- 13 - THÁNG CHÍN, NĂM 2004
Tình trạng khỏe mạnh của một tế bào thần kinh phụ thuộc vào khả năng của nó khi tiếp xúc với tế bào khác. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự kích thích điện và hóa học từ cả hai đầu sẽ hỗ trợ hoạt động của một tế bào sống. Những tế bào thần kinh sẽ không kết nối hiệu quả với các tế bào đã bị teo, thật vô vọng, một tế bào không kết nối được sẽ là tế bào chết.
* THÁNG CHÍN, NĂM 2004Dù học kỳ mùa thu ở Harvard đã chính thức bắt đầu, thời tiết vẫn diễn ra y nguyên như trên tờ lịch. Vào một ngày mùa hè ẩm ướt tháng Chín, nhiệt độ hơn hai mươi sáu độ, Alice khởi hành đến Harvard Yard. Trong những ngày gần kề kỳ tuyển sinh hàng năm, cô luôn thấy hào hứng khi được gặp những sinh viên năm nhất đến từ ngoài New England. Mùa thu ở Cambridge gợi nên hình ảnh cành lá đung đưa, cảnh hái táo, những trận bóng bầu dục, những chiếc áo len cùng với khăn quàng cổ. Một ngày tháng Chín ở Cambridge sẽ chẳng có gì bất thường nếu thức dậy lúc gần trưa mà thấy sương giá đọng trên những quả bí ngô. Trong khi ấy, những ngày tháng Chín này, đặc biệt những ngày đầu tháng vẫn ồn ã tiếng máy điều hòa trên các cửa sổ gầm rú huyên náo không ngừng và những cuộc tranh luận nhốn nháo đầy lạc quan về đội bóng bầu dục Red Sox. Dĩ nhiên năm nào cũng vậy, những sinh viên mới đến lang thang dọc theo vỉa hè của Harvard Square, mơ hồ như khách đi du lịch trái mùa. Họ lúc nào cũng khoác lên mình hàng tá các lớp áo len lông và quá chừng giỏ xách mua sắm từ Harvard Coop. Trong đó đựng đầy các vật dụng cho bàn học và áo thun dán nhãn Harvard. Những thứ tầm thường đáng yêu.
Dù chỉ mặc một chiếc áo thun sợi bông và chiếc váy dài đến mắt cá, Alice cảm thấy ẩm ướt khó chịu ngay khi đến văn phòng của Eric Wellman. Căn phòng ấy nằm trên lầu, ngay trên văn phòng của Alice, diện tích bằng nhau, bố trí các vật dụng như nhau và cùng hướng ra Boston và sông Charles, nhưng dù sao văn phòng của Eric vẫn trông ấn tượng và uy nghiêm hơn. Cô luôn cảm thấy mình như một sinh viên mỗi khi vào phòng anh, và hôm nay cảm xúc ấy đặc biệt dâng lên khi anh gọi cô vào “để nói chuyện một chút.”
“Kỳ nghỉ hè thế nào?” – Eric hỏi cô.
“Rất thoải mái. Còn anh thì sao?”
“Cũng ổn, mà trôi qua nhanh quá. Chúng tôi đều nhớ cuộc hội thảo hồi tháng Sáu được gặp cô.”
“Tôi biết, tôi cũng thấy nhớ.”
“Vâng, Alice, tôi muốn bàn với cô về các đánh giá khóa học của cô cho kỳ vừa rồi trước khi các lớp mới bắt đầu.”
“Ồ, tôi chưa có thời gian để xem qua nữa.”
Một chồng đánh giá khóa học Động lực và cảm xúc của cô được cột dây thun ở đâu đó trong văn phòng vẫn chưa được động đến. Đánh giá phản hồi của sinh viên Harvard hoàn toàn vô danh và chỉ giảng viên của khóa học và trưởng khoa mới được xem. Trước đây, cô chỉ đọc qua những bảng đánh giá ấy để kiểm tra thôi. Cô biết mình là một giảng viên giỏi, và những bảng đánh giá sinh viên của cô luôn nhận được cái gật đầu đồng ý không hề nao núng. Nhưng Eric chưa bao giờ yêu cầu cô xem lại chúng. Cô cảm thấy sợ, lần đầu tiên trong sự nghiệp, cô không thể đối diện với chính mình, thông qua những bảng đánh giá ấy.
