← Quay lại trang sách

- 9 - THÁNG NĂM, NĂM 2004

Lúc đầu Alice nghĩ trong tuần sẽ đi thám thính tình hình sau khi cô nhận được chẩn đoán bệnh, nhưng cô lại không đi. Bánh quy may mắn, tử vi, bài tarot và các nhà trợ sinh đều không gợi lên chút hứng thú gì ở cô. Mặc cho căn bệnh ngày càng đến gần hơn, cô vẫn nhàn tản không màng đến tương lai của mình. Không có gì đặc biệt vào sáng hôm đó làm cho cô thấy tò mò hay có dũng khí tham quan Viện dưỡng lão Mount Auburn Manor. Nhưng hôm nay, cô đã đặt chân đến đấy.

Hành lang chẳng có gì đáng sợ. Một bức tranh màu nước vẽ cảnh biển treo trên tường, tấm thảm phương Đông đã sờn trải dưới sàn, một người phụ nữ với cặp mắt trang điểm cực đậm và mái tóc đen ngắn ngồi bên chiếc bàn xoay ra phía cửa trước. Hành lang này có thể bị nhầm lẫn với kiểu hành lang của khách sạn, nhưng chỉ khác ở mùi thuốc nhè nhẹ, không có hành lý, không có người giữ cửa và những người ra vào nơi đây không giống như ở khách sạn. Họ sống ở đây chứ không phải khách.

“Tôi có thể giúp gì cho bà?” – Người phụ nữ hỏi.

“À, vâng. Ở đây có nhận bệnh nhân Alzheimer không?”

“Có, chúng tôi có một đơn vị chuyên chăm sóc các bệnh nhân Alzheimer. Bà có muốn xem qua không?”

“Vâng.”

Cô đi theo người phụ nữ đến thang máy.

“Cô đến tìm bố hay mẹ hả?”

“Đúng vậy” – Alice trả lời.

Họ phải đợi. Thang máy ở đây cũng già nua và chậm chạp y như những người chúng thường chuyên chở.

“Dây chuyền của bà dễ thương quá” – người phụ nữ khen.

“Cảm ơn.”

Alice đặt tay lên ngực rồi miết ngón tay lên viên đá xanh đính trên đôi cánh của mặt dây chuyền hình bướm theo phong cách nghệ thuật cách tân của mẹ cô. Mẹ cô ngày xưa chỉ thường đeo nó vào lễ kỉ niệm, lễ cưới, và cũng giống mẹ, Alice để dành nó cho những dịp đặc biệt quan trọng. Nhưng trên lịch của cô không có dịp nào trọng đại, và cô thích sợi dây chuyền nên một ngày vào tháng trước, cô đã đeo thử trong khi mặc quần jeans và áo thun. Sợi dây chuyền trông rất hợp với trang phục của cô.

Vả lại, cô thích được nhắc về hình ảnh bươm bướm. Cô nhớ khi cô sáu hay bảy tuổi, cô đã ở ngoài sân khóc cho số phận của loài bướm vốn chỉ sống được vài ngày. Mẹ của cô đã dỗ dành cô và nói với cô không phải buồn cho loài bướm, vì cuộc đời chúng tuy ngắn nhưng không phải là một thảm kịch. Ngắm nhìn chúng bay dưới ánh mặt trời ấm áp giữa những đóa hoa cúc trong vườn, rồi mẹ cô bảo, con thấy đấy, chúng có một cuộc đời tươi đẹp. Alice thích nhớ về kỉ niệm ấy.

Họ rời thang máy, bước vào tầng ba và đi dọc theo hành lang dài trải thảm, đi qua hàng loạt các cánh cửa đôi rồi dừng lại. Người phụ nữ quay người về phía cánh cửa tự động khép lại sau lưng họ và giới thiệu.

“Đơn vị Chăm sóc đặc biệt cho bệnh nhân Alzheimer được khóa, tức là nếu không biết mật mã thì không thể ra vào những cánh cửa này được.”

Alice nhìn vào bàn phím số trên tường ngay cạnh cánh cửa. Các con số được sắp xếp tách rời nhau theo thứ tự ngược từ dưới lên và từ phải sang.

“Tại sao phải sắp xếp những con số như vậy?”

“À, để những người ở đây không học thuộc được mật mã.”

Dường như đây là một sự cẩn thận quá mức. Nếu mà họ nhớ nổi mật mã thì họ đâu có cần phải sống ở đây.

