← Quay lại trang sách

- 10 - THÁNG SÁU, NĂM 2004

Một bà lão với sơn móng tay và son màu hồng chói không thể lẫn vào đâu được đang giỡn với một bé gái chừng năm tuổi. Hai người họ chắc là bà cháu. Cả hai đều đang vô cùng vui vẻ. Trang quảng cáo viết: “TUMMY TICKLER là SỐ MỘT – phương thuốc chữa bệnh Alzheimer hàng đầu được các bác sĩ khuyên dùng”. Alice đã lật qua gần hết cuốn tạp chí Boston, nhưng cô không thể bỏ qua trang ấy. Sự căm ghét bà lão ấy và trang quảng cáo dâng trào trong cô như một thứ dung dịch đang sôi sục. Cô nghiền ngẫm bức tranh và dòng chữ, chờ xem suy nghĩ của cô có theo kịp những gì ruột gan cô cảm thấy, nhưng trước khi cô kịp hiểu ra tại sao cô cảm thấy kích động như vậy, bác sĩ Moyer mở cửa để cô vào phòng khám.

“Alice, trông cô như bị mất ngủ. Nói tôi nghe xem có chuyện gì vậy.”

“Tôi mất cả tiếng đồng hồ mới đi vào giấc ngủ được và vài tiếng sau tôi lại thức dậy, rồi mọi thứ cứ thế lặp lại.”

“Lúc đi ngủ cô có những triệu chứng như nóng bừng trong người hay toàn thân khó chịu không?”

“Không.”

“Cô đang uống những thuốc nào?”

“Aricept, Namenda, Lipitor, vitamins C và E, và aspirin.”

“Chà, không may là Aricept có thể gây ra tác dụng phụ làm mất ngủ.”

“Phải, nhưng tôi không bỏ thuốc Aricept được.”

“Vậy hãy kể tôi nghe cô làm gì khi không ngủ được.”

“Hầu như tôi chỉ nằm bồn chồn. Tôi biết là như vậy chỉ khiến bệnh tệ hơn, nhưng tôi thấy lo và không biết khi nào thì mình đi ngủ rồi thức giấc vào buổi sáng mà không còn biết tôi đang ở đâu, tôi là ai hay tôi đang làm gì nữa. Tôi biết là vô lý, nhưng tôi nghĩ Azheimer chỉ có thể hủy hoại các tế bào não khi tôi ngủ và chừng nào tôi còn thức và canh chừng thì tôi sẽ vẫn bình thường.”

“Tôi biết là nỗi lo này khiến tôi không thể ngủ, nhưng tôi không làm khác được. Tôi không ngủ được nên tôi thấy lo, và vì lo lắng nên tôi lại không ngủ được. Phải nói với cô rằng tôi kiệt quệ vì chuyện này.”

Phần nào những gì Alice vừa kể là thật. Cô lo lắng thật. Nhưng lâu nay cô vẫn ngủ như một đứa bé.

“Ban ngày cô có cảm thấy lo lắng giống như vậy không?” – Bác sĩ Moyer hỏi cô.

“Không.”

“Tôi có thể kê cho cô một đơn thuốc SSRI.”

“Tôi không muốn dùng thuốc chống trầm cảm. Tôi không bị trầm cảm.”

Sự thật là có lẽ cô bị trầm cảm nhẹ bởi cô đã được chẩn đoán mắc phải căn bệnh vô phương cứu chữa. Và con gái cô cũng mắc phải. Dường như cô hoàn toàn không đi xa nữa, những bài giảng một thời sôi nổi của cô cũng đã trở nên chán không ai chịu nổi nữa, và ngay cả những dịp hiếm hoi John ở nhà với cô, cô cũng cảm thấy anh ở xa hàng triệu cây số. Thật vậy, cô cảm thấy buồn một chút. Nhưng đó cũng là một câu trả lời thỏa đáng trong trường hợp này và không phải thêm một thứ thuốc nào, thêm một tác dụng phụ nào vào đơn thuốc hàng ngày của cô. Và mục đích cô đến đây không phải vậy.

“Chúng ta có thể thử dùng Restoril, một viên mỗi tối trước khi đi ngủ. Nó sẽ giúp cô chìm vào giấc ngủ nhanh chóng và cho phép cô ngủ liên tục sáu tiếng đồng hồ, sáng dậy cô cũng không thấy uể oải.”

“Tôi muốn thứ gì đó mạnh hơn.”

Một khoảng lặng giữa cuộc nói chuyện.

“Tôi nghĩ tôi nên hẹn cô một buổi khác đến đây cùng với chồng cô, và chúng ta sẽ bàn về việc dùng thuốc mạnh hơn.”

“Chuyện này không liên quan đến chồng tôi. Tôi không bị trầm cảm, và tôi không tuyệt vọng. Tôi hiểu được tôi muốn gì, Tamara à.”