“Đây, cô hãy dành ít phút xem qua nào.”
Anh đưa cô bản sao của chồng đánh giá cùng với trang tóm tắt đặt ở trên.
Trên thang điểm từ một đến năm, từ hoàn toàn không đồng ý đến đồng ý hoàn toàn: Giảng viên thúc đẩy sinh viên làm việc đạt hiệu quả cao.
Toàn bốn đến năm điểm.
Học tại lớp nâng cao khả năng hiểu tài liệu. Bốn, ba và hai điểm.
Giảng viên giúp tôi hiểu những khái niệm khó hiểu và ý tưởng phức tạp.
Vẫn bốn, ba và hai.
Giảng viên khích lệ đặt câu hỏi và cân nhắc các quan điểm khác nhau.
Hai học sinh đánh giá một điểm.
Trên thang điểm từ một đến năm theo mức từ kém đến xuất sắc, hãy đánh giá chung giảng viên.
Hầu như là ba điểm. Nếu cô nhớ không lầm, cô chưa bao giờ nhận được điểm thấp hơn bốn trong mục này.
Toàn bộ trang tóm tắt được rải lên những con điểm ba, hai và một. Cô không cố tự nhủ rằng bảng đánh giá ấy chẳng thể hiện một điều gì ngoài nhận xét tường tận, chính xác không chút hiềm khích từ các sinh viên của cô. Nhìn từ bên ngoài có thể thấy được khả năng giảng dạy của cô còn bị ảnh hưởng nhiều hơn những gì cô ý thức được. Dù vậy, cô vẫn sẵn sàng cược mọi thứ rằng cô vẫn còn giỏi hơn rất nhiều so với người được đánh giá tệ nhất trong khoa. Có lẽ cô chìm xuống nhanh thật, nhưng không lý gì cô chạm đến đáy cả.
Cô ngước nhìn Eric, sẵn sàng đối mặt với âm điệu có lẽ cô chẳng thích nhưng cũng không hẳn là khó chịu.
“Nếu tôi không thấy tên cô trong bảng tổng kết này, tôi sẽ chẳng suy nghĩ gì đâu. Sự tụt dốc như vầy vốn không phải những gì tôi thường thấy ở cô, nhưng thật ra cũng chưa đến nỗi. Cái đáng quan tâm là những nhận xét được viết ra, và tôi nghĩ là chúng ta nên nói chuyện.”
Alice chưa xem thêm gì ngoài trang tổng kết. Anh chuyển sang ghi chép của anh và đọc lớn.
“Cô bỏ qua cả những khối kiến thức khổng lồ trong chương trình nên sinh viên cũng bỏ qua luôn, nhưng khi kiểm tra cô lại muốn chúng em biết những kiến thức ấy.”
“Có vẻ như cô không biết về kiến thức mình đang dạy.”
“Đi học thật phí thời gian. Em có thể tự đọc sách.”
“Theo dõi bài giảng của cô không dễ chút nào. Mà ngay cả cô còn không theo được. Khóa học này so với khóa khởi đầu của cô thì kém xa.”
“Một lần cô vào lớp nhưng chẳng dạy gì. Cô chỉ ngồi vài phút rồi đi mất. Lần khác, cô giảng lại đúng bài cô đã giảng một tuần trước. Em không bao giờ dám làm mất thời gian của Tiến sĩ Howland nhưng em nghĩ cô cũng không nên làm mất thời gian của em.”
Không dễ nghe chút nào. Tình hình thật sự trầm trọng hơn rất nhiều những gì cô ý thức được.
“Alice, chúng ta biết nhau lâu rồi phải không?”
“Đúng vậy.”
“Vậy bỏ qua cho tôi hỏi chuyện riêng tư nhé. Gia đình cô ổn chứ?”
“Vâng.”
