
Vẫn Là Alice
Tổng số chương: 27
Tưởng nhớ Angie
Dành tặng Alena
*Khoảng hơn một năm trước, những tế bào thần kinh trong đầu cô, gần tai, đã bị chèn ép đến chết, quá trình ấy xảy ra lặng lẽ đến mức cô chẳng thể nhận ra. Nhiều thứ đã chứng minh mọi bất ổn âm thầm bắt đầu khi các tế bào tự vỡ phá hủy hệ thần kinh. Thế nhưng dù đó là một phân tử lỗi hay các tế bào tự hủy thì chúng cũng không thể cảnh báo cho cô biết về điều gì xảy ra trước khi chúng chết.
* THÁNG CHÍN, NĂM 2003Alice ngồi trước bàn làm việc trong phòng ngủ nhưng cô bị phân tâm bởi tiếng chân John chạy lăng xăng từ phòng này sang phòng khác dưới tầng một. Cô phải hoàn thành bài bình duyệt nộp cho Tạp chí Tâm lý học nhận thức trước khi lên máy bay, vậy mà cô đã đọc cùng một câu đến ba lần vẫn chưa hiểu được nó. Đồng hồ báo thức đang chỉ 7 giờ 30, có lẽ nó chạy nhanh mười phút. Cô biết điều đó là nhờ ước lượng thời gian và dựa vào âm thanh của chồng cô khi anh đang cố gắng tìm thứ gì đó trước khi đi làm. Cô vừa gõ cây bút đỏ lên môi dưới vừa nhìn những con số trên đồng hồ, lắng nghe tiếng gọi mà cô biết là sẽ sớm xuất hiện.
“Ali?”
Cô đặt cây bút xuống mặt bàn rồi thở dài. Đi xuống tầng dưới, cô thấy anh đang quì trong phòng khách, tay lần mò bên dưới những chiếc gối ở ghế sofa.
“Anh tìm chìa khóa hả?” – Cô hỏi.
“Mắt kính! Xin em đừng nói gì cả, anh sắp muộn rồi.”
Cô dõi theo ánh mắt vội vàng của anh khi nhìn lên mặt lò sưởi, ở đó có chiếc đồng hồ cổ giá trị Waltham, đang điểm 8 giờ. Tốt hơn hết là anh không nên tin vào nó. Mấy cái đồng hồ trong nhà này hiếm khi chạy đúng giờ. Alice đã từng bị lừa nhiều lần bởi mấy cái mặt trông cực kì thành thực đó, và từ lâu lắm rồi cô đã rút ra kết luận rằng chỉ có thể tin vào đồng hồ đeo tay của mình mà thôi. Chắc chắn là thế vì lúc đi vào trong bếp cái lò vi sóng mới chỉ báo 6 giờ 52.
Cô nhìn lên mặt bàn bếp bằng đá granite nhẵn nhụi, sạch bóng và thấy cặp kính đang nằm cạnh chiếc đĩa chất đầy những bức thư chưa mở. Không bị khuất lấp bởi vật gì khi nhìn từ đây sang! Tại sao chồng cô, một người thông minh như thế, một nhà khoa học, lại không nhìn thấy mấy thứ ở ngay trước mắt mình như vậy nhỉ?
Đương nhiên, nhiều món đồ của cô không biết bằng cách nào cũng lọt vào những góc nhỏ tinh quái như vậy. Nhưng cô không bao giờ nói cho anh biết, và cũng không nhờ anh tìm hộ mình. Thật may là John không biết, mới mấy hôm trước, cô đã phải lục tung cả nhà, rồi đến phòng làm việc để tìm dây sạc BlackBerry của mình. Cuối cùng cô phải đi mua một cái mới, để rồi ngay tối hôm đó cô thấy cục sạc ấy đang cắm ở ổ điện ngay cạnh giường, nơi mà lẽ ra cô nên xem xét đầu tiên mới phải. Cô nghĩ tất cả những điều đó xảy ra với hai vợ chồng là do công việc chồng chất khiến họ bận tối mắt. Và vì họ đang già đi nữa.
Anh đứng ở cửa chính, nhìn vào cặp kính trên tay cô chứ không nhìn cô.
“Lần sau, anh hãy giả vờ mình là một người phụ nữ khi muốn tìm thứ gì đó nhé” – Alice mỉm cười và nói.
“Anh sẽ mặc một cái váy của em. Ali, xin em đấy, anh trễ thật rồi.”
“Cái lò vi sóng bảo là anh vẫn còn cả tấn thời gian” – cô nói và đưa kính cho anh.
“Cảm ơn em.”
Anh nhận lấy cặp kính như một vận động viên chạy tiếp sức nhận lấy cây gậy trong cuộc đua rồi đi thẳng ra cửa.
“Thứ bảy này em ở nhà, anh cũng vậy chứ?” – Cô nói với theo sau khi bước cùng anh xuống hành lang.
“Anh không biết, thứ bảy này anh có rất nhiều việc phải làm ở phòng thí nghiệm.”
Anh ấy cầm lấy túi xách, điện thoại, và chìa khóa trên chiếc bàn ở phòng khách.
“Chúc em có một chuyến đi bình an, ôm và hôn Lydia giúp anh. Và cố gắng đừng cãi nhau với con bé.” – John nói.
Cô bắt gặp hình ảnh của mình và anh trong chiếc gương đặt gần cửa ra vào – một sự khác biệt lớn, người đàn ông dáng cao với mái tóc nâu lốm đốm sợi bạc và đeo kính; một người phụ nữ nhỏ nhắn, tóc xoăn, đang khoanh tay trước ngực, mỗi người đều sẵn sàng lao vào một cuộc tranh luận không hồi kết như mọi khi. Cô nghiến răng và nuốt nước bọt, cố gắng để không sa vào cuộc tranh luận này.
“Lâu rồi chúng ta chưa được ở bên nhau. Anh cố gắng về nhà được không?” – Cô hỏi.
“Anh biết rồi, anh sẽ cố.”
Anh hôn cô, và mặc dù đang rất vội, anh vẫn cố nán lại để kéo dài nụ hôn trong thoáng chốc. Nếu cô không hiểu anh, cô có thể sẽ nghĩ đó là một nụ hôn lãng mạn. Có thể cô đã tràn đầy hi vọng, cho nụ hôn đó có nghĩa là anh yêu em, anh sẽ nhớ em rất nhiều. Nhưng nhìn cái cách anh vội vàng lao xuống đường, cô chắc chắn nụ hôn đó của anh có nghĩa là: Anh yêu em, nhưng đừng giận anh khi anh vắng mặt ở nhà vào thứ bảy này.
Họ đã từng cùng nhau đi bộ trong sân trường Đại học Harvard mỗi sáng. Trong số tất cả những điều khiến cô yêu thích công việc đang làm như văn phòng chỉ cách nhà khoảng một dặm, dạy cùng một trường với chồng, thì việc hàng ngày đi làm cùng anh là điều cô thích nhất. Họ luôn dừng ở cửa hàng Jerri’s – mua một cốc café đen cho anh, một cốc trà chanh cho cô, nóng hay đá tùy theo từng mùa – và hai người sẽ tiếp tục đi đến khuôn viên trường Harvard, trò chuyện về những tay nghiên cứu, các lớp học, về những vấn đề ở khoa của mỗi người, về những đứa con của họ, hoặc kế hoạch cho buổi tối. Khi mới kết hôn, họ thậm chí còn nắm tay nhau đi. Cô thoải mái tận hưởng những buổi sáng riêng tư cùng anh, trước khi cả hai lại rơi vào vòng xoáy của công việc hằng ngày, của những tham vọng khiến họ mệt mỏi và kiệt sức.