Bác sĩ Moyer đăm chiêu nhìn cô. Alice cũng nhìn bác sĩ như vậy. Họ đều đã ngoài bốn mươi, chưa đến mức già, cả hai đều đã lập gia đình, học vấn uyên bác. Alice không hiểu chủ trương của bác sĩ Moyer. Cô sẽ đến gặp một bác sĩ khác nếu cần thiết. Chứng mất trí của cô đang trở nên nặng hơn. Cô không thể liều mình lâu hơn nữa. Cô có thể sẽ quên hết. Cô đã luyện tập để đối thoại tiếp nhưng cô cũng không cần dùng đến nữa. Bác sĩ Moyer gác sổ kê đơn qua một bên và bắt đầu ghi chép.

ALICE QUAY LẠI PHÒNG XÉT NGHIỆM tí hon với Sarah gì đó, một nhà tâm lý học thần kinh. Cô gái đó đã giới thiệu mình với Alice một lần nữa chỉ mới ít phút trước nhưng Alice lập tức quên mất họ của cô. Không phải là một điềm lành. Căn phòng, giống như Alice nhớ về nó từ hồi tháng một, chật chội, được vô trùng và lạnh lẽo. Ở trong đó là một chiếc bàn làm việc, một máy tính iMac, hai ghế ngồi kiểu quán thức ăn nhanh và một cái tủ sắt đựng hồ sơ. Chẳng còn gì khác. Không cửa sổ, không cây kiểng, không tranh ảnh, không treo cả lịch trên tường. Không có gì chi phối, không một gợi ý nào, không có cơ hội để nhờ vả ai cả.

Sarah gì đó bắt đầu cuộc nói chuyện rất bình thường.

“Alice, cô bao nhiêu tuổi?”

“Năm mươi.”

“Cô tròn năm mươi tuổi khi nào?”

“Ngày 11 tháng Mười.”

“Bây giờ đang là khoảng thời gian nào trong năm?”

“Mùa xuân, nhưng nóng gần như mùa hè rồi.”

“Tôi biết, hôm nay ngoài trời nóng. Và bây giờ chúng ta đang ở đâu?”

“Đơn vị Rối loạn bộ nhớ thuộc Bệnh viện đa khoa Massachusetts ở Boston.”

“Cô có thể gọi tên bốn thứ trong bức tranh này không?”

“Quyển sách, điện thoại, con ngựa, chiếc xe.”

“Và thứ gì ở trên chiếc áo sơ-mi này?”

“Một chiếc nút áo.”

“Còn trên tay tôi?”

“Chiếc nhẫn.”

“Cô có thể đánh vần ngược từ water không?”

“R-E-T-A-W.”

“Và lặp lại theo tôi: Ai, cái gì, khi nào, ở đâu, tại sao.”

“Ai, cái gì, khi nào, ở đâu, tại sao.”

“Cô có thể nâng bàn tay lên, nhắm mắt lại và mở miệng ra không?”

Cô làm theo.

“Alice, bốn thứ trong bức tranh hồi nãy cô gọi tên là gì vậy?”

“Con ngựa, chiếc xe, điện thoại và quyển sách.”

“Tuyệt, bây giờ hãy viết cho tôi một câu ra đây.”

Tôi không tin nổi có một ngày tôi sẽ làm những việc này.

“Rất tốt, và giờ trong một phút, cô hãy liệt kê các từ bắt đầu bằng âm s càng nhiều càng tốt.”

“Sarah, say xỉn, sững sờ, sóng âm. Sống sót, suy sụp. Say đắm. Say xỉn. Ồ không, từ đó tôi nói rồi. Sôi động. Sợ hãi.”

“Và giờ hãy đọc các từ bắt đầu bằng âm l.”

“Lãng quên. Luôn luôn. Lộn nhào. Lượn lờ. Làm tình.” – Cô bật cười, ngạc nhiên với chính mình.

“Xin lỗi vì từ tôi vừa nói.”

Xin lỗi bắt đầu với âm x.

“Không sao, tôi nghe từ đó hoài.”

Alice tự hỏi cô có thể nói ra bao nhiêu từ nếu như là một năm trước. Cô tự hỏi không biết bao nhiêu từ trong một phút là bình thường.

“Và bây giờ, hãy gọi tên các loại rau củ mà cô biết.”

“Măng tây, bông cải xanh, súp-lơ, tỏi tây, hành, ớt. Ớt... tôi không biết, tôi không thể nghĩ ra thêm.”

“Câu cuối cùng, hãy kể tên các con vật bốn chân mà cô biết.”

“Chó, mèo, sư tử, hổ, gấu, ngựa vằn, hươu cao cổ, linh dương.”

“Bây giờ cô hãy đọc lớn câu này lên.”

Sarah gì đó đưa cho cô một mẩu giấy.

“Vào thứ Ba ngày 2 tháng Bảy, ở Santa Ana, California, một trận hỏa hoạn đã khiến sân bay John Wayne đóng cửa, làm mắc kẹt ba mươi hành khách bao gồm sáu trẻ em và hai lính cứu hỏa.” – Alice đọc mảnh giấy.

Đó là một bài kiểm tra của Đại học New York, một bài kiểm tra khả năng nhớ.

“Và giờ, cô hãy kể lại những chi tiết ở trong mẩu tin cô vừa đọc.”

“Vào thứ Ba ngày 2 tháng Bảy, ở Santa Ana, California, một đám cháy làm mắc kẹt ba mươi người ở sân bay, bao gồm sáu trẻ em và hai lính cứu hỏa.”

