- 7 - THÁNG BA, NĂM 2004
Alice mở nắp ngăn để thuốc dành cho thứ Hai trong chiếc hộp thuốc nhựa chia thuốc cho bảy ngày của cô, rồi dốc bảy viên thuốc nhỏ bé vào bàn tay đang khum lại. John đi vào bếp để tìm gì đó, nhưng vừa thấy thuốc trên tay cô thì anh lập tức xoay người rời đi như thể anh lỡ vào phòng mẹ khi bà đang thay quần áo. Anh không muốn nhìn thấy cô uống thuốc. Hoặc có thể anh sợ nếu nói chuyện thì cô có thể bị phân tâm và lẫn lộn thuốc ở các ngăn, nên anh rời phòng. Mọi chuyện cứ thế kết thúc trong im lặng.
Alice nuốt liều thuốc với ba ngụm trà nóng hổi đến cháy họng. Cảm giác thật sự không dễ chịu với cô chút nào. Cô ngồi vào bàn bếp, thổi nguội trà rồi nghe tiếng chân đi thình thịch của John phát ra từ phòng ngủ trên lầu.
Cô hỏi vọng lên: “Anh đang tìm gì vậy?”
“Không có gì” – Anh trả lời thật to.
Có lẽ John đang tìm cặp kính. Từ cái tháng họ đến gặp chuyên gia tư vấn di truyền, anh đã thôi nhờ vợ mình tìm giúp kính mắt và chìa khóa xe, mặc dù cô biết rằng anh vẫn đang vật lộn với việc tìm kiếm chúng.
Anh vội vàng đi vào bếp, với vẻ hấp tấp.
“Em giúp được không?” – Cô hỏi.
“Không, anh ổn mà.”
Alice tự hỏi không biết cái tính tự lập cứng đầu này từ đâu ra. Liệu có phải John đang cố san sẻ bớt gánh nặng tinh thần với cô vì trước đây cô luôn phải để mắt đến những thứ anh thường để lạc? Liệu có phải anh đang chuẩn bị cho một tương lai sống thiếu cô? Hay liệu anh cảm thấy ngượng vì nhờ một bệnh nhân Alzheimer giúp? Cô nhấp một ngụm trà rồi nhìn đăm đăm vào bức tranh vẽ một quả táo và một quả lê đã treo trên tường ít nhất một thập kỉ và lắng nghe tiếng John lục lọi trong đống thư từ và giấy tờ trên cái quầy bếp sau lưng cô.
Cô nghe tiếng chiếc tủ ngoài hành lang trước mở ra, rồi tiếng đóng lại. Cô nghe tiếng các ngăn kéo được kéo ra rồi đẩy vào.
“Em chuẩn bị chưa?” – Anh gọi cô.
Cô uống vội tách trà của mình và ra hành lang với anh. John đã khoác áo, kính cài trên mái đầu tổ quạ và chìa khóa đã cầm trên tay.
“Rồi anh” – Alice trả lời và theo anh ra ngoài.
Mùa xuân ở Cambridge bắt đầu rồi, nhưng sẽ chẳng ai công nhận điều đó và có khi còn ngờ vực, ngỡ rằng thời gian đang đánh lừa mình. Không một chồi non trên cành, không một bông uất kim hương nào đủ dũng cảm hay ngu ngốc trồi lên khỏi lớp tuyết đã đóng lại cả tháng nay và lũ ếch cây tí hon cũng chưa hòa ca. Đường phố vẫn còn chật hẹp vì bị những khối tuyết nhớp bẩn chèn hai bên. Chút tuyết nào tan ra trong hơi ấm giữa ngày đều đông lại khi nhiệt độ tụt xuống đột ngột lúc xế chiều khiến cho đường đi trong khuôn viên trường Harvard và hè phố biến thành những dải băng đen sì trơn tuột. Ngày tháng ghi trên lịch chỉ khiến mọi người cảm thấy bị lừa phỉnh, cợt nhạo, và nghĩ đến mùa xuân đã bắt đầu ở một nơi nào khác, nơi mà người ta mặc áo thun ngắn tay, thức dậy trong tiếng chim oanh lảnh lót. Còn ở đây, cái lạnh khủng khiếp vẫn không thuyên giảm và tiếng chim duy nhất Alice nghe thấy lúc họ đi vào khuôn viên trường là tiếng quạ.