Nhưng thời gian gần đây, họ hay phải đi bộ quanh trường Harvard một mình. Alice có nhiều chuyến công tác trong suốt mùa hè vừa rồi, cô phải tham dự những buổi hội thảo về tâm lý học ở Rome, New Orleans và Miami, cô còn tham gia vào hội đồng đánh giá luận án ở Princeton. Trước đó vào mùa xuân, tế bào mà John nuôi cấy cần phải được chăm sóc làm vệ sinh đúng vào khoảng giờ đó mỗi buổi sáng, nhưng anh lại không tin tưởng bất cứ sinh viên nào có thể làm đúng yêu cầu, nên anh tự mình làm. Cô không nhớ chuyện gì đã xảy ra vào mùa xuân năm ngoái, nhưng cô nhớ lần nào lý do của họ cũng chính đáng và chỉ là tạm thời.
Cô quay trở lại với đống giấy tờ trên bàn, nhưng vẫn bị phân tâm, bây giờ là vì sự tiếc nuối bởi cô đã không tranh luận thêm với John về chuyện của cô con gái út, Lydia. Anh sẽ chết nếu đứng về phía cô một lần sao? Cô cố gắng lướt qua phần tài liệu còn lại, đây không phải tác phong làm việc thường ngày của cô, nhưng là điều cô buộc phải làm, hiện tại tâm trạng cô không tốt và không có đủ thời gian. Phần nhận xét và gợi ý của cô đã hoàn thành, cô cho vào phong bì niêm lại, trong lòng cảm thấy áy náy vì cô biết có thể mình đã bỏ qua một vài lỗi trong phần thiết kế của nghiên cứu hoặc phần giải thích, cô thầm trách John đã khiến cô không tập trung vào công việc của mình.
Cô sắp xếp vali, đồ đạc trong chuyến đi lần trước vẫn còn nguyên. Cô mong những tháng tiếp theo mình sẽ ít phải đi công tác hơn. Cô chỉ mới nhận lời một vài buổi thỉnh giảng trong học kì mùa thu, và hầu hết cô đều lên lịch vào thứ sáu, những ngày cô không phải dạy. Chẳng hạn như vào ngày mai. Ngày mai cô sẽ là diễn giả mở màn cho một chuỗi các buổi hội thảo chuyên đề về mảng tâm lý học nhận thức ở Stanford. Và sau đó cô sẽ đi gặp Lydia. Cô sẽ cố không cãi nhau với con bé, nhưng cũng chẳng thể nói trước được điều gì.
ALICE DỄ DÀNG TÌM ĐƯỢC ĐƯỜNG ĐI ĐẾN Hội trường Cordura của Đại học Stanford nằm ở góc khuôn viên giữa khu Drive West và Panama Drive. Tòa nhà màu trắng, mái lợp ngói đất nung, cảnh quan xanh mát, trong mắt một người đến từ khu Bờ Đông như cô thì nơi này trông giống một khách sạn nghỉ dưỡng vùng Caribbean hơn là một giảng đường. Cô đến khá sớm nhưng vẫn đi thẳng vào trong, định tranh thủ thời gian để xem lại tài liệu.
Thật bất ngờ, khi cô bước vào giảng đường đã kín người. Họ đang hào hứng vây quanh bàn tiệc, lao vào thức ăn trên bàn như lũ chim hải âu trên những bãi biển đô thị. Trước khi cô kịp lảng ra xa khỏi đám đông đó, cô chợt nhận ra Josh, một người bạn cùng lớp với cô ở Harvard, một kẻ cực kỳ nhỏ mọn, đang đứng chắn đường mình, hai chân anh ta đứng vững, hơi dang ra, như thể đã sẵn sàng lao bổ vào cô vậy.
“Mọi thứ ở đây đều dành cho tôi phải không?” – Alice hỏi, mỉm cười tinh nghịch.
“Sao cơ, chúng tôi ăn uống như thế này mỗi ngày mà. Bữa tiệc này dành cho một trong những nhà tâm lý thực nghiệm của chúng tôi, anh ấy vừa được bổ nhiệm ngày hôm qua. Còn Harvard đãi ngộ với cậu như thế nào?”
“Tốt.”
“Tôi không thể tin là cậu vẫn ở đó sau bao nhiêu năm trời. Khi nào cậu cảm thấy chán bên đó, hãy nghĩ đến việc chuyển qua đây nhé.”
“Có gì tôi sẽ liên hệ với cậu. Mọi việc với cậu vẫn ổn chứ?”
“Tuyệt vời. Cậu nên ghé qua văn phòng của tôi sau khi kết thúc buổi diễn thuyết, để xem mô hình dữ liệu mới nhất của chúng tôi. Nó sẽ khiến cậu bất ngờ đấy.”
“Thật sự xin lỗi cậu, tôi không thể đi được. Sau khi xong việc ở đây tôi phải bay đến L.A ngay” – cô nói, cảm thấy thật may mắn vì có sẵn một lý do để từ chối.
“Ồ, tiếc nhỉ. Tôi nhớ năm ngoái tôi có gặp cậu ở buổi hội nghị về tâm lý học. Tôi đã không may bỏ lỡ buổi diễn thuyết hôm đó của cậu.”
“Không sao mà, cậu sẽ được nghe một phần lớn bài diễn thuyết của hôm đó trong buổi này.”
“Hả, bây giờ cậu còn định sử dụng lại mấy bài diễn thuyết cũ cho buổi hôm nay sao?”
Trước khi cô kịp trả lời, Gordon Miller – trưởng khoa và cũng là người hùng mới của cô – bước tới và giải vây cho cô bằng cách nhờ Josh mang champagne đi mời mọi người giúp ông. Cũng giống như ở Harvard, một buổi tiệc rượu champagne là truyền thống tại khoa Tâm lý học ở Stanford để chúc mừng những giảng viên vinh dự được bổ nhiệm chính thức. Việc đạt được một cấp độ mới không có gì đáng để ca ngợi trong sự nghiệp của một giáo sư, nhưng được bổ nhiệm chính thức là một dịp vô cùng quan trọng, lớn lao và rực rỡ.
Khi mọi người đều đã cầm ly trong tay, Gordon đứng lên bục và gõ vào chiếc micro.
“Mọi người chú ý một chút nào!”
Josh cười ngất ngưởng. Tiếng cười vang khắp cả căn phòng trước khi Gordon nói tiếp.
“Ngày hôm nay, chúng ta cùng chúc mừng Mark nhận được quyết định bổ nhiệm chính thức. Tôi chắc là anh ấy hẳn đang rất vui vì đã đạt được thành tích này. Chúng ta hãy cùng nâng ly vì những thành tựu vang dội sắp tới của Mark nào. Chúc mừng Mark!”
“Chúc mừng Mark.”
Alice quay sang cụng ly với người đứng cạnh, và mọi người nhanh chóng quay trở lại ăn uống và bàn tán. Khi tất cả đồ ăn trên khay của người phục vụ đều hết và giọt champagne cuối cùng được dốc ra khỏi chai, Gordon lại bước lên bục một lần nữa.
“Nếu tất cả mọi người đều đã tìm được chỗ ngồi, chúng ta có thể bắt đầu buổi diễn thuyết ngày hôm nay.”
Ông đợi một chút để đám đông khoảng bảy mươi lăm con người ổn định chỗ ngồi và giữ trật tự.