“Tôi không biết bà đã thấy bố mẹ mình như thế này chưa, nhưng cảnh lang thang và thức suốt đêm là những biểu hiện rất phổ biến của bệnh nhân Alzheimer. Đơn vị của chúng tôi cho phép các bệnh nhân ở đây đi dạo mọi lúc, nhưng phải đảm bảo họ an toàn và không đi lạc. Chúng tôi cũng không cho họ dùng thuốc an thần hay giữ họ trong phòng vào ban đêm. Chúng tôi cố gắng để họ duy trì sự tự do và độc lập càng nhiều càng tốt. Chúng tôi biết đây là điều quan trọng với họ và cả gia đình của họ.”

Một người phụ nữ tóc bạc trắng, thân hình nhỏ nhắn khoác lên bộ đồ ngủ tuềnh toàng bước đến đối diện Alice.

“Cô không phải con gái tôi.”

“Không, xin lỗi, tôi không phải.”

“Trả tiền lại đây!”

“Cô ấy không lấy tiền của bà, Evelyn. Tiền của bà ở trong phòng. Kiểm tra ngăn tủ trên cùng xem, tôi nghĩ bà để tiền trong đấy.”

Bà lão nhìn chằm chằm vào Alice với một vẻ nghi ngờ khinh khỉnh, nhưng sau đó bà nghe lời người chăm sóc và lê về phòng trên đôi dép vải lông trắng đã ố bẩn của bà.

“Bà ấy có một tờ tiền hai mươi đô la mà bà ấy luôn giấu đi vì sợ ai đó sẽ lấy trộm. Và dĩ nhiên là bà ấy quên mất để nó ở đâu và buộc tội mọi người đã lấy nó. Chúng tôi ráng thuyết phục bà tiêu tờ tiền đi hoặc là gửi ngân hàng, nhưng bà ấy không chịu. Đôi lúc bà ấy quên mất mình có tờ tiền, thế nên có tiền cũng như không.”

Thoát khỏi cuộc điều tra hoang tưởng của Evelyn, họ đi tiếp đến một phòng sinh hoạt chung ở cuối hành lang mà không bị ai cản đường nữa. Căn phòng đầy người già đang ăn trưa quanh những chiếc bàn tròn. Quan sát kĩ hơn một chút, Alice nhận ra căn phòng hầu như chỉ toàn những bà lão.

“Chỉ có ba ông lão thôi à?”

“Thật ra chỉ có hai trong ba mươi hai bệnh nhân ở đây là đàn ông. Ông Harold đến đây mỗi ngày để dùng bữa với vợ mình.”

Có lẽ vì phải theo luật chơi của trò con rận thuở bé nên hai ông lão mắc Alzheimer ngồi cạnh nhau ở bàn của họ, tách khỏi những bà lão. Những người đi qua đi lại làm khoảng trống giữa các bàn trong chật chội. Nhiều bà lão ngồi trên xe lăn. Hầu hết họ đều có mái tóc trắng lưa thưa và đôi mắt sâu hoắm được phóng to lên bởi cặp kính dày. Cả khi ăn, cử động của họ cũng thật chậm. Không tương tác, không nói chuyện với nhau, cả Harold và vợ ông cũng vậy. Âm thanh duy nhất ngoài tiếng phát ra từ việc ăn uống là một bà lão vừa ăn vừa hát, chiếc kim đọc đĩa của cái máy hát trong bà nhảy lên nhảy xuống tiêu đề bài hát “Dưới ánh trăng bạc”. Không có ai phàn nàn hay khen ngợi gì.

Dưới ánh trăng bạc.

“Chắc bà cũng đoán được, đây là phòng ăn và phòng sinh hoạt của chúng tôi. Các bệnh nhân dùng bữa sáng, trưa và tối ở đây mỗi ngày. Việc dự đoán các thói quen có thể rất quan trọng. Các hoạt động khác cũng diễn ra ở đây. Chúng tôi có các hoạt động như chơi bowling, ném bao đậu, đố vui, nhảy múa và làm đồ thủ công. Họ đã làm những ngôi nhà cho chim đáng yêu này vào sáng nay. Và chúng tôi cho người đọc báo cho họ mỗi ngày để họ cập nhật được sự kiện diễn ra ở hiện tại.”