“Rất tốt. Giờ tôi sẽ cho cô xem một chuỗi các hình ảnh in trên các tấm thẻ và cô sẽ kể tên của các hình này.”

Bài kiểm tra gọi tên của Boston.

“Va-li, chong chóng, kính viễn vọng, lều tuyết, đồng hồ cát, hà mã.” Một loài động vật bốn chân. “Cái vợt. À, khoan đã, tôi biết cái này, đây là kệ để trồng cây, hàng rào đan chéo phải không? Không, lưới mắt cáo! Phong cầm, bánh quy que, trống lắc. Ôi, khoan nào. Chúng tôi có một cái như vậy trong sân nhà ở Cape. Mắc giữa hai cây để nằm lên. Không phải ván. Nó là một cái..., vòng phải không? Không. Ôi Trời ơi, nó bắt đầu bằng chữ v, nhưng tôi không thể nghĩ ra.”

Sarah gì đó ghi một kí hiệu lên bảng điểm của cô. Alice muốn giải thích rằng sự lãng quên của cô có lẽ chỉ đơn giản là một trường hợp bị hạn chế rất bình thường do bệnh Alzheimer. Ngay cả những sinh viên cao đẳng sức khỏe hoàn hảo vẫn trải qua một hoặc hai lần trong tuần không nói ra được một từ mặc dù biết rõ từ ấy.

“Được rồi, chúng ta hãy tiếp tục nào.”

Alice gọi tên những bức tranh còn lại mà không vướng phải khó khăn nào thêm, nhưng cô vẫn không thể kích hoạt tế bào thần kinh đã mã hóa tên của tấm lưới mà cô vẫn hay nằm ngủ trưa. Tấm lưới mà gia đình treo giữa hai cây vân sam trong sân nhà ở Chatham. Alice nhớ về bao nhiêu giấc ngủ lúc chiều muộn ở đó với John, cảm giác thoải mái dưới bóng cây mát mẻ, dựa vào vai anh và lồng ngực anh như gối ngủ, mùi hương nước xả vải quen thuộc trên áo sơ-mi của anh cùng với mùi làn da rám nắng hè pha mùi muối biển làm cô ngây ngất trong mỗi hơi thở. Cô có thể nhớ lại tất cả, nhưng không nhớ nổi thứ có tên bắt đầu bằng chữ V mà họ nằm trên.

Cô lướt qua bài kiểm tra sắp xếp hình ảnh WAIS-R, ma trận màu Raven, bài kiểm tra xoay khối hình học của Luria, bài kiểm tra đọc tên màu của Stroop và ghi nhớ các khối hình học. Cô kiểm tra đồng hồ. Cô đã ở căn phòng nhỏ bé đó hơn một giờ rồi.

“Được rồi, Alice, giờ tôi muốn cô nhớ lại mẩu tin cô đọc lúc nãy. Cô có thể kể lại giúp tôi không?”

Cô nén sự hoảng loạn xuống, và cơn hoảng loạn khựng lại, nặng nề chèn vào cơ hoành khiến cô không thở nổi. Cả những sợi dây thần kinh dẫn đến những chi tiết của mẩu tin cũng nghẽn lại, hoặc có khi cô không có đủ sức mạnh điện hóa để kích hoạt những tế bào thần kinh đang chứa chúng. Nếu ra khỏi căn phòng chật hẹp này, cô có thể tra cứu những thông tin mất đi bằng chiếc BlackBerry của cô. Cô có thể đọc lại các thư điện tử và tự viết nhắc nhở cho mình vào mục ghi chú những thứ phải gửi. Cô có thể dựa vào sự kính trọng có được nhờ vị trí của mình ở Harvard. Ra khỏi căn phòng nhỏ bé này, cô có thể giấu đi những sợi dây thần kinh tắc nghẽn và những tín hiệu thần kinh yếu ớt của mình. Và dù cô biết rằng những bài kiểm tra này được lập nên để xác nhận rằng cô không thể truy cập vào thông tin được lưu trữ trong não mình, vị bác sĩ đã thấy rằng cô ngơ ngác và lúng túng đến thế nào.

“Thật sự tôi không nhớ được nhiều.”

Vậy đấy, căn bệnh Alzheimer của cô, trần trụi dưới ánh đèn huỳnh quang, phơi ra cho Sarah gì đó khám xét và đánh giá.

“Được rồi, hãy kể cho tôi những gì cô nhớ được, bất cứ chi tiết nào.”

“Vâng, tôi nghĩ là sự kiện diễn ra về một sân bay.”

“Sự kiện đó diễn ra vào Chủ nhật, thứ Hai, thứ Ba hay thứ Tư?”

“Tôi không nhớ.”

“Thử đoán xem.”

“Thứ Hai.”

“Đã xảy ra lốc xoáy, ngập lụt, hỏa hoạn hay tuyết lở.”

“Một trận hỏa hoạn.”

“Sự kiện diễn ra vào tháng Tư, Năm, Sáu hay tháng Bảy?”

“Tháng Bảy.”

“Sân bay nào đã bị ngưng hoạt động: John Wayne, Dulles hay LAX?”

“LAX.”