“Hôm nay, tôi vinh dự được giới thiệu với các bạn diễn giả đầu tiên của buổi hội thảo chuyên đề năm nay. Tiến sĩ Alice Howland – một người kiệt xuất được xem như Giáo sư William James của khoa Tâm lý Đại học Harvard. Trong suốt hơn hai mươi lăm năm qua, cô đã đóng góp rất nhiều trong việc tạo ra những tiền đề cho ngành tâm lý học ngôn ngữ. Cô là người tiên phong và vẫn đang tiếp tục dẫn dắt các nghiên cứu liên ngành và tích hợp các phương pháp về quy tắc của ngôn ngữ. Chúng ta rất vinh dự vì ngày hôm nay có cô ở đây để cùng thảo luận về khái niệm và tổ chức thần kinh của ngôn ngữ.”
Alice đổi chỗ với Gordon và nhìn xuống phía dưới những thính giả đang dõi theo cô. Trong lúc chờ đợi những tràng vỗ tay vãn bớt, cô nghĩ đến các nghiên cứu thống kê đã chỉ ra rằng con người sợ phát biểu trước đám đông hơn là sợ chết. Cô thì lại thích được phát biểu. Cô yêu những khoảnh khắc kết nối với thính giả đang lắng nghe cô trình bày, diễn thuyết, kể chuyện hay truyền lửa cho một buổi tranh luận. Cô cũng cực kì hứng thú với phản ứng hệ thần kinh giao cảm. Mục tiêu tranh luận càng lớn, càng phức tạp hoặc nhiều đối nghịch với người nghe, càng khiến cô trải qua nhiều cung bậc cảm xúc. John là một giảng viên xuất sắc, nhưng anh luôn khổ sở khi phải phát biểu trước đám đông, anh cảm thấy kinh ngạc trước sự nhiệt huyết mà Alice dành cho việc đó. Có lẽ anh không chọn cái chết, nhưng thà gặp nhện hoặc rắn còn hơn là phải đứng diễn thuyết trước đám đông. Chắc chắn là như vậy.
“Cảm ơn anh, Gordon. Ngày hôm nay, tôi sẽ trình bày một vài điều về các quá trình tinh thần được coi là nền tảng cho sự giao tiếp, cách tổ chức và sử dụng ngôn ngữ.”
Alice đã nhắc lại nhiều lần những nội dung cơ bản trong buổi diễn thuyết này, nhưng cô sẽ không gọi đó là “tái sử dụng”. Trọng tâm của buổi diễn thuyết là tập trung vào nguyên lý chính của ngôn ngữ học, một trong số các nguyên lý đó là do cô phát hiện ra và cô cũng sử dụng cùng một bản trình chiếu trong nhiều năm nay. Nhưng cô vẫn cảm thấy tự hào, không hề hổ thẹn hay lười biếng, chỉ đơn giản vì những phần mà cô đang thuyết trình, chúng là do cô khám phá ra, vẫn có thể áp dụng được, bất chấp sự thử thách của thời gian. Những đóng góp của cô có tầm quan trọng và sẽ tạo điều kiện cho những phát hiện mới trong tương lai. Hơn nữa, cô nhất định sẽ đóng góp thêm những khám phá mới.
Cô say sưa diễn thuyết mà không cần nhìn vào bản ghi chép của mình, phong thái rất ung dung và sống động, câu chữ cứ thế tuôn ra một cách dễ dàng. Nhưng rồi, vào khoảng phút thứ 40 của bài diễn thuyết dài 50 phút, cô bỗng rơi vào thế bí.
“Các dữ liệu cho thấy rằng động từ bất qui tắc thâm nhập vào trí não thông qua...”
Đơn giản là cô không thể tìm được từ ngữ phù hợp. Cô đã cảm nhận được điều mình muốn nói ra, nhưng từ ngữ biểu đạt cho điều đó thì đang cố lẩn tránh cô. Nó đã biến mất. Cô không còn biết từ đó bắt đầu bằng chữ cái gì hay nghe như thế nào và có bao nhiêu chữ cái. Từ đó hoàn toàn không còn trong đầu cô nữa.
Có lẽ nguyên nhân là do ly rượu champagne. Cô thường sẽ không uống bất cứ một loại đồ uống có cồn nào trước khi diễn thuyết, kể cả khi cô biết trước đó là một buổi diễn thuyết nhạt nhẽo, hoặc trong một tình huống ngẫu nhiên, cô cũng luôn muốn mình giữ được tinh thần nhạy bén nhất, đặc biệt là phần hỏi đáp diễn ra ở cuối buổi diễn thuyết, chúng đầy tính đối kháng và luôn hấp dẫn, đó là những cuộc tranh luận không có kịch bản từ trước. Nhưng vì không muốn làm phật lòng mọi người, cô đã uống nhiều hơn bình thường một chút khi cô rơi vào thế bị động trong cuộc trò chuyện với Josh.
Có thể là do cô quá mệt mỏi sau chuyến bay dài. Khi mà tâm trí cô đang tích cực tìm kiếm từ ngữ đã quên ở tất cả các ngõ ngách và một lý do xác đáng cho sự đãng trí ấy, thì trái tim cô đập loạn nhịp và khuôn mặt của cô đỏ ửng lên. Trước đây cô chưa bao giờ quên bài trước các thính giả của mình. Nhưng cô cũng không bao giờ để lộ sự hoảng hốt trước mặt họ, cô cũng từng diễn thuyết trước một lượng thính giả lớn hơn thế này nhiều lần và đã từng rơi vào những tình huống còn đáng sợ hơn thế nữa. Cô tự nhắc mình phải hít thở sâu, cố quên đi điều đó và tiếp tục bài diễn thuyết.
Cô thay thế từ đã bị biến mất bằng một từ mơ hồ, không thích hợp – từ “điều đó”, bỏ dở giữa chừng vấn đề đang nói đến, và chuyển sang bản trình chiếu tiếp theo. Việc tạm dừng đột ngột khiến cô thấy khó xử, nhưng khi cô để ý nét mặt của các thính giả thì không có ai nhận ra sự gián đoạn trong tâm trí cô, không ai tỏ ra hoảng hốt, lúng túng, hay nhăn nhó. Rồi cô nhìn thấy Josh thì thầm với người phụ nữ ngồi kế bên, cậu ta nhíu mày và một nụ cười nhẹ xuất hiện trên khuôn mặt ấy.
Cô đã lên máy bay, khi máy bay đang hạ cánh xuống sân bay LAX, cái từ đó cuối cùng cũng quay lại với cô.
Từ vựng.
TÍNH ĐẾN BÂY GIỜ LYDIA đã sống ở Los Angeles được ba năm. Nếu con bé chịu vào đại học sau khi học xong trung học, có lẽ nó đã tốt nghiệp vào mùa xuân năm nay. Alice hẳn sẽ cảm thấy vô cùng tự hào. Lydia có lẽ là đứa trẻ thông minh hơn hai anh chị của nó, nhưng trong khi hai đứa lớn theo học trường luật và trường y thì con bé lại không hề có hứng thú với đại học.
Thay vì học đại học, Lydia sang Châu Âu. Alice đã hi vọng con bé sẽ trở về nhà với một định hướng rõ ràng hơn về việc học tập. Thế nhưng, con bé quay về và nói với bố mẹ là nó đã tham gia một vai diễn nhỏ khi dừng chân ở Dublin và thật sự đam mê công việc đó. Ngay lập tức nó chuyển đến Los Angeles sống.