John đã đồng ý cùng cô đi dạo trong Harvard mỗi sáng. Cô nói với anh rằng cô không muốn liều đi một mình để rồi bị lạc. Thật ra cô chỉ muốn dành khoảng thời gian quý giá này cùng anh, để bắt đầu lại thói quen trước đây họ thường làm vào mỗi sáng. Nhưng tệ thật, sau khi cân nhắc về việc bị thương do trượt ngã trên tuyết hay là bị xe tông cái nào nguy hiểm hơn, cuối cùng một người đi trước, một người đi sau, họ chẳng thể trò chuyện với nhau.
Hòn sỏi văng lên, lọt vào ủng của cô. Cô băn khoăn không biết nên dừng trên đường để lấy nó ra, hay đợi đến khi họ vào quán Jerri’s. Để lấy hòn sỏi ra, cô phải đứng thăng bằng trên đường bằng một chân còn chân kia thì phơi ra ngoài không khí lạnh thấu xương. Cô quyết định chịu đựng sự khó chịu này, đi qua thêm hai dãy nhà nữa.
Nằm trên Đại lộ Massachusetts, giữa đoạn đường đi từ quảng trường Porter đến quảng trường Harvard, từ lâu quán Jerri’s đã trở thành một địa điểm quen thuộc ở Cambridge dành cho những người nghiện cà phê lâu năm, trước cả khi Starbucks có mặt. Thực đơn gồm café, trà, bánh ngọt và bánh mì kẹp được viết hoa bằng phấn trên chiếc bảng đặt ở phía sau quầy. Cái bảng ấy vẫn không thay đổi gì từ những ngày Alice còn học cao học. Chỉ có giá tiền ghi bên cạnh mỗi món cho thấy những dấu hiệu được quan tâm gần đây. Chúng được vẽ viền bằng bụi phấn trên giẻ xóa bảng và được viết bởi một ai khác chứ không phải tác giả của những chữ viết bên trái chúng. Alice mơ hồ quan sát tấm bảng.
“Chào buổi sáng, Jess, cho tôi một café và một bánh quế nướng” – John gọi món.
“Tôi cũng vậy” – Alice nói.
“Em đâu có thích café” – John nói tiếp.
“Có, em thích.”
“Không, không đâu. Cô ấy sẽ dùng trà với chanh.”
“Tôi muốn một café với bánh nướng.”
Jess chờ xem liệu John có tiếp tục tranh cãi với Alice, nhưng rồi anh im lặng.
“Rồi, hai café và hai bánh nướng” – Jess chốt lại.
Ra khỏi quán, Alice nhấp một ngụm. Ly café của cô đắng ngắt đến khó chịu và vị của nó chẳng giống gì với mùi thơm hấp dẫn mà nó thể hiện.
“Café của em ngon không?” – John hỏi cô.
“Ngon tuyệt.”
Trong khi họ đi vào khuôn viên, Alice thưởng thức món café mà cô chẳng ưa thích gì để trêu tức John. Cô không thể đợi đến lúc được ở một mình trong văn phòng của mình, nơi mà cô có thể vứt phần còn lại của thức uống kinh khủng cô đã gọi. Hơn nữa, cô muốn lấy viên sỏi chết tiệt khỏi ủng.
SAU KHI CỞI ỦNG RA, vứt café vào thùng rác, việc đầu tiên Alice làm là kiểm tra hộp thư của cô. Cô mở một bức thư điện tử từ Anna.