“Bao nhiêu hành khách đã bị mắc kẹt: ba mươi, bốn mươi, năm mươi hay sáu mươi?”

“Tôi không biết nữa, chắc là sáu mươi.”

“Bao nhiêu trẻ em bị mắc kẹt: hai, bốn, sáu hay tám?”

“Tám.”

“Còn ai bị kẹt lại nữa: hai lính cứu hỏa, hai cảnh sát, hai doanh nhân hay hai giáo viên?”

“Hai lính cứu hỏa.”

“Rất tốt, cô đã hoàn thành hết các bài kiểm tra. Tôi sẽ dẫn cô ra gặp bác sĩ Davis.”

Tốt sao? Làm thế nào mà cô nhớ được sự kiện mà cô còn chưa biết là cô có biết hay không?

CÔ BƯỚC ĐẾN VĂN PHÒNG BÁC SĨ DAVIS, ngạc nhiên rằng John đã ở đó, anh ngồi vào chiếc ghế mà hai lần trước cô đến rõ ràng vẫn trống. Giờ thì tất cả đã đến. Alice, John, và bác sĩ Davis. Cô không tin được chuyện như thế này diễn ra, cô không tin được cuộc sống của mình như thế này, một người phụ nữ bệnh tật đến khám bác sĩ thần kinh với chồng mình. Cô dường như cảm thấy mình như một nhân vật trong vở kịch có người phụ nữ mắc Alzheimer. Người chồng ôm kịch bản trong lòng. Chỉ có một điều là đó không chỉ là kịch bản, mà là bảng khảo sát các hoạt động hàng ngày. (Cảnh trong văn phòng của bác sĩ. Bác sĩ tâm thần của người phụ nữ ngồi đối diện với người chồng. Người phụ nữ bước vào.)

“Alice, hãy ngồi xuống đi. Tôi với John vừa nói chuyện được vài phút.”

John xoay xoay chiếc nhẫn cưới và rung chân phải. Ghế của họ chạm vào nhau nên anh làm cô rung người theo. Họ đang nói về chuyện gì? Cô muốn nói chuyện riêng với John trước khi họ bắt đầu, để biết được chuyện gì đã xảy ra và hiểu rõ những điều họ nói. Và cô muốn yêu cầu anh ngưng rung người cô.

“Cô khỏe không?” – Bác sĩ Davis hỏi cô.

“Tôi khỏe.”

Ông mỉm cười với cô. Một nụ cười hiền từ và nụ cười ấy làm dịu bớt cảm giác lo lắng của cô.

“Được rồi, trí nhớ cô thế nào? Có thêm lo ngại hay thay đổi gì từ lần trước cô đến đây không?”

“Phải nói là tôi gặp khó khăn trong việc tiến hành các kế hoạch của mình. Suốt ngày tôi phải bám theo chiếc BlackBerry của mình và danh sách các việc cần làm. Bây giờ tôi thấy ghét phải nói chuyện điện thoại. Nếu tôi không thể thấy người tôi đang đối thoại, tôi khó mà hiểu được toàn bộ cuộc hội thoại. Tôi thường xuyên quên mất người bên kia đang nói gì trong khi cố hình dung các từ ngữ trong đầu.”

“Còn chuyện mất phương hướng, cô có khi nào cảm thấy lạc đường hay bối rối?”

“Không. Đôi khi tôi cũng cảm thấy rối về giờ giấc, cho dù đã xem đồng hồ, nhưng rồi tôi cũng đoán ra được. Tôi từng một lần đến văn phòng vì tưởng lúc đó buổi sáng, phải đến lúc về nhà tôi mới nhận ra lúc đó đang là nửa đêm.”

“Có chuyện đó à?” – John quay sang – “Khi nào vậy?”

“Em không nhớ. Em nghĩ là tháng trước.”

“Lúc đó anh đang ở đâu?”

“Anh đang ngủ.”

“Sao bây giờ anh mới được biết vậy, Ali?”

Cô mỉm cười, nhưng nụ cười không làm anh thấy khác đi. Có thể nỗi lo của anh đã dâng lên một chút.

“Kiểu rối loạn rồi đi lang thang vào ban đêm này rất phổ biến và có xu hướng tái diễn. Có khi cô phải nghĩ đến việc gắn chuông ngoài cửa trước hay cái gì đó đánh thức John dậy phòng khi cô ra ngoài lúc nửa đêm. Và có lẽ cô nên đăng kí chương trình nhận dạng an toàn của Hiệp hội Alzheimer. Tôi nghĩ chi phí khoảng bốn mươi đô la, và cô sẽ mang vòng đeo tay có mã số định danh và một mã cá nhân trên đó.”

“Tôi đã có thư mục ‘John’ trong điện thoại rồi, tôi để điện thoại trong giỏ và luôn mang theo bên mình.”

“Được rồi, vậy cũng tốt, nhưng lỡ như hết pin hay điện thoại của John tắt mà cô bị lạc thì sao?”

“Vậy một mảnh giấy ghi tên tôi, tên John, địa chỉ và số điện thoại của chúng tôi bỏ trong giỏ của tôi thì sao?”