Alice gần như suy sụp tinh thần. Sự thất vọng trong cô ngày càng lớn, cô nhận ra một phần lỗi là do cô. Bởi vì Lydia là con út trong nhà, bố mẹ thì luôn bận rộn với công việc và thường xuyên phải đi công tác, hơn nữa con bé lại chăm chỉ học hành nên Alice và John đã lơ là quá mức. Họ đã cho con bé quá nhiều không gian để tạo ra một thế giới cho riêng mình, để tự do nghĩ về chính mình và không phải chịu sự kiểm soát khắt khe mà rất nhiều đứa trẻ ở độ tuổi của con bé phải chịu. Sự nghiệp viên mãn của cha mẹ chính là một tấm gương sáng về việc tập trung vào một mục tiêu to lớn và duy nhất để theo đuổi bằng cả niềm đam mê và cống hiến hết mình cho công việc. Lydia hiểu lời khuyên của mẹ về tầm quan trọng của việc học đại học nhưng con bé lại đủ tự tin và táo bạo để từ chối lời khuyên ấy.
Hơn nữa, Lydia không hoàn toàn đấu tranh đơn độc. Cuộc cãi vã nảy lửa nhất đã từng xảy ra giữa Alice và John xuất phát từ ý kiến riêng của anh: Anh nghĩ đó là một lựa chọn tuyệt vời đó chứ, sau này con bé luôn có thể quay lại học đại học, nếu nó muốn.
Alice kiểm tra địa chỉ lưu trên chiếc điện thoại BlackBerry của mình, cô nhấn chuông cửa căn hộ số 7, và chờ đợi. Cô vừa định nhấn chuông lần nữa thì Lydia đã ra mở cửa.
“Mẹ, mẹ đến sớm thế.” – Lydia nói.
Alice nhìn đồng hồ của mình.
“Mẹ đến vừa đúng giờ mà.”
“Mẹ nói là máy bay hạ cánh lúc tám giờ mà.”
“Mẹ nói là năm giờ chứ.”
“Con có ghi là tám giờ trong sổ tay của con kìa.”
“Lydia, bây giờ là năm giờ bốn lăm phút, mẹ đang ở đây rồi.”
Lydia có vẻ hoang mang và sửng sốt giống như một chú sóc đang đối mặt với một chiếc xe hơi đang lao đến mình.
“Con xin lỗi, mẹ vào nhà đi.”
Cả hai mẹ con đều hơi do dự trước khi ôm nhau, như thể họ đang chuẩn bị thực hành một điệu nhảy mới học và cả hai đều không tự tin vào những bước di chuyển đầu tiên hoặc không biết ai sẽ là người dẫn dắt. Cũng có thể đó là một điệu nhảy cũ, nhưng đã rất lâu hai người không cùng thực hiện nên không thuộc vũ đạo của mình.
Alice có thể cảm nhận được vệt sống lưng và xương sườn Lydia qua lớp áo. Con bé quá gầy, trông như sút khoảng 5kg so với cân nặng mà Alice nhớ. Cô hi vọng đây chỉ là hậu quả của việc quá bận rộn chứ không phải vì con bé đang ăn kiêng. Tóc vàng, cao khoảng 1m71, hơn Alice 7cm, với ưu thế của mình thì Lydia có thể nổi bật giữa đám đông các cô gái người Ý và châu Á ở Cambridge, nhưng ở Los Angeles này, phòng chờ của bất cứ buổi thử vai nào cũng đầy rẫy những cô gái trông hệt như thế.
“Con đặt chỗ lúc chín giờ rồi. Mẹ chờ ở đây nhé, con sẽ quay lại ngay.”
Từ hành lang Alice nghiêng đầu quan sát phòng bếp và phòng khách. Có thể con bé đã tìm mua đồ nội thất ở chợ trời hoặc đồ cũ được các gia đình rao bán lại, trông khá hợp với nhau: một ghế dài sọc cam, một chiếc bàn cà phê phong cách cổ điển, bàn ghế trong bếp kiểu Brady-Bunch. Những bức tường màu trắng để không, chỉ có một tấm hình Marlon Brando treo phía trên ghế dài. Không khí trong phòng đậm mùi nước lau nhà, cứ như thể Lydia đã tận dụng đến giây cuối cùng để tranh thủ dọn dẹp mọi nơi trước khi Alice đến.
Thực ra, căn phòng này hơi quá sạch sẽ. Quanh phòng chẳng có cái đĩa DVD hay VCD nào, không một cuốn sách hay quyển tạp chí nào vứt trên bàn cà phê cả, trên tủ lạnh cũng không gắn bất cứ bức ảnh nào, không hề có chút gì thể hiện sở thích hay liên quan đến khiếu thẩm mỹ của Lydia. Người chủ của nơi này có thể là bất cứ ai. Sau đó, Alice nhận ra ở bên trái cánh cửa phía sau cô là một đống giày nam nằm lăn lóc trên sàn.
“Kể mẹ nghe về các bạn cùng phòng của con đi” – cô nói khi Lydia đi ra từ phòng của con bé, trên tay cầm theo điện thoại.
“Họ đang đi làm.”
“Họ làm công việc gì?”
“Một người đang làm pha chế tại quán bar và người kia là nhân viên giao thức ăn.”
“Mẹ lại nghĩ cả hai đều là diễn viên cơ đấy.”
“Vâng, đúng thế.”
“Mẹ hiểu rồi. Vậy còn tên của họ là gì?”
“Doug và Malcolm.”
Có gì đó lóe lên, nhưng Alice đã kịp nhìn thấy và Lydia cũng nhận ra điều đó. Khuôn mặt của Lydia chợt đỏ ửng khi nhắc đến cái tên Malcolm, và đôi mắt con bé tỏ ra bối rối cố lảng tránh ánh nhìn từ phía mẹ.
“Tại sao mẹ và con không đi luôn bây giờ nhỉ? Nhà hàng nói chúng ta có thể đến sớm hơn.” – Lydia nói.
“Được thôi, nhưng mẹ cần dùng nhà vệ sinh trước đã.”
Trong khi Alice rửa tay, cô nhìn qua các thứ đồ đặt trên chiếc bàn cạnh bồn rửa mặt: sữa rửa mặt và kem dưỡng ẩm Neutrogena, kem đánh răng bạc hà Tom’s of Maine, lăn khử mùi của nam, một hộp băng vệ sinh Playtex. Cô nghĩ ngợi một chút. Cô đã không hành kinh trong suốt cả mùa hè. Tháng năm cô có bị không nhỉ? Tháng sau cô sẽ bước sang tuổi năm mươi, vậy nên không phải lo chuyện bầu bì. Cô vẫn chưa trải qua những triệu chứng nóng hay đổ mồ hôi vào ban đêm, nhưng không phải phụ nữ nào đến tuổi mãn kinh cũng đều trải qua những chuyện như thế. Nếu điều đó xảy ra với cô thì cũng là chuyện bình thường thôi.
Khi cô đang lau khô tay, cô để ý thấy một hộp bao cao su Trojan ở phía sau bộ sản phẩm chăm sóc tóc của Lydia. Cô sẽ phải tìm hiểu thêm về những người bạn cùng phòng của con gái mình, đặc biệt là Malcolm.
Hai mẹ con ngồi ở một bàn ngoài trời tại Ivy, một quán ăn thời thượng thuộc trung tâm thành phố Los Angeles, gọi hai món đồ uống, một ly Martini Espresso cho Lydia và một ly vang Merlot cho Alice.
“Bài báo khoa học của bố đến đâu rồi ạ?” – Lydia hỏi. Gần đây chắc con bé có nói chuyện với bố. Alice thì chưa nói chuyện lại với con kể từ cuộc gọi vào Ngày của Mẹ.
“Hoàn thành rồi. Bố con rất tự hào về nó.”
“Thế còn anh Tom và chị Anna thì sao?”
“Vẫn tốt, anh chị con luôn bận rộn và chăm chỉ làm việc. Mà con đã gặp Doug và Malcolm như thế nào vậy?”
