không xử lý công việc tốt vì họ bị thiếu ngủ. Có thể chị đã quên là mình bị mất ngủ. Chị nghĩ kỹ xem có phải vì lịch trình làm việc và sự thay đổi múi giờ, hay chị đã lo lắng chuyện gì đó suốt đêm mà không ngủ đủ giấc.”
Alice nghĩ lại những lần cô bị mất tập trung vì thiếu ngủ. Tinh thần của cô rơi vào trạng thái bất ổn trong những tuần cuối cùng của thai kì, khi mấy đứa nhóc chào đời, hay mỗi khi đến hạn chót của một vấn đề quan trọng. Tuy nhiên, lần bị lạc ở quảng trường Harvard lại không nằm trong những trường hợp đó.
“Có thể là như vậy. Tôi cần phải quan tâm đến giấc ngủ nhiều hơn vì bây giờ tôi đã lớn tuổi hay vì tôi đang ở thời kì mãn kinh?”
“Không. Tôi không nghĩ thiếu ngủ là vấn đề chính.”
“Vậy nếu không phải do thiếu ngủ thì điều gì mới là vấn đề?” – Cô hỏi, giọng nói bắt đầu mất bình tĩnh và không còn tự tin.
“Ừ, tôi đặc biệt lo ngại với triệu chứng mất phương hướng. Tôi không nghĩ nó có liên quan đến thời kì tiền mãn kinh. Có lẽ chúng ta nên làm một số xét nghiệm. Tôi sẽ cho cô làm xét nghiệm máu, chụp nhũ ảnh, đo mật độ xương và chụp MRI cho não.”
Chẳng lẽ là u não. Alice không muốn nghĩ tới điều đó. Cô bắt đầu tưởng tượng ra hình ảnh của một con dã thú đang dần tiến về phía cô, khiến cô lại rơi vào trạng thái hoang mang lo sợ.
“Nếu chị không nghĩ do tai biến mạch máu não thì xét nghiệm MRI làm gì?”
“Việc tìm ra nguyên nhân thật sự sẽ dễ dàng hơn nếu loại trừ được những trường hợp này. Chị hãy gặp tôi sau khi lên lịch xét nghiệm MRI, rồi chúng ta sẽ giải quyết mọi thứ.”
Rõ ràng là bác sĩ Moyer đã né tránh không trả lời trực tiếp câu hỏi của cô, nhưng Alice cũng đã không chia sẻ với bác sĩ về ý nghĩ khối u não mà cô đang băn khoăn trong đầu. Có lẽ cả hai cần chờ đợi kết quả cuối cùng sau khi tiến hành các xét nghiệm.
Khoa tâm lý học, xã hội học, nhân học đều thuộc tòa nhà William James Hall nằm ngay bên ngoài Harvard Yard trên đường Kirkland – nơi mà các sinh viên gọi tắt với cái tên là Siberia. Tuy nhiên, vị trí không phải là yếu tố nổi bật nhất khiến nó tách biệt khỏi khuôn viên chính của Harvard. Harvard Yard là nơi tập trung những tòa nhà có kiến trúc trang trọng, cổ điển, các cư xá dành cho sinh viên năm nhất, cũng có cả các lớp Toán, Sử và Tiếng Anh ở đây. William James Hall không giống như vậy, nó thường khiến người ta liên tưởng đến một nhà để xe. Nơi này không có thức cột Doric hay Corinthian, không xây gạch đỏ, không có kính màu Tiffany, không có sảnh lớn, không hiện hữu bất kỳ chi tiết vật lý nào có sự liên kết rõ ràng hay tinh tế với trụ sở chính. Đó là một tòa nhà cao 576m, với màu be (xám tro) nhàm chán, rất có thể là nguồn cảm hứng từ chiếc hộp của B. F. Skinner. Không mấy ngạc nhiên khi nó không nằm trong chuyến tham quan của sinh viên hay lịch trình các hoạt động tại Harvard vào bất kể mùa nào trong năm.