“Vậy còn cô thì sao, có khi nào cô cảm thấy quá căng thẳng hay trầm cảm không?”
“Không, không phải đâu.”
“Thật sự tôi cũng hơi ngượng khi hỏi thế này, nhưng cô có nghĩ là cô bị nghiện rượu hay vấn đề tế nhị gì không?”
Cô thật sự đã nghe đủ. Cô không thể sống khi mang tiếng nghiện ngập trầm cảm hay căng thẳng gì cả. Thà bị mất trí vẫn còn ít phải chịu nhục hơn như thế.
“Eric, tôi mắc chứng Alzheimer.”
Mặt anh trắng bệch đi. Anh đã sẵn sàng nghe chuyện John phản bội cô. Anh cũng chuẩn bị giới thiệu một bác sĩ tâm lý giỏi cho cô. Anh thậm chí lên hẳn kế hoạch can thiệp hoặc buộc cô phải chấp nhận vào bệnh viện McLean để cai rượu. Nhưng anh chưa chuẩn bị cho tình huống này.
“Tôi được chẩn đoán hồi tháng Một. Học kỳ vừa rồi tôi giảng dạy rất khó khăn, nhưng tôi không nhận thức được căn bệnh diễn tiến đến như vậy.”
“Tôi rất tiếc, Alice.”
“Tôi cũng vậy.”
“Tôi không lường trước chuyện này.”
“Tôi cũng không.”
“Tôi đã nghĩ là có gì đó nhất thời rồi cô sẽ vượt qua. Đây không phải là vấn đề nhất thời chúng ta đang mong đợi.”
“Không, không phải đâu.”
Alice nhìn anh suy nghĩ. Eric giống như người cha của tất cả mọi người trong khoa, anh luôn bảo ban và rộng lượng, nhưng cũng rất thực tế và nghiêm khắc.
“Hàng năm phụ huynh phải đóng bốn mươi nghìn đô. Họ không dễ chấp nhận chuyện này đâu.”
Không, dĩ nhiên là không. Họ đâu có vung ra hàng đống tiền để cho con trai con gái họ đi học một giảng viên mắc Alzheimer. Có thể cô cũng đã thoáng nghe thấy những lời gièm pha xáo trộn trên chương trình thời sự buổi tối.
“Ngoài ra, một vài học sinh trong lớp cô đang tranh cãi về điểm. Tôi sợ chuyện này sẽ tiếp tục gia tăng.”
Trong suốt hai mươi lăm năm giảng dạy, chưa từng có ai tranh cãi về số điểm mà cô cho. Chưa một sinh viên nào.
“Tôi nghĩ có lẽ cô không nên tiếp tục giảng dạy, nhưng tôi tôn trọng chương trình của cô. Cô có kế hoạch gì chưa?”
“Tôi hi vọng được ở lại hết năm rồi tôi sẽ đi nghiên cứu. Tôi đã không chú ý đến vấn đề là những triệu chứng biểu hiện và ảnh hưởng đến bài giảng như vậy. Tôi không muốn trở thành một giảng viên kém cỏi, Eric à. Tôi không phải như vậy.”
“Tôi biết là không. Vậy cáo bệnh rồi sau đó cô bắt đầu năm nghiên cứu thì thế nào?”
Anh muốn cô nghỉ ngay. Cô vốn là một người gương mẫu trong công việc và có quá khứ sáng sủa, quan trọng nhất là cô thuộc biên chế. Theo pháp lý, họ không được sa thải cô. Nhưng cô không muốn giải quyết theo hướng như vậy. Cô càng muốn tiếp tục sự nghiệp thì cô càng phải chiến đấu với bệnh Alzheimer chứ không phải với Eric hay Đại học Harvard.
“Tôi chưa sẵn sàng ra đi, nhưng tôi đồng ý với anh, mặc dù tim tôi muốn nát vụn ra, tôi nghĩ là tôi không nên dạy nữa. Tôi sẽ tiếp tục làm giáo viên hướng dẫn cho Dan và tôi vẫn muốn tiếp tục tham gia các hội nghị chuyên đề và các cuộc họp.”