“Vào một buổi tối họ ghé đến Starbucks và con đang làm thêm ở đó.”
Người phục vụ bước đến, mỗi người gọi một món cho bữa tối và thức uống kèm theo. Alice hi vọng mấy thứ đồ uống có cồn này sẽ làm giảm sự căng thẳng đang ẩn giấu sau những câu hội thoại nặng nề, không thoải mái giữa hai mẹ con.
“Mà con đã gặp Doug và Malcolm như thế nào vậy?”
“Con vừa nói với mẹ rồi mà. Tại sao mẹ lại chẳng bao giờ lắng nghe những gì con nói nhỉ? Một buổi tối, họ đến Starbucks và nói chuyện về việc tìm một người thuê chung phòng trong khi con đang làm việc ở đó.”
“Mẹ tưởng con làm phục vụ trong một quán ăn chứ.”
“Đúng ạ. Con làm ở Starbucks những ngày trong tuần và làm phục vụ vào các tối thứ bảy.”
“Có vẻ như con không còn nhiều thời gian cho việc diễn xuất nhỉ.”
“Hiện giờ con không được phân vai nào cả, nhưng con có tham gia lớp học thực hành và con cũng đi thử vai khá nhiều.”
“Lớp học đó dạy về cái gì?”
“Kỹ thuật biểu diễn Meisner.”
“Thế con thử vai ở những đâu?”
“Cho chương trình truyền hình và báo chí.”
Alice lắc nhẹ ly rượu vang trên tay, uống một ngụm lớn cho đến khi cạn ly rồi liếm môi. “Lydia, chính xác thì kế hoạch của con ở đây là gì vậy?”
“Con không lên kế hoạch cho việc bỏ cuộc, nếu đó là điều mẹ đang muốn hỏi.”
Những ly rượu đang phát huy tác dụng nhưng không phải theo hướng mà Alice hi vọng. Ngược lại, chúng như tiếp thêm năng lượng để đốt cháy những mối chỉ mong manh trong cuộc nói chuyện của hai mẹ con, đẩy sự căng thẳng đến trực diện và mang đến nguy cơ về một cuộc tranh cãi kịch liệt giữa những thành viên trong gia đình.
“Con không thể sống thế này mãi được. Con định sẽ làm ở Starbucks cho đến khi con ba mươi tuổi à?”
“Đó là chuyện của tám năm nữa mẹ à. Mẹ có biết tám năm nữa mẹ sẽ làm gì không?”
“Có, mẹ biết chứ. Đến một lúc nào đó con cần phải có trách nhiệm với rất nhiều điều, con phải có đủ khả năng để chi trả cho bảo hiểm y tế, một khoản vay thế chấp, tiết kiệm cho tuổi nghỉ hưu...”
“Con có bảo hiểm y tế rồi. Và con có thể sẽ trở thành một diễn viên. Có rất nhiều người có thể làm được như vậy, mẹ biết mà. Và họ kiếm được cực kì nhiều tiền, nhiều hơn cả bố và mẹ cộng lại.”
“Vấn đề không phải là vì tiền.”
“Thế là vì cái gì? Vì con không thể trở thành người như mẹ à?”
“Con đừng gắt lên như vậy.”
“Mẹ đừng ra lệnh cho con phải làm gì.”
“Mẹ không muốn con phải trở thành một người như mẹ, Lydia. Mẹ chỉ không muốn con tự giới hạn những lựa chọn của mình.”
“Mẹ muốn can thiệp vào lựa chọn của con.”
“Không phải.”
“Con là chính con và đây là những gì con muốn làm.”
“Con muốn làm gì? Phục vụ cà phê Venti Latte à? Con nên học đại học. Con nên dành khoảng thời gian này trong cuộc đời mình để học một cái gì đó.”
“Con đang học một cái gì đó đây. Chỉ là con không ngồi trong một lớp học ở Harvard để ép buộc bản thân phải đạt điểm A môn Khoa học Chính trị. Con đang nghiêm túc theo học một lớp diễn xuất, mỗi tuần học mười lăm tiếng đồng hồ. Thế sinh viên của mẹ học bao nhiêu tiếng trong một tuần? Mười hai tiếng?”
“Đó là hai chuyện hoàn toàn khác nhau.”
“Khác ư? Bố thì nghĩ nó giống nhau đấy, vì bố là người trả tiền học phí cho con.”
Hai tay Alice nắm chặt gấu váy, môi mím lại. Những gì cô muốn nói tiếp theo không phải là dành cho Lydia.
“Mẹ chưa bao giờ xem con diễn cả.”
Lydia nói đúng, Alice chưa bao giờ xem con gái biểu diễn, nhưng John thì khác. Cuối mùa đông năm ngoái anh ấy đã một mình bay đến xem Lydia diễn một vở kịch. Alice không thể đi cùng bởi cô có quá nhiều công việc và chúng chiếm hết thời gian của cô. Khi nhìn thấy ánh mắt buồn rầu của Lydia, cô không thể nhớ nổi những công việc mà cô coi là quan trọng và cần làm ngay nữa. Cô không hề có định kiến gì với nghề diễn viên cả, nhưng cô tin rằng quá mạo hiểm khi con gái cô một mình theo đuổi nghề nghiệp ấy mà không được đào tạo bài bản. Nếu bây giờ con bé không học đại học, không bằng cấp, không có kiến thức cơ bản hoặc đào tạo chuyên sâu về một lĩnh vực nào đó, sẽ ra sao khi sự nghiệp diễn xuất của nó không như mong đợi?
Alice nghĩ đến hộp bao cao su trong phòng tắm. Sẽ ra sao nếu Lydia có thai? Alice lo sợ một ngày nào đó Lydia nhận ra mình đang bị mắc kẹt trong một cuộc sống không như ý và tràn đầy hối tiếc. Cô nhìn con gái mình và thấy nó đang lãng phí cả tài năng lẫn thời gian của chính mình.
“Khi tuổi trẻ qua đi, con sẽ không thể lấy lại những gì đã mất. Thời gian trôi qua nhanh lắm.”
“Con biết điều đó.”
Đồ ăn được đưa lên, nhưng chẳng ai muốn cầm nĩa lên cả. Lydia dùng chiếc khăn thêu tay chấm nhẹ lên mắt mình. Họ luôn sa vào các cuộc tranh cãi như thế này và điều ấy làm Alice cảm thấy như họ đang cố đâm đầu vào bức tường bê tông. Sẽ chẳng bao giờ có kết quả tốt đẹp và cuối cùng chỉ đem lại cho họ những tổn thương về lâu dài. Cô mong Lydia có thể cảm nhận được tình yêu và sự sáng suốt trong những điều cô muốn dành cho con bé. Cô ước mình có thể vươn tới ôm con gái, nhưng trên bàn có quá nhiều đĩa, cốc, hơn nữa giữa hai người đã có khoảng trống sau nhiều năm xa cách.
Bỗng những tiếng động bất ngờ từ mấy bàn ăn gần đó thu hút sự chú ý của hai mẹ con. Vài chiếc máy ảnh chớp nháy liên tục, nhiều vị khách và các nhân viên trong quán đang vây quanh một người phụ nữ trông hơi giống Lydia.
“Ai đó con?” – Alice hỏi.
“Mẹ!” – Lydia vừa có vẻ ngượng ngùng vừa phấn khích, giống hệt một cô bé mười ba tuổi. – “Đó là Jennifer Aniston đấy mẹ à.”