Chào Mẹ,
Tụi con muốn tham dự bữa tối gia đình, nhưng tuần này hơi khó vì vụ xét xử của Charlie. Tuần sau thì sao Mẹ? Ngày nào tiện cho Bố và Mẹ? Tối nào tụi con cũng rảnh trừ thứ Năm và thứ Sáu.
Anna
Cô nhìn xuống con trỏ chuột đang nhấp nháy một cách khó chịu trên màn hình máy vi tính và cố nghĩ ra những từ cô muốn dùng để trả lời. Việc truyền đạt ý nghĩ của cô thành lời nói, chữ viết hay đánh máy đòi hỏi một nỗ lực đáng kể và những lời động viên nhẹ nhàng. Rồi cô gom chút tự tin về những từ ngữ mà lâu nay nhờ có chúng, cô nhận được những ngôi sao vàng và khen thưởng dành cho giáo viên.
Điện thoại đổ chuông.
“Chào mẹ.”
“Ôi hay quá, mẹ đang định trả lời email của con.”
“Con đâu có gửi email cho mẹ.”
Cảm thấy không chắc chắn, Alice đọc lại bức thư trên màn hình.
“Mẹ vừa đọc này. Charlie phải ra tòa tuần này...”
“Mẹ ơi, con là Lydia này.”
“Ôi, con làm gì mà dậy sớm vậy?”
“Bây giờ ngày nào con cũng dậy sớm. Con muốn gọi cho bố mẹ từ tối qua, nhưng mà lúc đó trễ quá rồi. Con vừa nhận được một vai cực hay trong một vở kịch tên là Ký ức của nước, do một đạo diễn xuất chúng chỉ đạo và vở kịch sẽ được diễn sáu lần trong tháng năm. Con nghĩ là sẽ hay lắm, và nhờ đạo diễn này, sẽ có nhiều người chú ý đến. Con đang hi vọng bố mẹ có thể đến xem.”
Alice nhận ra đoạn lên giọng rồi một khoảng lặng sau đó nghĩa là đến lượt cô nói, và cô phải tiếp tục chủ đề Lydia đang nói đến. Alice thường lúng túng khi nói chuyện qua điện thoại vì cô không thấy được biểu hiện của người đối diện. Từ ngữ đôi khi lẫn lộn vào nhau, chủ đề nói chuyện thay đổi đột ngột cũng làm cô khó tương tác và không thể theo kịp cuộc nói chuyện, rồi cô không hiểu được cuộc nói chuyện nữa. Mặc dù viết ra cũng có những vấn đề riêng, nhưng cô có thể giấu những vấn đề ấy đi bởi cô không phải trả lời ngay tức khắc.
“Nếu mẹ không muốn, mẹ không phải trả lời đâu” – Lydia nói tiếp.
“Không, mẹ muốn chứ, nhưng…”
“Hoặc là mẹ bận quá hay có bất cứ lý do gì đi nữa. Con biết là con nên gọi cho bố thì hơn.”
“Lydia,...”
“Không sao đâu, con cúp máy đây.”
Cô gác máy. Alice đã định nói là cô cần phải bàn với John rằng nếu anh có thể xin nghỉ ở phòng thí nghiệm thì cô sẽ đến xem ngay. Còn nếu John không đi được, cô không thể đi máy bay qua đầu bên kia đất nước một mình, và cô phải viện một lý do nào đó. Vì cô lo rằng khi ở xa nhà, cô sẽ đi lạc hay hoảng loạn, lâu nay cô vẫn tránh đi xa. Cô từ chối lời đề nghị phát biểu ở Đại học Duke tháng tới và cũng vứt luôn tài liệu đăng kí cuộc Hội thảo Ngôn ngữ học mà thời cao học cô vẫn hay tham dự. Cô muốn xem vở diễn của Lydia, nhưng lần này, việc cô có đến được hay không còn phụ thuộc vào việc John rảnh hay bận.