“Cách này cũng được, nhưng mà cô phải luôn mang theo. Cô có thể quên mang theo giỏ, còn đeo vòng tay thì cô không phải lo nữa.”

“Ý hay đấy” – John tiếp lời bác sĩ. – “Cô ấy sẽ đeo một cái.”

“Việc dùng thuốc của cô như thế nào rồi, cô có dùng đủ liều?”

“Có.”

“Có tác dụng phụ, buồn nôn, chóng mặt không?”

“Không.”

“Ngoài lần cô đến văn phòng lúc nửa đêm ra, cô có gặp khó khăn gì khi đi ngủ không.”

“Không.”

“Cô vẫn tập thể dục đều đặn chứ.”

“Vâng, hầu như mỗi ngày tôi vẫn chạy bộ, chừng tám cây số.”

“John, anh có chạy bộ không?”

“Không, tôi đi bộ đến chỗ làm rồi về, tôi chỉ vận động vậy thôi.”

“Tôi nghĩ anh cùng vợ chạy bộ là một ý hay. Có những dữ liệu thử nghiệm trên động vật rất thuyết phục rằng vận động có thể làm chậm quá trình tích tụ protein amyloid-beta và thoái hóa nhận thức.”

“Tôi đã xem các nghiên cứu đó” – Alice nói.

“Phải, cho nên cô hãy tiếp tục chạy bộ. Nhưng tôi thấy tốt hơn cô nên có bạn chạy cùng; bằng cách này chúng ta không phải lo rằng cô sẽ quên hay bỏ qua việc chạy bộ vì đãng trí.”

“Tôi sẽ bắt đầu chạy bộ với cô ấy.” – John ghét chạy bộ. Anh thường chơi squash và tennis, thỉnh thoảng thì chơi golf, nhưng anh không bao giờ chạy. Hiển nhiên anh vượt trội cô về mặt tinh thần, nhưng thể lực thì cô vẫn hơn hẳn anh. Nghĩ đến việc chạy cùng John làm cô thích thú nhưng cô nghi rằng anh không chấp nhận được việc thua cô.

“Tâm trạng cô thế nào, cô cảm thấy ổn chứ?”

“Nói chung là tốt. Mà tôi cảm thấy hết sức buồn bực và kiệt sức vì cố gắng theo kịp mọi thứ. Và tôi lo lắng về những gì đang đợi tôi ở phía trước. Nhưng mặt khác tôi cảm thấy vẫn bình thường, thật ra, theo một cách nào đó thì thoải mái hơn từ khi tôi kể cho John và các con nghe.”

“Cô đã bảo cho ai ở Harvard chưa?”

“Chưa.”

“Liệu cô có khả năng lên lớp và hoàn thành các yêu cầu chuyên môn trong kỳ này?”

“Có, tôi phải cố gắng hơn kỳ trước rất nhiều, nhưng mọi thứ vẫn ổn.”

“Dạo gần đây cô có đi dự các buổi họp ở xa và thỉnh giảng một mình không?”

“Tôi gần như ngưng rồi. Tôi hủy hai lớp ở trường đại học, tôi bỏ qua một hội thảo lớn vào tháng Tư và tôi chuẩn bị lỡ mất một cuộc hội thảo khác ở Pháp tháng này. Thường thì mùa hè tôi đi nhiều, cả hai chúng tôi đều đi, nhưng năm nay chúng tôi dành cả mùa hè cho căn nhà ở Chatham. Chúng tôi sẽ đến đó tháng tới.”

“Tốt quá, nghe thật tuyệt. Được rồi, vậy là hè này cô sẽ được chăm sóc tốt. Tôi nghĩ cô nên nghĩ đến một kế hoạch cho mùa thu, mà trong đó có việc báo với mọi người ở Harvard. Có lẽ là nghĩ ra cách nào đó nghe hợp lý để chuyển công tác, và tôi nghĩ là cô sẽ không bị yêu cầu phải đi xa một mình nữa.”

Cô gật đầu. Cô cảm thấy sợ tháng Chín.

“Cũng có những thủ tục phải đưa vào kế hoạch, các bản tiền chỉ thị như giấy ủy quyền và di chúc. Cô đã bao giờ nghĩ đến việc hiến não của mình cho nghiên cứu khoa học chưa?”

Cô đã từng nghĩ đến. Cô tưởng tượng ra não của cô được rút hết máu, ngâm trong formalin, có màu như nhựa dẻo Silly Putty và được một sinh viên ngành y nào đó cầm trên tay. Giảng viên sẽ chỉ vào những nếp gấp và rãnh, chỉ ra vị trí của khu cảm xúc, khu thính giác và khu thị giác của não bộ. Mùi của biển, giọng nói của các con cô, bàn tay và gương mặt của John. Hoặc là bộ não sẽ bị cắt thành lát mỏng như thịt xông khói deli, rồi được dán lên các phiến kính phòng thí nghiệm. Trên tiêu bản ấy, những não thất được phóng to lên ắt sẽ gây bất ngờ lắm. Những khoảng trống ấy là nơi cô đã từng trú ngụ.

“Có, tôi muốn.”

John thu mình lại.

“Được rồi, vậy tôi sẽ nhờ cô điền đầy đủ giấy tờ trước khi rời đi. John, tôi có thể xin lại bảng khảo sát anh đang cầm không?”