Hai mẹ con tiếp tục bữa tối và chỉ nói những chuyện ôn hòa, chẳng hạn như về món ăn hay thời tiết. Alice muốn tìm hiểu thêm về mối quan hệ giữa Lydia và Malcolm, nhưng dư âm của cuộc tranh cãi khiến cho cảm xúc của Lydia vẫn còn nóng hừng hực, Alice sợ gây ra một cuộc tranh cãi khác. Cô quyết định thanh toán tiền và họ rời nhà hàng, cả hai đều thấy no nhưng không mấy hài lòng.
“Xin lỗi quý khách!”
Người phục vụ đuổi kịp họ trên lối ra.
“Quý khách để quên thứ này.”
Alice dừng bước, cô cố gắng nhớ lại xem tại sao chiếc BlackBerry của mình lại đang nằm trong tay người phục vụ. Trong lúc ngồi ăn cô không hề kiểm tra email hay xem lịch. Cô lục túi xách – không có chiếc điện thoại BlackBerry trong đó. Chắc là cô đã bỏ điện thoại ra ngoài khi tìm ví để thanh toán.
“Cảm ơn.”
Lydia nhìn mẹ mình một cách kỳ lạ như thể đang muốn nói về một cái gì đó ngoài chuyện đồ ăn và thời tiết nhưng rồi lại thôi. Hai mẹ con cùng đi bộ về căn hộ của Lydia trong im lặng.
“JOHN?”
Alice đứng đợi ở cửa ra vào, tay nắm chặt tay cầm của chiếc vali. Trước mặt cô là đống thư chưa có người nhận rải rác khắp sàn nhà và cuốn Tạp chí Harvard. Chiếc đồng hồ trong phòng khách kêu tích tắc và chiếc tủ lạnh phát ra tiếng ù ù. Phía sau lưng cô là một buổi chiều ấm áp, ngập nắng nhưng không khí trong nhà lại lạnh lẽo, âm u và ảm đạm, không khí của một ngôi nhà không có người ở.
Cô nhặt chồng thư lên rồi đi vào trong bếp, chiếc vali trượt trên những bánh xe theo sau cô như một con vật cưng trung thành. Chuyến bay của cô đã bị chậm và cô về muộn hơn dự định, kể cả khi tính theo thời gian trên chiếc lò vi sóng. Vậy là John đã dành cả ngày thứ bảy cho công việc.
Cô để ý đến máy trả lời tự động, đèn đỏ báo tin nhắn thoại không sáng. Cô kiểm tra trên tủ lạnh cũng không có tờ giấy nhắn nào. Không có gì cả.
Tay vẫn nắm chặt tay cầm của vali, cô đứng trong căn bếp tối đen và mất vài phút nhìn chằm chằm chiếc lò vi sóng. Trong đầu cô tiếng nói của sự thất vọng nhưng đầy khoan dung đang nhạt dần, chuyển sang tiếng thì thầm từ bản năng bắt đầu trỗi dậy và lan tỏa. Cô đã nghĩ đến việc gọi điện cho anh, nhưng giọng nói đang lớn dần kia ngay lập tức xua đi ý nghĩ đó và không chấp nhận bất cứ một lời biện minh nào. Cô đã nghĩ rằng sẽ thôi không bận tâm nữa, nhưng tiếng nói ấy bây giờ đang ngấm dần vào cơ thể cô, vang vọng trong lòng cô, rung lên khắp các đầu ngón tay, mạnh mẽ và sâu đậm đến mức khiến cô không thể bỏ qua.
Tại sao cô lại bận tâm đến chuyện này nhiều đến vậy? Anh có thể đang làm một thí nghiệm và không thể bỏ dở để về nhà. Cô cũng từng rơi vào tình cảnh giống anh không biết bao nhiêu lần rồi. Đó là cách họ làm việc. Đó là con người họ. Giọng nói ấy gọi cô là một kẻ xuẩn ngốc.
Cô tìm thấy đôi giày chạy của mình nằm sau cánh cửa. Chạy bộ một chút sẽ làm cô thấy đỡ hơn. Đó là những gì cô cần lúc này.
Cô thường chạy bộ mỗi ngày. Từ nhiều năm nay, cô mặc định việc chạy bộ cũng như việc ăn uống hay ngủ nghỉ, là nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống hằng ngày và cô đã từng chạy bộ vào giữa đêm hoặc khi ngoài trời bão tuyết mịt mùng. Thế nhưng trong mấy tháng vừa rồi vì quá bận rộn nên cô đã bỏ qua việc này. Trong khi buộc dây giày, cô tự nhủ sẽ không mang theo giày khi đến California vì cô biết sẽ không có thời gian để chạy. Nhưng sự thật là cô đã quên bỏ giày vào hành lý của mình.
Khi bắt đầu rời khỏi nhà mình trên phố Poplar, cô lúc nào cũng đi theo tuyến đường quen thuộc – chạy xuôi đại lộ Massachusetts, qua quảng trường Harvard đến khu Memorial, chạy dọc theo sông Charles đến cầu Harvard, cuối cùng là đến MIT rồi quay trở lại – tổng quãng đường khoảng hơn năm dặm, chạy một vòng mất khoảng bốn mươi lăm phút. Từ lâu cô đã có ý muốn tham gia cuộc chạy đua Boston Marathon nhưng mỗi năm cô đều quá bận rộn nên không có thời gian để tập luyện. Có lẽ một ngày nào đó cô sẽ tham gia. Ở độ tuổi này mà tình trạng thể chất của cô vẫn tuyệt vời thế này thì cô tin rằng mình vẫn có thể chạy tốt kể cả khi ở tuổi sáu mươi.
Khi chạy qua quảng trường Harvard, Alice bị choáng ngợp bởi dòng người đi bộ qua lại chen chúc trên vỉa hè, còn trên đường xe cộ liên tục di chuyển tại các giao lộ. Trong khoảng thời gian này vào một ngày thứ bảy thì đúng là rất đông đúc và nhộn nhịp, đám đông tụ tập, chen lấn chờ đợi đèn tín hiệu giao thông, bên ngoài nhà hàng người ta đang chờ đợi bàn trống, xếp hàng chờ mua vé ở rạp chiếu phim và cả nhiều người chờ chỗ trống trong bãi giữ xe theo giờ. Mười phút đầu tiên trong hành trình chạy bộ của cô đòi hỏi sự tập trung cao độ để có thể vượt qua được hết những khó khăn ấy, nhưng khi đã chạy qua khu Memorial đến sông Charles cô sẽ có thể tự do mà sải bước chạy và tận hưởng không gian xung quanh.
Không khí buổi tối rất thoải mái và thoáng đãng, dọc bờ sông Charles có rất nhiều hoạt động diễn ra, nhưng dù thế nào thì bãi cỏ bên cạnh bờ sông vẫn không đông đúc như trên đường phố Cambridge. Bất chấp dòng người đang đi bộ, những người dắt chó đi dạo, người trượt patin, đạp xe và cả những phụ nữ đang đẩy xe nôi, Alice như một lái xe đã quen đường không để ý nhiều đến những gì đang diễn ra xung quanh. Khi chạy dọc bờ sông, trong đầu cô không có bất cứ điều gì ngoài tiếng đôi giày Nike của mình va chạm với mặt đường hòa nhịp theo hơi thở của cô. Cô không hồi tưởng lại cuộc tranh cãi với Lydia. Cô cũng không để ý đến cảm giác cồn cào trong bụng. Cô không nghĩ đến John. Cô chỉ chạy mà thôi.
Theo thói quen, khi chạy ngược về đến công viên John Fitzgerald Kennedy thì cô dừng lại, nơi đây có một khoảng cỏ được cắt tỉa cẩn thận tiếp giáp với khu Memorial. Đầu óc cô hoàn toàn trống rỗng, cơ thể cô thả lỏng và dường như đã hồi sức, cô bắt đầu đi bộ về nhà. Từ công viên JFK đi vào quảng trường Harvard phải đi qua một đường hành lang có những hàng ghế dài rất đẹp mắt nằm giữa khách sạn Charles và trường chính trị Kennedy.