Cô cầm lấy điện thoại, định gọi lại cho Lydia. Nhưng cô lại đặt điện thoại xuống, suy nghĩ kỹ hơn. Cô tắt thư trả lời đang định viết cho Anna và soạn một thư khác cho Lydia. Cô nhìn chăm chăm vào con trỏ chuột, ngón tay cô tê liệt trên bàn phím. Não cô ngày hôm nay như hết pin vậy.
“Thôi nào” – cô tự hối thúc bản thân, ước gì cô có thể cắm vài sợi cáp điện vào đầu và sạc đầy năng lượng lại.
Cô không có thời gian dành cho bệnh Alzheimer vào hôm nay. Cô có những thư điện tử phải trả lời, một đề xuất khổng lồ phải soạn, một lớp học và một cuộc hội nghị chuyên đề phải tham dự. Và cuối ngày, một buổi chạy bộ nữa. Có thể chạy bộ sẽ giúp cô tỉnh táo hơn một chút.
ALICE NHÉT MỘT MẢNH GIẤY ghi tên, địa chỉ và số điện thoại của cô vào tất. Dĩ nhiên, nếu cô đãng trí quá đến mức không nhớ đường về thì có khi cô cũng không nhớ nổi rằng cô mang theo một mảnh giấy hữu ích đến vậy trên người. Nhưng dẫu sau cô cũng cần một giải pháp dự phòng.
Chạy bộ ngày càng mất hiệu quả trong việc giúp cô minh mẫn hơn. Thực tế là những ngày này cô cảm thấy giống như cô đang rượt theo những câu trả lời trôi trong một dòng chảy vô tận của những câu hỏi. Và mặc cho cô cố gắng đến mấy, cô cũng không thể nào bắt kịp.
Tôi phải làm gì đây? Cô uống thuốc, ngủ sáu đến bảy tiếng một ngày và bám vào cuộc sống thường ngày ở Harvard.
Cô cảm thấy như một kẻ lừa đảo trong cái lốt một giảng viên Đại học Harvard, không có bệnh thoái hóa thần kinh nào đang tiến triển, làm việc hàng ngày như thể mọi thứ vẫn ổn và sẽ tiếp tục như thế.
Tiêu chuẩn cho hiệu quả công việc hay trách nhiệm trong cuộc sống hàng ngày của một giảng viên cũng không có gì nhiều. Cô không phải dè chừng chi tiêu, không phải đặt ra hạn ngạch mua sắm cho mình, không phải viết báo cáo để nộp. Cô vẫn có thể sai phạm, nhưng đến chừng nào? Sau cùng hành động của cô cũng sẽ đi đến một mức độ khiến cô bị chú ý và không được chấp nhận nữa. Cô muốn rời Harvard trước đó, trước khi những lời đàm tiếu diễn ra, nhưng cô không biết khi nào cô nên rời đi.
Và mặc dù cái ý nghĩ ở lại quá lâu làm cô thấy sợ, ý nghĩ rời Harvard còn khiến cô sợ hơn rất, rất nhiều. Cô sẽ là ai, nếu không phải là một giáo sư Tâm lý học ở Harvard?
Liệu cô nên dành thời gian ở bên John càng nhiều càng tốt? Làm vậy có thực sự có ý nghĩa không? Ngồi cạnh Anna khi cô gõ những bản báo cáo, theo dõi Tom trong từng vòng thi của anh, quan sát Lydia trong lớp diễn xuất? Làm sao cô có thể bảo các con rằng chúng có năm mươi phần trăm khả năng mắc phải bệnh này? Và sẽ ra sao nếu chúng trách cô và ghét cô như cô đã trách và ghét bố mình?
John còn quá trẻ để về hưu. Anh thật sự có thể bỏ ra bao nhiêu thời gian mà không hủy hoại sự nghiệp của mình? Thời gian cô có là bao nhiêu? Hai năm? Hai mươi năm?