Tôi không còn là giảng viên nữa.
“Tôi nghĩ chúng ta sẽ sắp xếp được. Tôi muốn cô nói chuyện với Dan, giải thích cho cậu ấy những gì đang xảy ra và để cậu ấy tự quyết định. Tôi cũng sẽ rất vui được đồng hướng dẫn với cô nếu cô cảm thấy thoải mái. Ngoài ra, rõ ràng là cô cũng không nên đảm nhiệm thêm nghiên cứu sinh nào nữa. Dan sẽ là người cuối cùng.”
Tôi không còn là nhà nghiên cứu khoa học nữa.
“Có lẽ cô cũng không nên nhận lời phát biểu ở các đại học khác hoặc là ở các buổi hội thảo. Với khả năng hiện tại thì xuất hiện ở Harvard không phải là ý hay. Tôi cũng để ý rằng cô hầu như cũng không đi xa nữa, nên chắc cô cũng đã nhận ra việc này rồi chứ.”
“Vâng, đúng vậy.”
“Cô muốn sắp xếp để báo với lãnh đạo và các thành viên trong khoa như thế nào? Tôi cũng nhắc lại là tôi tôn trọng chương trình của cô, cô muốn làm sao cũng được.”
Cô sắp sửa nghỉ dạy, thôi làm nghiên cứu, đi lại và giảng bài. Mọi người sẽ chú ý đến. Họ sẽ suy diễn, xầm xì to nhỏ bàn tán. Họ sẽ nghĩ rằng cô là một con nghiện, trầm cảm, căng thẳng. Mà có khi một vài người cũng đã làm vậy rồi.
“Tôi sẽ báo với họ. Tôi nên tự nói.”
NGÀY 17 THÁNG CHÍN, NĂM 2004
Chào tất cả bạn bè đồng nghiệp,
Mặc dù rất đắn đo và vô cùng nuối tiếc, nhưng tôi đã quyết định rút khỏi mọi công việc giảng dạy, nghiên cứu ở Harvard. Vào tháng Một năm nay, tôi đã được chẩn đoán mắc phải Alzheimer khởi phát sớm.
Mặc dù căn bệnh của tôi mới ở giai đoạn đầu với mức độ vừa phải, nhưng sự khó lường trong suy giảm nhận thức khiến tôi không thể đạt được những yêu cầu cho vị trí hiện tại cùng với những tiêu chuẩn cao nhất mà nơi đây và cả tôi luôn đặt ra cho bản thân.
Tuy mọi người không còn gặp tôi ở các giảng đường hay thấy tôi vùi đầu vào viết những đề xuất kinh phí nữa, tôi vẫn ở lại dưới vai trò giảng viên hướng dẫn luận văn của Dan Maloney, và tôi sẽ vẫn tham gia các buổi họp và hội nghị chuyên đề. Ở đó, tôi hi vọng được chào đón để tiếp tục cống hiến như một thành viên tích cực.
Xin gửi đến tình cảm và sự biết ơn chân thành nhất,
Alice Howland
TUẦN ĐẦU TIÊN CỦA KỲ HỌC vào mùa thu, Marty tiếp quản công việc giảng dạy của Alice. Khi cô gặp anh để bàn giao giáo trình và các tài liệu giảng dạy, anh ôm lấy cô và bày tỏ sự tiếc nuối. Anh hỏi cô cảm thấy thế nào và anh có thể làm gì cho cô không. Cô cảm ơn anh và nói rằng cô vẫn khỏe. Và khi anh đã nhận đủ mọi thứ để bắt đầu khóa học, anh rời khỏi văn phòng của cô nhanh hết mức có thể.
Khá nhiều những thành viên trong khoa cũng đến y như thế.
“Tôi rất tiếc, Alice.”
“Tôi không thể tin được.”
“Tôi không biết làm sao nữa.”
“Tôi có thể làm gì bây giờ?”
“Cô chắc không? Cô trông không khác gì mấy.”
“Tôi rất tiếc.”
“Tôi rất tiếc.”