Dưới ánh

“Ở đây có vô vàn cơ hội cho bệnh nhân giữ được cơ thể và tinh thần của họ bận rộn và phong phú đến chừng nào có thể.”

trăng bạc.

“Chúng tôi luôn hoan nghênh gia đình và bạn bè của họ đến, tham gia vào mọi hoạt động ở đây, và dùng bữa cùng với người họ yêu thương.”

Ngoài Harold ra, Alice không thấy người thân nào đến thăm. Không người chồng, người vợ hay con, cháu, bạn bè nào. “Chúng tôi cũng có một đội ngũ y tế được đào tạo chuyên nghiệp chăm sóc bất cứ bệnh nhân nào cần chăm sóc đặc biệt.”

Dưới ánh trăng bạc.

“Ở đây có ai dưới sáu mươi tuổi không?”

“Ồ không, người trẻ nhất cũng bảy mươi tuổi. Độ tuổi trung bình ở đây là tám mươi hai, tám mươi ba. Hiếm khi chúng tôi gặp ai trẻ hơn sáu mươi tuổi.”

Cô đang gặp một người đấy, quý cô.

Dưới ánh trăng bạc.

“Chi phí ở đây như thế nào?”

“Tôi có thể gửi cô một tập thông tin chi tiết khi ra ngoài, nhưng qua tháng Một, chi phí ở Đơn vị Chăm sóc đặc biệt cho bệnh nhân Alzheimer sẽ là tám mươi lăm đô la một ngày.”

Alice cố gắng thực hiện bài toán khó trong đầu. Khoảng một trăm nghìn đô la một năm. Nhân với năm, mười, hai mươi năm nữa.

“Bà có cần hỏi gì nữa không?”

Dưới ánh trăng

“Không, cảm ơn cô.”

Cô theo người hướng dẫn ra lại cánh cửa đôi đã khóa và xem cô ấy nhập mật mã.

0791925

Cô không thuộc về nơi này.

ĐÂY LÀ NGÀY HIẾM THẤY NHẤT Ở Cambridge, một ngày kỳ diệu mà những cư dân New England mơ về, một ngày mà mỗi năm người ta không tin nổi là có thật: nắng ấm, nhiệt độ đạt đến hai mươi mốt độ. Bầu trời xanh thẫm như sáp màu, cuối cùng cũng đến lúc không cần phải mặc áo ấm nữa. Một ngày mà mọi người không nên để phí thời giờ ngồi trong văn phòng, đặc biệt là với một người mắc bệnh Alzheimer. Cô lạc qua vài dãy nhà phía đông nam của Yard rồi đi vào quán Ben & Jerry’s. Cô hơi rùng mình vì những cô cậu sinh viên trốn học.

“Cho tôi một phần kem ốc quế ba viên kem bơ đậu.”

Ôi khốn thật, tôi đang dùng thuốc giảm mỡ máu.

Cô chiêm ngưỡng phần kem đồ sộ như giải Oscar, cô trả tiền bằng tờ bạc năm đô la rồi thả tiền thừa vào lọ tiền boa cho sinh viên, và tiếp tục đi đến sông Charles.

Nhiều năm nay cô đã đổi sang món yogurt đá, một món thay thế lành mạnh hơn và cô đã quên mất vị của món kem đặc sệt, béo ngậy và ngon lành như thế nào rồi. Cô nghĩ về những gì cô thấy ở Trung tâm dưỡng lão Mount Auburn Manor trong lúc vừa đi vừa thưởng thức món kem. Cô cần một kế hoạch hay hơn, một kế hoạch để cô không phải chơi ném bao đậu với bà Evelyn ở Đơn vị Chăm sóc đặc biệt cho bệnh nhân Alzheimer. Một kế hoạch không để John phải trút hết gia tài nuôi sống một người phụ nữ không còn nhận ra được anh, mà quan trọng hơn cả, là anh cũng không nhận ra nổi. Việc ở đây ngay lúc này với cô chẳng có nghĩa lý gì, vì gánh nặng cả về tình cảm lẫn tài chính hoàn toàn đè bẹp mọi lợi ích của việc đi dạo.

Cô đã phạm phải sai lầm, và cô đang chật vật để bù đắp lại, nhưng cô cảm thấy chắc chắn rằng, chỉ số IQ của cô đã tụt đến mức ít nhất là độ lệch chuẩn chỉ hơn được mức trung bình. Và người với chỉ số IQ trung bình thường không tự sát. Chà, một số người cũng có hành vi tự tử, nhưng không phải vì lý do liên quan đến chỉ số IQ.