Anh đã nói gì về cô trong đó? Họ chẳng bao giờ nói gì về chuyện đó.

“Alice kể với anh chẩn đoán của cô ấy khi nào?”

“Ngay sau khi ông báo với cô ấy.”

“Được rồi, vậy từ lúc đó anh thấy cô ấy thế nào?”

“Rất khỏe mạnh, tôi nghĩ là vậy. Chuyện điện thoại là thật. Cô ấy thường không trả lời hết các cuộc điện thoại nữa. Cho dù tôi nhấc máy hay cô ấy để máy tự nhận cuộc gọi. Cô ấy giữ khư khư chiếc BlackBerry, dường như là cô ấy buộc phải làm vậy. Đôi khi vào buổi sáng, trước khi đi ra ngoài, cô ấy lại kiểm tra chiếc điện thoại cứ mỗi phút một lần. Nhìn cô ấy vậy tôi khá là không thoải mái.”

Càng ngày, dường như John càng không thể chịu được phải nhìn vào cô. Khi nhìn cô, anh nhìn bằng ánh mắt nghiên cứu, giống như cô là một con chuột bạch của anh vậy.

“Còn gì nữa không, có điều gì Alice chưa nhắc đến không?”

“Tôi không nghĩ được gì thêm nữa.”

“Anh có để ý thấy tâm trạng với tính cách của cô ấy thay đổi không?”

“Không, cô ấy vẫn bình thường. Có lẽ hơi đề phòng một chút. Và ít nói hơn, cô ấy ít khi bắt chuyện hơn.”

“Anh thấy thế nào?”

“Tôi hả, tôi ổn.”

“Tôi có một số thông tin về nhóm hỗ trợ chăm sóc của chúng tôi, anh có thể mang về. Denise Daddario là nhân viên công tác xã hội ở đây. Anh nên hẹn gặp cô ấy và cho cô ấy biết chuyện gì xảy ra.”

“Tôi hẹn hả?”

“Phải.”

“Thật hả, tôi không cần đâu, tôi ổn mà.”

“Được rồi, vâng, những thông tin này ở đây nếu anh thấy cần. Giờ thì tôi có vài câu hỏi cho Alice.”

“Thật sự thì tôi muốn bàn về một số liệu pháp bổ sung và những thử nghiệm lâm sàng.”

“Được rồi, hãy bàn về chúng, nhưng trước hết chúng ta hãy hoàn tất bài kiểm tra của cô ấy. Alice, hôm nay thứ mấy vậy?”

“Thứ Hai.”

“Cô sinh ngày mấy?”

“11 tháng Mười năm 1953.”

“Phó Tổng thống của Liên Bang là ai?”

“Dick Cheney.”

“Được rồi, giờ tôi sẽ đọc cho cô một cái tên và địa chỉ, cô sẽ lặp lại cho tôi. Sau đó, tôi sẽ hỏi cô vài câu khác rồi lặp lại nó sau. Sẵn sàng chưa? John Black, 42 đường West, Brighton.”

“Như lần trước.”

“Phải, rất tốt. Cô có thể nhắc lại không?”

“John Black, 42 đường West, Brighton.”

John Black, 42 đường West, Brighton.

John không bao giờ mặc màu đen, Lydia sống ở phía tây, Tom sống ở Brighton, tám năm trước, tôi bốn mươi hai tuổi.

John Black, 42 đường West, Brighton.

“Được rồi, cô có thể đếm đến hai mươi rồi đếm ngược lại được không?”

Cô làm theo.

“Giờ tôi muốn cô giơ số ngón tay lên bằng tay trái ứng với vị trí trong bảng chữ cái của chữ cái đầu tiên trong tên thành phố cô đang sống.”

Cô nhẩm trong đầu những gì ông vừa nói rồi giơ biểu tượng hòa bình bằng ngón tay trỏ và ngón tay giữa trên tay trái.

“Tốt. Chi tiết này ở trên đồng hồ của tôi gọi là gì?”

“Chốt.”

“Được rồi, giờ viết một câu về thời tiết hôm nay trên mảnh giấy này.”

Trời mờ mờ, nóng và ẩm ướt.

“Mặt bên kia tờ giấy, cô hãy vẽ một đồng hồ chỉ ba giờ bốn mươi lăm phút.”

Cô vẽ một vòng tròn lớn và điền vào các số, bắt đầu bằng mười hai ở trên đỉnh vòng tròn.

“Ối, tôi vẽ lớn quá rồi.”

Cô nguệch ngoạc ghi ra.

3:45

“Không, không phải đồng hồ điện tử. Tôi muốn cô vẽ đồng hồ kim” – bác sĩ Davis nói.

“Ông đang kiểm tra thử tôi có thể vẽ hay xem thử tôi còn biết xem đồng hồ không à? Nếu ông vẽ cho tôi sẵn mặt đồng hồ, tôi có thể vẽ ba giờ bốn mươi lăm.Tôi chưa bao giờ giỏi vẽ vời gì cả.”