Rồi họ rời đi thật nhanh. Họ đến gặp cô bày tỏ lòng tốt theo lẽ lịch sự, nhưng họ không đến thường xuyên. Đa phần là bởi lịch làm việc của họ đặc kín còn lịch của Alice hiện tại trống trơn. Nhưng một nguyên nhân không quan trọng lắm là họ không muốn đến. Gặp mặt cô cũng như đối mặt với căn bệnh thần kinh của cô và một ý nghĩ sẽ nảy ra trong nháy mắt mà không thể tránh được: Họ sẽ bị lây bệnh. Gặp mặt cô thật đáng sợ, và đối với hầu hết mọi người là vậy. Trừ khi trong các buổi họp và hội nghị chuyên đề họ buộc phải gặp.
NGÀY HÔM NAY LÀ BUỔI ĐẦU TIÊN của hội nghị chuyên đề về Tâm lý học diễn ra trong giờ ăn trưa. Leslie, một trong những sinh viên cao học của Eric đã đứng chuẩn bị sẵn sàng ở đầu bàn hội thảo. Trang trình chiếu tiêu đề đã chiếu sẵn lên màn hình. “Đi tìm lời giải: Sự chú ý ảnh hưởng đến khả năng nhận biết những điều chúng ta nhìn thấy như thế nào.” Alice cũng đã sẵn sàng, cô ngồi vào ghế đầu tiên ở chiếc bàn đối diện với Eric. Cô bắt đầu dùng bữa trưa, món bánh xếp cà tím và rau trộn, trong khi ấy, Eric đang thảo luận với Leslie, rồi mọi người dần dần vào kín cả căn phòng.
Vài phút sau, Alice để ý rằng, mọi chỗ tại bàn đều có người ngồi, trừ chiếc ghế bên cạnh cô, và những người đến sau đó bắt đầu đứng ra phía sau phòng. Ai cũng muốn ngồi vào bàn. Không chỉ vì vị trí thuận tiện để theo dõi bài thuyết trình, mà vì ngồi ở bàn thì không phải đối mặt với tình cảnh rối rắm xoay sở giữa dao nĩa, đĩa thức ăn, thức uống, bút và sổ tay. Nhưng rõ ràng, tình cảnh đó vẫn đỡ hơn ngồi cạnh cô. Cô nhìn những người đang không nhìn cô. Khoảng năm mươi người lấp đầy căn phòng này là những người cô đã quen biết bao năm nay, cô đã coi họ như người thân trong gia đình.
Dan vội chạy vào, tóc anh rối bời, áo sơ-mi luộm thuộm, anh đeo kính thay vì kính áp tròng. Anh dừng lại một lúc, rồi đi thẳng đến chiếc ghế trống cạnh Alice và thả quyển sổ lên bàn như tuyên bố đó là chỗ của anh.
“Em đã thức cả đêm để viết. Em phải kiếm gì ăn đã, em quay lại liền.”
Phần thuyết trình của Leslie kéo dài cả tiếng đồng hồ. Phải tràn trề năng lượng lắm mới theo dõi hết được, nhưng Alice vẫn theo dõi đến cùng. Sau khi Leslie đã mở hết các trang trình chiếu và màn hình còn lại trống trơn, cô ấy bắt đầu mời mọi người thảo luận. Alice bắt đầu trước tiên.
“Vâng, mời Tiến sĩ Howland” – Leslie nói.
“Tôi nghĩ em đã thiếu một nhóm kiểm soát để đo đạc chính xác khả năng đánh lạc hướng của các yếu tố gây nhiễu. Em có thể lập luận rằng, cho dù vì bất cứ lý do nào, một số yếu tố không được chú ý đến và sự hiện diện của chúng không gây phân tâm. Em có thể kiểm tra khả năng của các đối tượng nghiên cứu có đồng thời để ý và hướng sang các yếu tố gây nhiễu hay không, hoặc em có thể thực hiện một chuỗi thử nghiệm trong đó em thay đổi từng yếu tố gây nhiễu cho từng đối tượng.”