Tuy trí nhớ mục ruỗng đi từng ngày, nhưng bộ não cô vẫn phục vụ cô rất hiệu quả trong vô số việc khác nhau. Ví dụ như, ngay trong lúc này, cô thưởng thức món kem mà không đổ một giọt kem nào ra ốc quế hay đổ ra tay nhờ kỹ thuật vừa ăn vừa xoay mà lúc nhỏ cô tự nghĩ ra và được lưu lại đâu đó gần vùng ký ức về cách đi xe đạp hay buộc dây giày. Cùng lúc đó, cô bước xuống lòng đường và băng qua đường, vùng não vận động và tiểu não của cô giải quyết những phương trình toán học phức tạp cần thiết để cô di chuyển sang bên kia đường mà không bị ngã hay bị xe tông phải. Cô nhận ra mùi hương ngọt ngào của hoa thủy tiên và mùi cà-ri thoảng bay ra từ nhà hàng Ấn ở góc phố. Từng chút kem tan trong miệng, cô khoan khoái trong vị ngon của chocolate và bơ đậu phộng, minh chứng cho dây thần kinh hưng cảm trong não cô vẫn hoạt động tốt. Sợi dây thần kinh ấy cho phép cô tận hưởng chuyện ân ái hay cảm nhận vị ngon của một chai rượu vang.

Nhưng một lúc nào đó, cô sẽ quên cách ăn kem ốc quế, quên cách buộc dây giày và quên cả cách bước đi. Một lúc nào đó, những sợi dây thần kinh hưng cảm của cô sẽ lụi tàn bởi sự tàn phá của amyloid tích tụ lại và cô sẽ không còn khả năng tận hưởng những thứ cô yêu thích. Và một lúc nào đó, sẽ chẳng còn lúc nào cả.

Cô ước gì mình bị ung thư. Cô sẽ đổi Alzheimer lấy ung thư ngay lập tức. Cô cảm thấy tủi nhục khi phải ước như vậy, một cuộc thương lượng thật vô ích, nhưng dù vậy cô vẫn tiếp tục mơ tưởng điều đó. Đối với ung thư, chí ít cô cũng có gì đó để chiến đấu. Cô có thể phẫu thuật, xạ trị, và hóa trị. Cô vẫn có cơ hội chiến thắng. Gia đình cô và những người ở Harvard sẽ luôn đứng đằng sau, hỗ trợ cô trong trận chiến và coi trọng nỗ lực của cô hơn. Và cho dù sau cùng cô có thất bại, cô vẫn nhìn vào mắt họ, nhận ra họ và chào tạm biệt trước khi ra đi.

Bệnh Alzheimer là một con quái vật hoàn toàn khác. Không thứ vũ khí nào có thể hạ được nó. Uống thuốc Aricept và Namenda cũng chẳng khác gì chĩa súng nước vào một trận hỏa hoạn. John tiếp tục thử nghiệm các loại thuốc trong phát triển lâm sàng, nhưng cô nghĩ rằng sẽ chẳng có thứ nào trong số chúng đáp ứng được và thay đổi gì nhiều cho cô, nếu có thì anh đã gọi cho bác sĩ Davis và quyết tâm để cô dùng chúng. Hiện tại, mọi bệnh nhân Alzheimer đều phải đối mặt với cùng kết cục, cho dù họ tám mươi hai tuổi hay năm mươi tuổi, dù là bệnh nhân ở nhà dưỡng lão Mount Auburn Manor hay một giáo sư tâm lý học ở Đại học Harvard. Trận hỏa hoạn sẽ nuốt chửng tất cả. Chẳng ai thoát được cả.

Và trong khi đầu bị cạo trọc cùng dải ruy băng vắt chéo vì bị ung thư được tôn vinh như huân chương cho lòng dũng cảm và hi vọng, thì những ngôn từ rối bời cùng với trí nhớ đang suy giảm chỉ phơi ra thần kinh không ổn định và bệnh mất trí của cô. Những người mắc bệnh ung thư có thể mong đợi hỗ trợ từ cộng đồng còn Alice chỉ có thể đợi đến lúc bị ruồng bỏ. Ngay cả những người tốt hay người có học cũng có xu hướng giữ khoảng cách với những bệnh nhân tâm thần vì sợ. Cô không muốn trở thành một người mà ai cũng thấy sợ và phải tránh né.