Mặc dù bệnh Alzheimer đối với những trường hợp khởi phát sớm có xu hướng tiến triển nhanh hơn những người khởi phát trễ, những người bệnh khởi phát sớm thường phải sống với căn bệnh nhiều năm hơn. Căn bệnh thần kinh này trú ngụ trong những cơ thể tương đối trẻ và khỏe mạnh. Cô có thể duy trì mọi thứ, nhưng cũng phải chịu đựng một kết cục tàn nhẫn. Cô sẽ không thể tự ăn, không thể nói, không thể nhận ra John và các con cô. Cô sẽ co quắp, sẽ quên cách nuốt thức ăn và sẽ phải chịu bệnh viêm phổi. Rồi John, Anna, Tom và Lydia sẽ thống nhất rằng không chữa bệnh bằng một liều kháng sinh bình thường nữa, họ sẽ rối bời trong cảm giác tội lỗi hơn là biết ơn vì thứ gì đó sau cùng cũng đến và hủy hoại thân thể cô.
Cô ngừng chạy, nôn hết phần lasagna cô đã ăn trong bữa trưa. Phải hơn vài tuần nữa tuyết mới tan nổi để rửa trôi nó đi.
CÔ BIẾT CHÍNH XÁC NƠI CÔ ĐANG ĐỨNG, CÔ đang trên đường về nhà, trước Nhà thờ Hội Thánh Giám Lý, chỉ cách nhà cô vài dãy nhà. Cô biết chính xác cô ở đâu, nhưng chưa bao giờ cô có cảm giác lạc lối như vậy. Dàn chuông nhà thờ bắt đầu ngân lên một giai điệu khiến cô nhớ lại chiếc đồng hồ của ông bà cô. Cô xoay cái nắm tròn bằng sắt trên cánh cửa màu đỏ cà chua rồi tiến vào theo cái cảm giác đang thôi thúc mình từ bên trong.
Cô cảm thấy nhẹ nhõm vì không có ai ở trong, bởi cô chưa kịp nghĩ ra một câu chuyện hợp lý nào để giải thích tại sao cô lại có mặt ở đây. Mẹ cô là người Do Thái, nhưng bố cô luôn quyết tâm dưỡng dục cô và Anne theo Công Giáo. Thế là cô đi lễ mỗi chủ nhật, nhận thánh thể, đi xưng tội và được thêm sức, nhưng vì mẹ cô không bao giờ tham gia vào bất cứ hoạt động nào, nên Alice bắt đầu phân vân về sự thật của những niềm tin này từ lúc bé. Và vì không nhận được một câu trả lời nào thỏa mãn từ bố hay từ phía nhà thờ, cô chưa bao giờ có một niềm tin thật sự.
Ánh sáng từ đèn đường len lỏi qua các ô kính màu, rọi vào trong đủ sáng để cô thấy được toàn cảnh nhà thờ. Trên mỗi ô cửa, Đức Jesus, khoác áo choàng màu đỏ và trắng, được khắc họa như một người mục đồng hay một thầy thuốc đang thực hiện một phép màu chữa bệnh. Biểu ngữ bên phải cung thánh khắc dòng chữ ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ NƠI NƯƠNG NÁU VÀ SỨC LỰC CỦA CHÚNG TÔI, NGÀI SẴN GIÚP ĐỠ TRONG CƠN GIAN TRUÂN.
Cô đang vướng phải khó khăn trầm trọng và muốn được giúp đỡ hết mức. Nhưng cô cảm thấy mình như một kẻ tội đồ, không xứng đáng, không thành kính. Cô là ai mà có thể cầu xin giúp đỡ từ Đức Chúa mà cô không chắc đã tin tưởng, ở trong nhà thờ mà cô chẳng biết gì về nó?