Nhiều người ngồi tại các bàn gật đầu tán thành. Dan ậm ờ, miệng anh tọng đầy bánh xếp. Leslie chộp lấy cây viết trước khi Alice kết thúc ý kiến của cô và hí hoáy ghi chép.
“Phải rồi. Leslie, hãy mở lại trang thiết kế thí nghiệm một lát” – Eric bảo với cô.
Alice nhìn quanh căn phòng. Mọi ánh nhìn đang dán vào màn hình. Họ chăm chú nghe Eric giải thích về bình luận của Alice. Nhiều người tiếp tục gật đầu. Cô cảm thấy chiến thắng và một chút tự mãn. Việc cô mắc phải Alzheimer đâu có nghĩa cô không còn lập luận phân tích được nữa. Cũng đâu có nghĩa cô không xứng đáng được ngồi giữa bọn họ. Và càng không có nghĩa cô không còn xứng đáng được lắng nghe.
Câu hỏi cùng các câu trả lời tiếp nối thắc mắc và giải đáp kéo theo đó vài phút nữa. Alice ăn nốt phần bánh xếp và rau trộn của cô. Dan đứng lên rồi quay lại tức khắc. Leslie chiến đấu với câu hỏi phản biện từ nghiên cứu sinh mới của Marty đặt ra. Màn hình đang chiếu trang thiết kế thí nghiệm của cô ấy. Alice đọc rồi giơ tay lên.
“Vâng, thưa Tiến sĩ Howland?” – Leslie hỏi cô.
“Tôi nghĩ em đã thiếu một nhóm kiểm soát để đo đạc khả năng đánh lạc hướng thực sự của các yếu tố gây nhiễu. Có khả năng rằng một vài cái có thể không được chú ý. Em có thể kiểm tra khả năng đánh lạc hướng đồng thời, hoặc em có thể thay đổi yếu tố gây nhiễu cho từng đối tượng.”
Đây được xem như một luận điểm có giá trị. Phương pháp Alice nhắc đến là cách đúng đắn để thực hiện thí nghiệm này, và báo cáo thí nghiệm của Leslie sẽ không thể xuất bản nếu không đáp ứng được yêu cầu đó. Alice chắc chắn về điều này. Mặc nhiên chẳng ai nhìn ra cả. Cô nhìn những người đang không nhìn cô. Ngôn ngữ cơ thể họ cho thấy sự ngượng ngùng và e sợ. Cô đọc lại dữ liệu trên màn hình. Thí nghiệm đó cần thêm một nhóm kiểm soát. Việc cô mắc phải Alzheimer đâu có nghĩa cô không thể lập luận phân tích. Và cũng đâu có nghĩa cô không biết mình đang nói gì.
“À, đúng rồi, cám ơn cô” – Leslie trả lời.
Nhưng Leslie không ghi chép gì nữa cả, và cô không nhìn thẳng vào mắt Alice, mà cũng không tỏ ra biết ơn chút nào cả.
CÔ KHÔNG CÓ LỚP để dạy, không có đề xuất kinh phí để viết, không có nghiên cứu mới để thực hiện, không có hội thảo để dự, và không có buổi thỉnh giảng nào. Cô cảm thấy như phần lớn nhất của đời cô đã chết đi rồi, phần mà lâu nay cô vẫn thường xuyên tán dương, tô điểm vì vị trí oai vệ của nó. Và những phần nhỏ hơn, ít được coi trọng hơn đang gào khóc với nỗi đau tự thương xót cho bản thân mình, cô tự hỏi những phần nhỏ bé này còn có ý nghĩa gì nếu cô thiếu đi phần to lớn kia.
Cô nhìn qua khung cửa sổ khổng lồ của văn phòng và nhìn những người chạy bộ đang chạy dọc theo đôi bờ uốn lượn của sông Charles.
“Hôm nay anh có thời gian chạy bộ không?” – Cô hỏi John.
“Có thể” – John trả lời.
Anh nhấm nháp ly café và nhìn qua cửa sổ. Cô thầm nghĩ không biết anh thấy gì, liệu mắt anh cũng hướng về những người đang chạy bộ hay liệu anh thấy những gì hoàn toàn khác.