Ở phía bên kia lối đi, cô đứng giữa ngã tư đường Eliot và Brattle để chuẩn bị sang đường thì một người phụ nữ bất ngờ nắm lấy cánh tay cô khiến cô giật mình, người phụ nữ hỏi: “Hôm nay cô đã nghĩ đến thiên đường chưa?”
Người phụ nữ đó nhìn Alice chằm chằm bằng một ánh mắt kiên định, xuyên thấu. Bà ta có mái tóc dài màu mè và rối bù như miếng cọ rửa Brillo, trước ngực đeo một tấm biển viết tay, trên đó viết NƯỚC MỸ HÃY SÁM HỐI, TỪ BỎ TỘI LỖI ĐỂ TRỞ VỀ VỚI CHÚA. Ở quảng trường Harvard lúc nào cũng có người muốn mang Chúa ra rao bán nhưng Alice chưa bao giờ bị tiếp cận trực tiếp và đường đột như thế này.
“Xin lỗi.” – Cô nói và nhận ra có một đường rẽ trong dòng xe đang lưu thông, cô nhanh chóng đi sang bên kia đường.
Cô muốn đi tiếp nhưng lại đứng yên một chỗ như bị đóng băng. Cô không biết mình đang ở đâu. Cô nhìn lại phía bên kia đường. Người phụ nữ với kiểu tóc trông như miếng cọ rửa Brillo vẫn đang tiếp cận một con người tội lỗi khác phía đầu kia lối đi. Hành lang này, khu khách sạn, các cửa hàng, những con phố ngoằn ngoèo có qui luật. Cô biết mình đang ở quảng trường Harvard nhưng không biết đường nào để về nhà.
Cô cố gắng hình dung một lần nữa, một cách chi tiết hơn. Khách sạn quảng trường Harvard, khu thể thao Eastern Mountain, cửa hàng Dickson Bros, phố Mount Auburn. Cô biết tất cả những nơi này, cô đã qua lại khu vực này trong suốt hai mươi lăm năm qua nhưng không hiểu sao bây giờ chúng lại không hiện lên trên tấm bản đồ có sẵn trong đầu cô về nơi cô sinh sống. Một biển hiệu đen trắng hình tròn có in chữ “T” trước mặt cô báo hiệu lối vào khu tàu điện ngầm và xe buýt Red Line, nhưng ở quảng trường Harvard có ba lối vào như thế này và cô không thể nhận ra đây là chỗ nào trong số ba chỗ đó.
Tim cô bắt đầu đập nhanh hơn. Cô toát mồ hôi. Alice tự trấn an mình rằng hiện tượng tim đập nhanh và toát mồ hôi là những phản ứng hoàn toàn tự nhiên sau khi vừa chạy bộ. Nhưng khi cô đứng trên vỉa hè, có một cảm giác gần như hoảng sợ bủa vây khắp cơ thể cô.
Cô vô thức đi bộ qua một khu nhà rồi lại một khu nữa, đôi chân dẻo dai của cô dường như muốn bỏ cuộc và nhường chỗ cho những bước chân đầy hoang mang. Cô đi ngang qua cửa hiệu Coop, Cardullo’s, nơi bán tạp chí ở góc đường, trung tâm dành cho khách du lịch ở Cambridge và cả khu sân trường Harvard ở phía đằng xa. Cô tự nhủ rằng mình vẫn có thể đọc và nhận ra mọi thứ. Nhưng cũng chẳng ích gì. Tất cả đều trở nên vô cùng lạc lõng.
Con người, xe hơi, xe buýt và tất cả những âm thanh hỗn tạp bủa vây rồi lướt qua cô. Alice nhắm mắt lại, cô lắng nghe những mạch máu giần giật phía sau tai mình.
“Làm ơn ngừng lại...” – Cô thì thầm.
Alice mở mắt ra. Bất ngờ giống như lúc biến mất, mọi thứ xung quanh cô lại đột nhiên trở về đúng vị trí của mình. Cửa hàng Coop, Cardullo’s, Nini’s Corner, sân trường Harvard. Ngay lập tức cô biết là mình sẽ phải rẽ trái ở phía góc phố rồi đi thẳng về hướng tây trên đại lộ Mass Ave. Cô bắt đầu hít thở dễ dàng hơn, không còn cảm giác lạc lõng như lúc nãy. Nhưng cô vừa mới bị lạc đường một cách kì lạ dù chỗ cô đứng cách nhà chưa đến một dặm. Cô không chạy mà cố bước đi với tốc độ nhanh nhất có thể.
Cô rẽ sang con phố nhà mình, một nơi yên tĩnh, hai bên trồng hai hàng cây và chỉ cách đại lộ Mass Ave vài tòa nhà. Đôi chân bước trên con đường quen thuộc và ngôi nhà thân yêu đã nằm trong tầm mắt, Alice cảm thấy yên tâm hơn, nhưng vẫn chưa hẳn đã an toàn. Cô nhìn chằm chằm vào cánh cửa chính nhà mình, vừa bước đến gần vừa tự nói với bản thân rằng một khi cô bước qua cánh cửa kia và nhìn thấy John đã trở về nhà, cơn sóng lo âu và giận hờn đang cuộn trào trong cô sẽ ngay lập tức bị rút cạn.
“John?”
Anh xuất hiện ở ngưỡng cửa phòng bếp, râu lún phún, cặp kính bị đẩy lên trên mái tóc kiểu nhà-khoa-học-điên, đang ăn cây kem Popsicle màu đỏ và mặc chiếc áo phông màu xám yêu thích. Anh đã thức cả đêm. Những lo lắng trong cô đã dịu đi. Thế nhưng dường như năng lượng và sự dũng cảm nơi cô cũng rút xuống cùng với những lo lắng ấy, khiến cô cảm thấy thật yếu đuối và chỉ muốn tan vào trong vòng tay anh.
“Chào em, anh đang thắc mắc là em đi đâu mất, anh đang định để lại một lời nhắn cho em ở tủ lạnh. Mọi việc thế nào em?” – Anh hỏi.
“Cái gì cơ?”
“Standford ấy.”
“À, tốt.”
“Thế còn Lydia?”
Sự phản bội và nỗi đau từ cuộc gặp với Lydia, sự hụt hẫng khi về nhà mà không thấy anh, cảm giác kì lạ khi đi chạy bộ và nỗi sợ hãi khi bị lạc một cách khó hiểu đang hối thúc nhau đòi lên tiếng.
“Anh thử nói xem.”
“Hai mẹ con lại cãi nhau rồi.”
“Anh trả tiền học phí cho khóa học biểu diễn của con bé phải không?” – Cô buộc tội anh.
“À” – anh trả lời, cho nốt miếng kem Popsicle cuối cùng vào khuôn miệng đã bị nhuộm đỏ của mình. “Em nghe này, mình nói chuyện đó sau được không? Bây giờ anh không có thời gian để giải thích đâu.”
“John, anh sắp xếp thời gian đi. Anh giúp con bé lang thang bên ngoài mà không hề cho em biết và anh còn không ở nhà khi em về, còn...”
“Em cũng không ở nhà khi anh về mà. Buổi chạy bộ của em thế nào?”
Cô nghe thấy một lý do rất đơn giản trong câu hỏi của anh. Nếu như cô đợi anh, nếu như cô gọi điện và nếu như cô không làm những gì mình muốn thì cô đã có thể ở cùng anh trong hơn một tiếng vừa rồi. Cô không thể phủ nhận điều đó.