Nếu chấp nhận sự thật rằng cô mắc Alzheimer, cô chỉ có thể dựa vào hai thứ thuốc có tác dụng với Alzheimer, và cô không thể đổi lấy bất cứ căn bệnh có thể chữa được nào khác, Alice muốn làm gì? Giả sử Anna thụ tinh ống nghiệm thành công, cô muốn sống để chăm cháu ngoại mình. Cô muốn xem Lydia diễn một vở kịch nào đó khiến cô cảm thấy tự hào. Cô muốn thấy cảnh Tom hẹn hò. Cô muốn thêm một năm đi nghiên cứu cùng John. Cô muốn đọc mọi cuốn sách cô có thể đọc cho đến khi cô không đọc được nữa.

Cô cười, ngạc nhiên với những gì cô bày tỏ với chính mình. Trong những việc ấy, không có thứ gì liên quan đến Ngôn ngữ học, việc dạy học hay trường Harvard. Cô ăn miếng kem cuối cùng. Cô muốn được tận hưởng những ngày 21 độ và ăn kem ốc quế nhiều hơn nữa.

Và khi gánh nặng bệnh tật lớn đến áp đảo niềm vui từ món kem, cô chỉ muốn chết. Nhưng cô có thật sự tỉnh táo để nhận ra thời điểm khủng khiếp đó đã đến? Cô lo rằng trong tương lai, cô sẽ không thể nhớ và thực hiện kế hoạch đó được. Cô đâu thể nhờ John hay các con cô hỗ trợ cô trong việc này. Cô không bao giờ dồn bất cứ ai trong gia đình vào tình cảnh như thế.

Ngay bây giờ cô cần sắp xếp một kế hoạch để tự kết liễu cuộc đời mình trong tương lai. Cô cần lập nên một bài kiểm tra đơn giản, một bài kiểm tra mà cô có thể tự giám sát mình mỗi ngày. Cô nghĩ đến những câu hỏi của bác sĩ Davis và nhà tâm lý học thần kinh đã hỏi cô, những câu hỏi cô không thể trả lời trong tháng Mười Hai vừa rồi. Cô nghĩ về những gì cô vẫn đang muốn. Với những thứ ấy vốn không cần đến một trí tuệ sáng suốt để trả lời. Cô dự định sẽ sống được với một vài lỗ hổng lớn trong vùng ký ức ngắn hạn.

Cô lôi chiếc điện thoại BlackBerry ra từ chiếc giỏ Anna William màu xanh nhạt mà Lydia đã tặng cô trong sinh nhật. Cô mang chiếc giỏ mỗi ngày, khoác quai giỏ lên vai trái, khoác chéo lên hông bên phải. Chiếc giỏ trở thành món phụ kiện không thể tách rời giống như chiếc nhẫn cưới bạch kim và đồng hồ chạy bộ của cô. Và chiếc giỏ trông rất hợp với sợi dây chuyền bươm bướm. Alice đựng điện thoại BlackBerry và chìa khóa trong đó. Chỉ khi nào đi ngủ cô mới bỏ ra.

Cô bắt đầu gõ:

Alice, hãy trả lời những câu hỏi sau:

1. Bây giờ là tháng mấy?

2. Cô sống ở đâu?

3. Văn phòng của cô ở đâu?

4. Sinh nhật của Anna vào ngày nào?

5. Cô có bao nhiêu người con?

Nếu cô thấy khó trả lời bất cứ câu hỏi nào trong những câu trên, hãy mở thư mục “Bươm bướm” trên máy tính của cô và làm theo hướng dẫn ngay lập tức.

Cô chuyển báo thức sang chế độ rung và cài đặt lịch nhắc nhở cô đều đặn mỗi buổi sáng lúc tám giờ, cô thiết lập nhắc nhở vĩnh viễn. Cô nhận ra kế hoạch này cũng có nhiều vấn đề, hoàn toàn không đơn giản chút nào. Cô chỉ hi vọng cô mở được thư mục “Bươm bướm” trước khi cô trở nên ngớ ngẩn đến mức không xác định được.