“Em ước mình dành thời gian bên nhau nhiều hơn” – cô nói.
“Ý em là sao? Chúng ta vừa dành cả mùa hè với nhau mà.”
“Không, không phải mùa hè, mà cả cuộc đời mình. Em đang nghĩ về chuyện này và em ước chúng ta đã dành thời gian bên nhau nhiều hơn.”
“Ali à, chúng ta sống cùng nhau, làm cùng chỗ, chúng ta đã dành cả đời bên nhau rồi.”
Ban đầu là vậy. Họ ở cùng nhau, sống chung một cuộc đời. Nhưng năm tháng trôi qua, cuộc sống thay đổi. Họ buộc phải để cuộc đời họ thay đổi. Cô nghĩ về những cuộc nghiên cứu phải xa nhau, họ phân công chăm lo những đứa con, rồi những chuyến đi, những lần họ đi một mình để cống hiến cho công việc. Họ đã sống cạnh nhau rất lâu rồi.
“Em nghĩ chúng ta đã bỏ mặc nhau quá lâu.”
“Anh không cảm thấy bị bỏ mặc, Ali à. Anh thích cuộc sống của chúng ta, anh nghĩ hiện tại chúng ta đang có được sự cân bằng giữa cuộc sống riêng để theo đuổi đam mê và cuộc sống hôn nhân của hai ta.”
Cô nghĩ về con đường theo đuổi đam mê nghiên cứu của anh luôn dữ dội hơn của cô nhiều. Ngay cả khi những thí nghiệm làm anh thất vọng, khi dữ liệu không đồng nhất, khi những giả thuyết sau cũng sai hết, tình yêu anh đặt vào niềm đam mê của anh không bao giờ phai đi chút nào. Dù thất bại đến đâu, dù nghiên cứu làm cho anh phải vò đầu bứt tóc suốt đêm, anh vẫn yêu nó. Thời gian, tâm trí, sự tập trung và năng lượng anh dồn vào đó luôn truyền cảm hứng cho cô làm việc cật lực hơn. Và cô đã làm việc như vậy.
“Em không bị bỏ mặc, Ali. Anh luôn ở ngay bên cạnh em.”
Anh nhìn đồng hồ, rồi nhìn xuống ly café uống dở.
“Anh phải chạy đến lớp rồi.”
Anh tóm lấy chiếc cặp, thả ly café vào thùng rác rồi đến bên cạnh cô. Anh cúi người, ôm lấy mái tóc đen gợn sóng của cô trong tay, anh hôn cô thật dịu dàng. Cô ngước nhìn anh và bặm môi lại, gượng cười, cố kìm lại dòng nước mắt cho đến khi anh đi khỏi văn phòng cô.
Cô ước gì cô là niềm đam mê của anh.
CÔ NGỒI TRONG VĂN PHÒNG trong lúc lớp học Nhận thức tiếp tục mà không có cô và ngắm dòng xe cộ lấp lóa trườn theo đường Memorial Drive. Cô nhấp một ngụm trà. Cô còn nguyên một ngày phía trước, mà lại chẳng có gì để làm. Cô cảm thấy bên hông mình rung lên. Đã 8 giờ sáng. Cô lôi chiếc BlackBerry từ chiếc giỏ xanh nhạt của cô.
Alice, hãy trả lời những câu hỏi sau:
1. Bây giờ là tháng mấy?
2. Cô sống ở đâu?
3. Văn phòng của cô ở đâu?
4. Sinh nhật của Anna vào ngày nào?
5. Cô có bao nhiêu người con?
Nếu cô thấy khó trả lời bất cứ câu hỏi nào trong những câu trên, hãy mở thư mục “Bươm bướm” trên máy tính của cô và làm theo hướng dẫn ngay lập tức.
Tháng Chín
Số 34 đường Poplar, Cambridge
Tòa nhà William James Hall, phòng 1002
Ngày 14 tháng Chín
Ba
Cô nhấp thêm một ngụm trà và tiếp tục nhìn dòng xe cộ trên đường Memorial Drive.