“Cũng tốt.”
“Anh xin lỗi. Anh đã đợi lâu nhất có thể nhưng anh phải quay lại phòng thí nghiệm rồi. Hôm nay anh đã có một ngày thật tuyệt vời, những kết quả tuyệt vời nhưng bọn anh vẫn chưa xong, anh còn phải phân tích các số liệu trước khi bắt đầu lại vào sáng mai. Anh chỉ về nhà để gặp em một chút thôi.”
“Em cần phải nói chuyện với anh ngay bây giờ.”
“Đây không phải là chuyện gì mới Ali. Chúng ta không có chung quan điểm về vấn đề của Lydia. Chúng ta không thể đợi đến khi anh về mới nói tiếp được à?”
“Không.”
“Em có muốn đi cùng anh sang trường để chúng ta vừa đi vừa nói chuyện không?”
“Em không muốn sang văn phòng, em cần phải ở nhà.”
“Em cần nói chuyện ngay bây giờ, em cần phải ở nhà, đột nhiên cái gì em cũng đòi hỏi luôn như thế. Còn chuyện gì nữa đúng không?”
Từ đòi hỏi anh nói đã chạm đến một dây thần kinh rất mẫn cảm của cô. Đòi hỏi đồng nghĩa với yếu đuối và phụ thuộc. Cha cô. Mục tiêu của cả đời cô là không bao giờ giống như ông ấy.
“Em rất mệt.”
“Ừ, trông em mệt lắm, em phải chậm lại một chút.”
“Đó không phải là điều em cần.”
Anh chờ cô nói thêm nhưng rất lâu sau cô vẫn không nói gì.
“Em nghe này, anh càng đi sớm thì sẽ được về càng sớm. Em nghỉ một chút đi, tối nay anh sẽ về.”
Anh hôn lên mái tóc ướt mồ hôi của cô rồi bước ra ngoài.
Cô đứng một mình gần cửa ra vào, nơi anh đã để cô lại một mình, không có một ai để giãi bày hay thú nhận, một lần nữa cô cảm nhận đầy đủ những cảm xúc đã ào ạt tràn qua cô như khi ở quảng trường Harvard. Cô ngồi thụp xuống sàn nhà, tựa lưng vào bức tường lạnh ngắt, nhìn chằm chằm vào đôi bàn tay đang run rẩy của mình đặt trong lòng như thể chúng không phải là của cô vậy. Cô cố gắng tập trung ổn định hơi thở như cô vẫn làm mỗi khi chạy thể dục.
Sau một vài phút cố gắng hít thở sâu cuối cùng cô cũng bình tĩnh hơn để tập trung suy nghĩ về những điều vừa xảy ra. Cô nghĩ đến cái từ đã biến mất khỏi đầu cô trong buổi diễn thuyết ở Stanford và kì kinh bị chậm của mình. Cô đứng dậy, bật máy tính và google từ khóa “các triệu chứng tiền mãn kinh”.
Một danh sách đáng kinh ngạc nhanh chóng xuất hiện trên màn hình: bốc hỏa, ra mồ hôi đêm, mất ngủ, mệt mỏi, lo lắng, chóng mặt, nhịp tim bất thường, trầm cảm, cáu kỉnh, dễ thay đổi cảm xúc, mất phương hướng, rối loạn tinh thần, suy giảm trí nhớ.
Mất phương hướng, rối loạn tinh thần, suy giảm trí nhớ. Tất cả những điều này đều xảy ra với cô. Cô dựa người ra sau ghế, luồn ngón tay vào trong mái tóc xoăn màu đen của mình. Cô nhìn vào những bức ảnh đang để trên chiếc giá sách cao đến trần nhà: ảnh ngày cô tốt nghiệp Harvard, cô và John cùng nhau khiêu vũ trong ngày cưới của họ, ảnh cả nhà khi lũ trẻ còn nhỏ và trong ngày cưới của Anna. Cô nhìn lại danh sách đang hiện trên màn hình. Đây chỉ là những điều tự nhiên, một giai đoạn mới trong cuộc đời một người phụ nữ. Mỗi ngày có hàng triệu phụ nữ phải đối mặt với vấn đề này. Không có gì đe dọa cuộc sống của cô cả. Cũng không có gì khác thường hết.
Cô viết thư gửi bác sĩ riêng hẹn một buổi kiểm tra. Có lẽ cô nên sử dụng liệu pháp thay thế estrogen. Cô đọc lại danh sách các triệu chứng một lần nữa. Cáu kỉnh. Dễ thay đổi cảm xúc. Những biểu hiện gần đây của cô với John. Tất cả đều đúng như vậy. Cảm thấy hài lòng nên cô đưa tay tắt máy.
Cô ngồi trong bóng tối thêm một chút nữa, lắng nghe ngôi nhà yên ắng của mình và cả âm thanh truyền sang từ bữa tiệc thịt nướng của nhà hàng xóm. Cô hít vào mùi thịt hamburger nướng. Không hiểu sao cô lại không thấy đói nữa. Cô uống một viên vitamin bổ sung, lấy đồ đạc trong vali ra, đọc một vài bài báo trong cuốn Tạp chí Tri thức rồi đi ngủ.
Khoảng sau nửa đêm John về. Trọng lượng của anh khi nằm lên giường đánh thức cô nhưng chỉ một chút thôi. Cô nằm yên, giả vờ vẫn đang ngủ. Chắc hẳn anh đã rất mệt vì phải thức cả đêm rồi lại phải làm việc cả ngày. Họ có thể nói về chuyện của Lydia vào sáng mai. Và cô sẽ xin lỗi anh vì gần đây đã quá nhạy cảm, dễ xúc động. Bàn tay ấm áp của anh đặt trên hông cô, kéo cô vào lòng anh. Hơi thở nhẹ nhàng của anh vấn vương trên cổ đưa cô vào một giấc ngủ sâu, cô tin rằng mình đã được an toàn.
Danh sách chương
- - 1 - THÁNG CHÍN, NĂM 2003
- - 2 - THÁNG MƯỜI, NĂM 2003
- - 3 - THÁNG MƯỜI MỘT, NĂM 2003
- - 4 - THÁNG MƯỜI HAI, NĂM 2003
- - 5 - THÁNG MỘT, NĂM 2004
- - 6 - THÁNG HAI, NĂM 2004
- - 7 - THÁNG BA, NĂM 2004
- - 8 - THÁNG TƯ, NĂM 2004
- - 9 - THÁNG NĂM, NĂM 2004
- - 10 - THÁNG SÁU, NĂM 2004
- - 11 - THÁNG BẢY, NĂM 2004
- - 12 - THÁNG TÁM, NĂM 2004
- - 13 - THÁNG CHÍN, NĂM 2004
- - 14 - THÁNG MƯỜI, NĂM 2004
- - 15 - THÁNG MƯỜI, NĂM 2004
- - 16 - THÁNG MƯỜI MỘT, NĂM 2004
- - 17 - THÁNG MƯỜI HAI, NĂM 2004
- - 18 - THÁNG MỘT, NĂM 2005
- - 19 - THÁNG HAI, NĂM 2005
- - 20 - THÁNG BA, NĂM 2005
- - 21 - THÁNG TƯ, NĂM 2005
- - 22 - THÁNG NĂM, NĂM 2005
- - 23 - THÁNG SÁU, NĂM 2005
- - 24 - MÙA HÈ NĂM 2005
- - 25 - THÁNG CHÍN, NĂM 2005
- KẾT
- THÔNG TIN HỮU ÍCH VỀ BỆNH ALZHEIMER