Quang cảnh xung quanh và các văn phòng trong William James Hall đều không có gì nổi bật, nếu không muốn nói là quá bình thường. Alice ngồi uống trà tại tầng mười, cô đang thư giãn và ngắm vẻ đẹp của sông Charles, khu Boston Back Bay từ khung cửa sổ lớn hướng về phía đông nam. Nơi đây đã thu hút nhiều họa sĩ và nhiếp ảnh gia tái hiện lại bằng tranh sơn dầu, màu nước hay phim ảnh và có thể được lộng kính treo tường ở bất kỳ tòa văn phòng nào tại Boston.
Alice cho rằng những ai có thể thường xuyên được quan sát phiên bản thật của vùng đất này quả là may mắn. Mỗi ngày hoặc mỗi tháng qua đi, khung cảnh bên ngoài khung cửa đều luôn sống động và đem đến những điều thú vị cho người thưởng thức.
Trong buổi sáng tháng mười một đầy nắng, Alice lại ngồi ngắm nhìn Boston từ tòa nhà William James Hall, cô cảm nhận được mùa thu tỏa ánh mặt trời lấp lánh như champagne đang sủi bọt trong chiếc ly xanh da trời nhạt màu của tòa nhà John Hancock, vài mái chèo lướt nhẹ trên dòng sông Charles lấp lánh ánh bạc, hướng về phía Bảo tàng Khoa học như thể chúng được kéo bởi một sợi dây trong cuộc thí nghiệm về sự chuyển động.
Khung cảnh này khiến cô suy nghĩ tích cực hơn về cuộc sống bên ngoài Harvard. Đối lập với bầu trời tối sầm tại công viên Fenway là ánh đèn trắng đỏ nhấp nháy của các biển hiệu CITGO, hình ảnh đó tác động mạnh vào hệ thần kinh của cô, giống như tiếng chuông đột ngột của chiếc đồng hồ báo thức, kéo cô thoát khỏi cơn mộng mị xoay quanh những tham vọng và nghĩa vụ lặp đi lặp lại mỗi ngày.
Nhiều năm trước khi cô còn là giảng viên chính thức, văn phòng của cô nằm trong tòa nhà William James Hall, căn phòng rất nhỏ, không có cửa sổ. Alice thiếu tiếp xúc với môi trường bên ngoài bốn bức tường màu xám tro, thậm chí có những lúc Alice làm việc đến tận tối khuya mà không hề hay biết. Nhiều khi đến cuối ngày cô chết đứng khi phát hiện ra rằng một trận gió Đông Bắc đã chôn vùi Cambridge dưới lớp tuyết dày hơn 30 cm và những người ít chuyên tâm vào công việc cũng như những giảng viên ở các văn phòng có cửa sổ đã rời William James Hall để đi mua bánh mì, sữa, giấy vệ sinh hay về nhà cả rồi.
Nhưng điều bây giờ Alice cần làm là ngưng nhìn chằm chằm ra bên ngoài cửa sổ. Vào buổi chiều cô có cuộc họp thường niên với Hiệp hội Tâm lý học ở Chicago và trước đó cô còn phải giải quyết một tấn các việc khác nữa. Cô nhìn qua danh sách công việc của mình.
Bài đánh giá Tạp chí Nature Neuroscience ✓
Họp phòng ban ✓
Gặp TA ✓
Lớp Triết học
Hoàn thành áp phích cho buổi hội nghị và chạy chương trình.
Chuyến bay
Cô uống nốt ngụm trà đá cuối cùng và bắt đầu nghiên cứu tập bài giảng. Bài giảng hôm nay chủ yếu liên quan đến ngữ nghĩa học, là chuyên ngành thứ ba trong sáu loại ngành của ngôn ngữ học, đây là loạt tiết học ưa thích của cô trong cả khóa. Dù đã giảng dạy suốt hai mươi lăm năm nhưng Alice vẫn luôn dành ra một giờ đồng hồ để chuẩn bị trước khi đến lớp.
Dĩ nhiên, cho đến thời điểm hiện tại trong sự nghiệp giảng dạy của mình, cô có thể cung cấp 75% kiến thức của bất kì bài giảng mà không cần suy nghĩ về chúng. Nhưng 25% còn lại phụ thuộc vào sự hiểu biết, kỹ năng tư duy sáng tạo và quan trọng là các ý rút ra từ những tranh luận về những thứ cô đang tìm hiểu trong lĩnh vực này. Và Alice đã sử dụng thời gian trước khi đến lớp một cách rất hợp lý để chỉnh sửa, trau chuốt từng chi tiết cho bài giảng mới của mình. Tất cả những việc này luôn thúc đẩy cô, làm cô càng ngày càng đam mê hơn với công việc giảng dạy và có tinh thần trách nhiệm hơn trong việc đến lớp.