CÔ CHẠY NHANH HẾT MỨC CÓ THỂ để đến lớp học vì sợ trễ, nhưng không có cô nên trong lớp học vẫn chưa có ai bắt đầu việc gì cả. Cô ngồi vào một chỗ bên cánh khán phòng, cách trung tâm về phía sau bên trái bốn hàng ghế. Một vài sinh viên lẻn vào qua cửa sau, nhưng hầu hết sinh viên trong lớp đã đến, sẵn sàng cho tiết học. Cô nhìn vào đồng hồ. 10 giờ 5 phút. Điều bất thường nhất là đồng hồ của cô khớp với giờ trên đồng hồ treo tường. Cô cố tỏ ra bận rộn.

Cô xem qua chương trình học và lướt qua ghi chú về buổi học trước. Cô đã lập một danh sách các việc phải làm trong ngày:

Phòng thí nghiệm

Hội nghị chuyên đề

Chạy

Nghiên cứu cuối cùng

Thời gian: 10 giờ 10 phút. Cô gõ cây viết theo nhịp bài hát “Sharora của tôi”.

Đám sinh viên nhốn nháo. Họ kiểm tra vở rồi nhìn đồng hồ trên tường, họ lật qua lật lại sách giáo khoa rồi gấp lại, họ khởi động máy tính xách tay rồi nhấp chuột, đánh máy. Có người uống cho hết ly café của mình. Họ vò bao đựng các thanh kẹo và hàng tá các món thức ăn nhanh rồi nhai nhồm nhoàm. Có người bắt đầu cắn nắp bút và móng tay. Có người quay lại dò xem phía cuối phòng, họ quay sang nghe ý kiến bạn ngồi cùng hàng, họ nhíu mày rồi nhún vai. Họ thầm thì và cười rúc rích với nhau.

“Có lẽ cô ấy là giáo viên thỉnh giảng” – một cô sinh viên ngồi cách vài hàng ghế phía trước Alice.

Alice mở chương trình học Động lực và Cảm xúc ra một lần nữa. Thứ Ba, ngày 4 tháng Năm: Căng thẳng, Tuyệt vọng và Kiểm soát (chương 12 và 14). Không có giảng viên thỉnh giảng nào ở đây cả. Không khí trong căn phòng chuyển từ mong đợi sang nhốn nháo. Đám sinh viên như những hạt bắp được cho vào lò. Một khi hạt đầu tiên bắt đầu nổ phồng lên, những hạt khác sẽ nổ theo, nhưng không ai biết hạt nào sẽ xung phong nổ trước và khi nào thì bung. Theo quy định của trường Harvard, sinh viên phải đợi hai mươi phút nếu giảng viên đến trễ, sau đó lớp học mới chính thức hủy. Không sợ phải đóng vai hạt bắp đầu tiên, Alice gấp vở lại, đóng nắp viết và cho mọi thứ vào trong cặp xách. Đã 10 giờ 21 phút, đủ lâu rồi.

Khi cô quay sang định ra về, cô nhìn bốn nữ sinh viên ngồi trước mặt mình. Họ đều nhìn cô và cười, có lẽ biết ơn vì đã giải thoát họ khỏi áp lực và cho họ ra ngoài. Cô giơ cổ tay lên, đưa mặt đồng hồ ra như một bằng chứng không ai chối cãi được.

“Tôi không biết các cô cậu thế nào, tôi thì có việc hay hơn để làm.”

Cô bước lên bậc thang, đi ra cửa sau rời khỏi khán phòng vẫn đầy những sinh viên đang phấn khởi. Cô không bao giờ nhìn lại.

CÔ NGỒI TRONG VĂN PHÒNG CỦA MÌNH, nhìn dòng xe cộ giờ cao điểm lấp loáng dọc theo đường Memorial Drive. Cô cảm thấy hông mình rung lên. Đã đến 8 giờ. Cô lôi chiếc BlackBerry trong chiếc giỏ màu xanh nhạt của mình ra.

Alice, hãy trả lời những câu hỏi sau:

1. Bây giờ là tháng mấy?

2. Cô sống ở đâu?

3. Văn phòng của cô ở đâu?

4. Sinh nhật của Anna vào ngày nào?

5. Cô có bao nhiêu người con?

Nếu cô thấy khó trả lời bất cứ câu hỏi nào trong những câu trên, hãy mở thư mục “Bươm bướm” trên máy tính của cô và làm theo hướng dẫn ngay lập tức.

Tháng Năm

Số 34 Đường Poplar, Cambridge, MA 02138

Tòa nhà William James Hall, phòng 1002

Ngày 14 tháng Chín, 1976

Ba