Khi Anna ba tuổi, con bé rất thích ngựa và thường năn nỉ Alice vẽ hình ngựa. Các tác phẩm đẹp nhất của Alice trông giống chó lai rồng theo phong cách hậu hiện đại và tranh của cô chả bao giờ vừa ý trí tưởng tượng non nớt đơn giản của đứa trẻ còn chưa đi học. Không, mẹ ơi, không phải vậy, vẽ cho con một con ngựa đi.

“Tôi thật sự đang cần cô vẽ cả hai thứ, Alice. Alzheimer thật sự ảnh hưởng đến thùy đỉnh khá sớm, và đó là nơi chúng ta giữ những biểu trưng nội tại cho không gian cá nhân bổ sung. John, đây là lý do tôi muốn anh chạy bộ với cô ấy.”

John gật đầu. Họ đang về cùng một phe với nhau.

“John, anh biết là em không biết vẽ mà.”

“Alice, chỉ vẽ cái đồng hồ thôi mà, đâu phải con ngựa.”

Ngạc nhiên vì anh không bảo vệ cô, cô nhìn chằm chằm vào anh và nhíu mày, cho anh một cơ hội để xem lại tình cảnh của cô hoàn toàn hợp lý để từ chối. Anh chỉ nhìn chằm chằm lại rồi xoay chiếc nhẫn trên tay mình.

“Nếu anh vẽ cho tôi mặt đồng hồ, tôi sẽ vẽ ba giờ bốn mươi lăm.”

Bác sĩ Davis vẽ một mặt đồng hồ lên một trang giấy mới, và Alice vẽ các kim đồng hồ chỉ đúng giờ.

“Được rồi, giờ tôi muốn cô hãy đọc lại tên và địa chỉ tôi đã yêu cầu cô nhớ lúc nãy.”

“John Black, ở đâu đó trên đường West, Brighton.”

“Được rồi, là ở số bốn hai, bốn bốn, bốn sáu hay bốn tám?”

“Bốn tám.”

Bác sĩ Davis viết gì đó khá nhiều vào một mảnh giấy có vẽ đồng hồ lúc nãy.

“John, đừng rung ghế của em nữa.”

“Rồi, giờ chúng ta sẽ nói về các lựa chọn thử nghiệm lâm sàng. Có một số nghiên cứu đang được thực hiện ở đây và ở Brigham. Nghiên cứu tôi thấy thích hợp nhất cho cô sẽ bắt đầu kêu gọi các bệnh nhân vào tháng này. Nghiên cứu đã đến pha III, và cô sẽ dùng một loại thuốc tên là Amylix. Nó có vẻ sẽ khống chế và ngăn chặn sự tích tụ amyloid-beta, nên không giống như các loại thuốc cô đang dùng, hy vọng loại thuốc này sẽ ngăn bệnh không phát triển trầm trọng hơn. Pha II của nghiên cứu rất tích cực. Các bệnh nhân chịu được thuốc và sau một năm uống thuốc, nhận thức của các bệnh nhân xem ra đã ngừng suy thoái, thậm chí còn cải thiện.”

“Tôi cho rằng đây là thí nghiệm đối chứng giả dược phải không?” – John hỏi.

“Phải, cả nhà nghiên cứu và đối tượng đều không biết bệnh nhân sẽ uống giả dược hay một trong hai loại thuốc.”

Vậy là tôi có thể chỉ được uống đường. Cô nghi rằng hiệu ứng giả dược hay sức mạnh của suy nghĩ tích cực chẳng làm được cái quái gì với amyloid-beta.

“Ông nghĩ sao về các chất ức chế hoạt động của secretase?” – John hỏi.

John cảm thấy những chất này khả quan nhất. Secretase là loại enzyme tồn tại tự nhiên, giải phóng ra protein amyloid-beta ở mức bình thường, không gây nguy hiểm. Đột biến của presenilin-1 ở Alice làm cho secretase đang ở mức kém nhạy đến điều tiết bình thường bị thay đổi, và nó đã sản sinh ra quá nhiều amyloid-beta. Quá nhiều sẽ gây nguy hiểm. Giống như mở một cái vòi nước rồi không đóng lại được, bồn của cô đã tràn quá rồi.

“Hiện tại các chất ức chế hoạt động của secretase hoặc quá độc hại để thử nghiệm lâm sàng hoặc...”

“Còn flurizan thì sao?”

Flurizan là một thuốc chống viêm tương tự như Advil. Rất nhiều hãng dược đã công bố rằng nó giảm được sự sản sinh ra amyloid-beta 42. Bớt được ít nước trong bồn.

“Phải, loại này đang được chú ý đến nhiều. Hiện tại đang có một nghiên cứu pha II về nó, nhưng chỉ thực hiện ở Canada và Anh.”

“Ông nghĩ sao nếu Alice dùng flurbiprofen?”

“Chúng tôi chưa có dữ liệu để kết luận được nó có ích cho bệnh Alzheimer hay không. Tôi cho rằng nếu cô ấy quyết định không tham gia vào thử nghiệm lâm sàng thì cũng không hại gì. Nhưng nếu cô ấy muốn tham gia vào một nghiên cứu, dùng thuốc flurbiprofen sẽ được coi như là điều trị trong thử nghiệm đối với Alzheimer, và cô ấy không thể tham gia vào nghiên cứu nữa.”