Các giảng viên ở Harvard chú trọng vào hoạt động nghiên cứu nên hầu như cả sinh viên và giám hiệu rất ít khi quan tâm tới chất lượng bài giảng. Riêng với Alice, cô đặt nhiều tâm huyết vào bài giảng bởi cô có niềm tin rằng đây là nghĩa vụ cũng như cơ hội để truyền cảm hứng cho những thế hệ kế tiếp theo học lĩnh vực này, hay chí ít cũng vì mong vị lãnh đạo tiếp theo sẽ không có tư-tưởng-tuyệt-vời là thay Tâm lý học bằng Khoa học Chính trị. Thêm nữa, chỉ đơn giản vì cô thích giảng dạy mà thôi.
Khi đã chuẩn bị xong cho buổi lên lớp, cô mới kiểm tra hòm thư của mình.
Alice,
Chúng tôi vẫn đang đợi 3 trang trình chiếu của cô để thêm vào buổi nói chuyện của Michael: một sơ đồ về tìm kiếm từ ngữ, một mẫu phim hoạt hình ngôn ngữ, và một văn bản. Thứ Năm lúc 1 giờ mới diễn ra buổi nói chuyện, nhưng tốt nhất là anh ấy nên cho các trang trình chiếu của cô vào trong bài thuyết trình càng sớm càng tốt, để đảm bảo nội dung ổn và không vượt quá thời gian cho phép. Cô có thể gửi chúng qua email cho tôi hoặc Michael.
Chúng tôi đang ở Hyatt. Hẹn gặp cô tại Chicago.
Trân trọng, Eric Greenberg
Trong đầu Alice như có một chiếc bóng đèn nguội lạnh và cũ kỹ chợt lóe sáng. Đó là cái tên Eric bí ẩn trong danh sách những việc cần làm của cô hồi tháng trước. Có nghĩa là không phải Eric Wellman. Cái tên ngay lập tức nhắc cô gửi email những trang trình chiếu ấy cho Eric Greenberg, một đồng nghiệp cũ ở Harvard hiện đang làm giáo sư khoa Thần kinh ở Princeton. Alice và Dan đã cùng hoàn thành ba trang trình chiếu mô tả một thí nghiệm nhanh mà Dan và Eric cộng tác trong phần nghiên cứu hậu tiến sĩ của Michael, nó được đưa vào bài thuyết trình của Michael ở buổi Hội thảo Tâm lý học. Alice ngay lập tức gửi email các trang trình chiếu cùng với lời xin lỗi chân thành nhất đến Eric. May thay, anh vẫn còn nhiều thời gian để nhận chúng nên không có gì đáng lo ngại.
CŨNG NHƯ MỌI THỨ KHÁC Ở HARVARD, khán phòng dành cho khóa học nhận thức của Alice lớn quá mức cần thiết. Những chiếc ghế bọc vải màu xanh bố trí như một đấu trường có hàng trăm chỗ ngồi, nhiều hơn hẳn số sinh viên theo học trong lớp. Cả một trung tâm nghe nhìn công nghệ cao ở phía cuối phòng, và một màn hình máy chiếu to như ở các rạp chiếu phim. Trong lúc ba người đàn ông loay hoay cắm đủ thứ dây cáp vào máy tính của Alice và kiểm tra âm thanh, ánh sáng, đám sinh viên rảo bước đi vào. Alice mở thư mục “Lớp Ngôn ngữ học” trên máy tính xách tay của cô.
Trong đó chứa sáu tệp: “Lĩnh hội ngôn ngữ”, “Cú pháp học,” “Ngữ nghĩa học,” “Nhận thức học”, “Mô hình hóa” và “Bệnh lý học”. Alice đọc các tiêu đề lần nữa. Cô không nhớ được hôm nay cô phải giảng phần nào. Cô vừa mới dành thời gian để nhìn qua các chủ đề này cách đây không lâu mà giờ không thể nhớ nổi. Chúng đều trông quen thuộc đối với cô, nhưng không có môn nào ấn tượng hơn môn nào.