Alice nhắm mắt lại, lắng nghe sự bình lặng, tiếng xe cộ dập dìu như tiếng sóng biển và cô cố mở lòng. Cô không biết cô đã ngồi trên băng ghế bọc đệm nhung trong nhà thờ lạnh lẽo tối tăm, mong đợi một câu trả lời trong bao lâu. Chẳng có câu trả lời nào cả. Cô đợi lâu hơn, hy vọng một tu sĩ hay một giáo dân sẽ ghé qua và hỏi tại sao cô ở đây. Giờ cô đã có một lý do. Nhưng chẳng ai đến cả.
Cô nghĩ đến những tấm danh thiếp cô nhận được từ bác sĩ Davis và Stephanie Aaron. Có lẽ cô nên nói chuyện với một nhà hoạt động xã hội hay một bác sĩ trị liệu. Có khi họ giúp được cô. Rồi chợt một tia sáng lóe lên trong đầu cô, câu trả lời đến với cô.
Nói chuyện với John.
CÔ CẢM THẤY MÌNH BẤT LỰC trước đợt công kích cô lãnh phải khi vừa bước vào nhà.
“Em vừa đi đâu vậy?” – John hỏi cô.
“Em chạy bộ.”
“Em chạy bộ nãy giờ sao?”
“Em cũng ghé vào nhà thờ.”
“Nhà thờ? Anh không tin được. Ali. Xem này, em không uống café, em cũng không đi nhà thờ đâu.”
Cô ngửi thấy mùi rượu trong hơi thở của John.
“Vâng, nhưng hôm nay thì có.”
“Chúng ta đã định đi ăn tối với Bob và Sarah. Anh phải gọi họ và hủy cuộc hẹn, em không nhớ sao?”
Ăn tối với bạn của họ, Bob và Sarah, không có trong lịch của cô.
“Em quên, em mắc bệnh Alzheimer.”
“Anh hoàn toàn không biết được em ở đâu nếu em lạc. Em phải bắt đầu mang theo điện thoại di động mọi lúc đi.”
“Em không thể mang theo lúc em chạy, quần áo em đâu có túi.”
“Anh không cần biết em làm thế nào, kể cả dán lên đầu, anh sẽ không chịu nổi mỗi lần em quên cuộc hẹn.”
Cô theo John vào phòng khách. Anh ngồi phịch xuống ghế sofa, cầm ly rượu trên tay và không ngước lên nhìn cô. Mồ hôi trên trán anh lấm tấm y như những giọt nước đọng quanh ly rượu scotch của anh. Cô chần chừ, rồi ngồi vào lòng anh, vòng tay qua vai anh ôm anh thật chặt, bàn tay cô nắm lấy khuỷu tay kia, cô tựa đầu vào anh rồi cô tâm sự.
“Em xin lỗi vì em quên cuộc hẹn và vì em đã mắc căn bệnh này. Em không thể chịu được cái suy nghĩ là bệnh sẽ nặng thêm bao nhiêu nữa. Em không thể chịu được ý nghĩ phải nhìn anh mỗi ngày, nhìn gương mặt người em yêu thương mà không biết anh là ai.”
Bàn tay cô vuốt theo cạnh gương mặt anh rồi xuống cằm, rồi xuống nếp nhăn bên khóe miệng chẳng mấy khi hiện lên vì đau đớn. Cô lau mồ hôi trên trán anh và nước mắt của anh.
“Chỉ nghĩ đến căn bệnh thôi cũng đủ làm em nghẹn thở. Nhưng ta phải nghĩ đến nó. Em không biết em còn nhớ ra anh được bao lâu nữa. Chúng ta cần bàn về chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.”
Anh uống một hơi đến hết ly rượu, nuốt xuống từng ngụm đến cạn hết và ráng mút lấy chút rượu còn đọng ở mấy viên nước đá. Anh nhìn cô bằng ánh mắt buồn rười rượi xen lẫn nỗi sợ hãi. Cô chưa bao giờ thấy ánh mắt anh như thế.
“Anh không biết mình làm được không.”