“Được rồi, vậy còn kháng thể đơn dòng của Elan thì sao?” – John hỏi tiếp.

“Tôi thấy cũng khả quan, nhưng nghiên cứu mới ở pha I và chưa tiếp nhận đối tượng nghiên cứu. Giả sử nghiên cứu đó đủ an toàn để tiếp tục thì sớm nhất phải tới mùa xuân sang năm họ mới tiếp tục pha II, mà tôi thì muốn Alice thử nghiệm sớm hơn nếu chúng ta có thể.”

“Anh đã thử liệu pháp IVIg với ai chưa?” – John hỏi.

John cũng thích ý tưởng của liệu pháp này. Được chiết xuất từ lượng huyết tương được hiến tặng, các immunoglobulin tiêm tĩnh mạch được chứng minh là an toàn và hiệu quả trong điều trị suy giảm miễn dịch tiên phát và một số các rối loạn thần kinh cơ tự miễn. Phí điều trị sẽ đắt và không được công ty bảo hiểm hoàn tiền vì thuốc hiện tại được liệt vào loại sử dụng ngoài hướng dẫn, nhưng nếu có tác dụng thì bao nhiêu tiền cũng đáng.

“Tôi chưa có bệnh nhân nào thử nó cả. Tôi không phủ nhận nó, nhưng chúng tôi không xác định được liều lượng phù hợp và nó thật sự là một phương pháp rất thô, cũng không thể xác định được kết quả. Tôi e là hiệu quả sẽ rất ít ỏi.”

“Chúng tôi chấp nhận sự ít ỏi đó” – John nói.

“Được rồi, nhưng anh cần phải biết anh đang đánh đổi những gì. Nếu anh quyết định đi tiếp với liệu pháp IVIg, Alice sẽ không thể tham gia vào bất cứ thử nghiệm lâm sàng nào, mà những liệu pháp trong đó hứa hẹn sẽ chính xác và tập trung vào căn bệnh hơn.”

“Nhưng cô ấy phải được bảo đảm không rơi vào nhóm dùng giả dược.”

“Phải, cả hai lựa chọn đều có những rủi ro.”

“Tôi có phải bỏ dùng Aricept và Namenda để tham gia vào thử nghiệm lâm sàng?”

“Không, cô vẫn có thể uống.”

“Tôi có thể thử liệu pháp thay đổi nội tiết tố estrogen không?”

“Có. Có nhiều chứng cứ chưa được chứng minh cho rằng phương pháp đó ít ra cũng an toàn ở một mức độ nào đó, nên tôi sẵn lòng kê cho cô một đơn thuốc CombiPatch. Nhưng nó cũng được xem là một loại thuốc điều trị trong thử nghiệm và cô cũng không thể tham gia vào thử nghiệm Amylix.”

“Cuộc thử nghiệm sẽ kéo dài bao lâu?”

“Mười lăm tháng.”

“Tên vợ ông là gì?” – Alice hỏi.

“Lucy.”

“Ông sẽ muốn Lucy làm gì nếu cô ấy mắc bệnh?”

“Tôi sẽ yêu cầu cô ấy tham gia vào thử nghiệm Amylix.”

“Vậy là Amylix là lựa chọn duy nhất ông đề nghị?” – John hỏi.

“Phải.”

“Tôi nghĩ chúng ta nên thử liệu pháp IVIg cùng với flurbiprofen và CombiPatch” – John nói.

Căn phòng trở nên thinh lặng. Họ vừa trao đổi một lượng thông tin khổng lồ. Alice bịt chặt mắt bằng những ngón tay của cô, cố phân tích những lựa chọn điều trị cho mình. Cô cố hết sức để lập nên bảng so sánh các thứ thuốc trong đầu mình, nhưng tấm bảng trong tưởng tượng của cô cũng không ích gì, và cô vứt tấm bảng ấy vào trong đống rác tưởng tượng. Thay vào đó, cô tư duy một cách trừu tượng và nghĩ tới một hình ảnh rõ ràng duy nhất. Một khẩu súng săn hay một viên đạn duy nhất.

“Cô không phải quyết định ngay đâu. Cô có thể về nhà và nghĩ về chuyện này kĩ hơn rồi quay lại gặp tôi.”

Không, cô không cần nghĩ thêm nữa. Cô là một nhà khoa học. Cô hiểu như thế nào về đánh cược tất cả mọi thứ với một cuộc tìm kiếm bí ẩn mà không có gì bảo đảm. Cô đã trải qua rất nhiều lần trong nhiều năm với công việc nghiên cứu của mình, do vậy, cô chọn viên đạn.

“Tôi muốn thử nghiệm lâm sàng.”

“Ali, anh nghĩ em nên tin ở anh.” – John nói với cô.

“Em vẫn có thể tự đưa ra kết luận mà, John. Em muốn tham gia cuộc thử nghiệm.”

“Được rồi, tôi sẽ đưa cô các phiếu để đăng kí.”

(Cảnh trong văn phòng của bác sĩ. Nhà thần kinh học đã rời phòng. Người chồng xoay chiếc nhẫn. Người vợ hi vọng tìm ra một phương thuốc.)