Kể từ khi gặp Bác sĩ Moyer, mỗi khi Alice quên gì đó, cô lại có linh cảm xấu. Không giống như việc cô quên chỗ cô để chiếc sạc điện thoại BlackBerry hay chỗ John để kính, chuyện này không hề bình thường. Bằng một giọng ngập ngừng đầy đau đớn, cô bắt đầu tự nói với chính mình rằng có thể cô bị một khối u não. Cô cũng tự nhủ không được làm John lo lắng hay hoảng sợ cho tới khi nghe thông báo chi tiết hơn từ bác sĩ Moyer. Không may là cô phải đợi đến tuần sau, cũng là khi Hội thảo Tâm lý học kết thúc.
Quyết tâm vượt qua thời gian khó khăn này, cô hít một hơi thật sâu, thở ra đầy tuyệt vọng. Mặc dù cô không nhớ chủ đề của bài giảng ngày hôm nay, nhưng cô vẫn nhớ các học viên của mình.
“Có ai cho tôi biết giáo trình hôm nay nói về điều gì không?” – Alice hỏi cả lớp.
Vài sinh viên cất tiếng không đều, hợp thành âm thanh “Ngữ nghĩa”.
Cô đã dự đoán chuẩn xác về việc ít nhất có vài sinh viên sẽ chớp lấy cơ hội thể hiện sự hiểu biết của mình. Cô cũng chẳng lo họ sẽ khiếp sợ hay cảm thấy lạ lùng khi cô không biết chủ đề của tiết học hôm nay. Luôn tồn tại một khoảng cách lớn vô hình về tuổi tác, kiến thức và năng lượng giữa các sinh viên và giáo sư.
Hơn nữa, trong suốt học kỳ, các sinh viên đã thật sự ấn tượng bởi khả năng giảng dạy và sức ảnh hưởng của cô đối với khóa học Ngữ văn. Nếu có ai đó phát hiện ra điều gì bất thường thì họ có lẽ sẽ nghĩ rằng cô đã quá chuyên tâm cho các phần học khác đến mức không có thời gian để lướt qua giáo trình Tâm lý học trước khi đến lớp. Chỉ một vài người biết cô đã dành những phút cuối cùng để tập trung hoàn toàn cho phần ngữ nghĩa.
BUỔI SÁNG NẮNG ẤM ĐÃ CHUYỂN SANG BUỔI ĐÊM đầy mây mù và sương lạnh, giống như một kiểu hẹn hò với mùa đông. Một cơn mưa nặng hạt đêm hôm trước đã làm rụng hết những chiếc lá còn sót lại trên cành, chỉ còn những thân cây trơ trụi, trông quá hợp cảnh với tiết trời mùa đông. Tận hưởng sự ấm áp trong chiếc áo lông cừu, Alice dành thời gian đi bộ về nhà, thưởng thức không khí mùa thu lạnh giá và âm thanh rộn rã từ bước chân của cô như xuyên qua tầng tầng lớp lớp lá.
Đèn trong nhà đã được bật, túi và giày của John để ở chiếc bàn cạnh cửa.
“Anh ơi? Em về rồi” – Alice lên tiếng.
John dừng nghiên cứu bài giảng và quay lại nhìn cô chằm chằm, anh bối rối và không biết nói gì. Alice nhìn lại và chờ đợi, cảm thấy lo lắng rằng sắp có gì đó khủng khiếp. Đầu óc cô nghĩ ngay đến con mình. Cô vẫn đứng ở cửa, chuẩn bị tinh thần cho tin tức khủng khiếp đó.
“Em không phải đang ở Chicago sao?”
“À, ALICE, MỌI XÉT NGHIỆM MÁU CỦA CÔ BÌNH THƯỜNG, và MRI của cô cũng tốt” – bác sĩ Moyer nói. – “Chúng ta có thể làm một trong hai chuyện. Chúng ta có thể chờ đợi xem mọi thứ thế nào, xem xét giấc ngủ hay hành động của cô trong vòng ba tháng, hoặc...”
“Tôi muốn gặp một bác sĩ thần kinh.”