- 12 - THÁNG TÁM, NĂM 2004
Mẹ và em gái cô mất khi cô còn là sinh viên đại học năm nhất. Thậm chí ảnh của mẹ cô và Anne còn không đầy một trang album. Không có bất kỳ bằng chứng cho sự hiện diện của họ ở lễ tốt nghiệp hay hôn lễ của cô, hay những ngày lễ, kỳ nghỉ mát, dịp sinh nhật cùng với cô, John và lũ trẻ. Cô không thể hình dung mẹ mình khi về già, và chắc chắn bà sẽ như thế lúc này nếu còn sống, và Anne sẽ thế nào khi không còn ở tuổi vị thành niên. Tuy nhiên, cô vẫn tin rằng họ đã bước qua cửa trước, không phải như một bóng ma trong quá khứ mà là một thực thể sống và khỏe mạnh, và họ đã ở cùng cô tại ngôi nhà ở Chatham mùa hè này. Cô sợ mình sẽ bối rối khi tỉnh táo trở lại và nhận ra những gì mình thấy chỉ là ảo ảnh, vì thực tâm thì cô mong mẹ và em gái sẽ tới thăm mình. Điều đó chính là thứ đáng sợ nhất trong những thứ mà cô sợ hãi.
Alice, John và Lydia ngồi quanh chiếc bàn đặt ngoài hiên và ăn sáng. Lydia đã nói về những thành viên của đội nhạc kịch mùa hè và những buổi tập dượt của mình. Nhưng hầu như con bé chỉ nói chuyện với John.
“Bố có biết trước khi đến đây con đã rất lo sợ không? Ý con là bố nên nhìn thấy đội ngũ nhân viên của họ. Những MFA ở nhà hát từ NYU, studio đào tạo diễn viên và bằng cấp từ Yale, kinh nghiệm ở Broadway.”
“Wow, có vẻ là một đội ngũ nhiều kinh nghiệm đấy. Họ bao nhiêu tuổi vậy?” – Anh hỏi.
“Ồ, con trẻ nhất nhóm đấy. Hầu hết bọn họ có lẽ ở độ tuổi tầm ba mươi đến bốn mươi, nhưng cũng có một người đàn ông và phụ nữ già cỡ bố với mẹ đấy.”
“Già hả?”
“Bố hiểu ý con mà. Dù sao thì, con không biết con sẽ thế nào nếu không làm việc cùng đội ngũ này, nhưng chúng con được đào tạo cùng nhau, và công việc con đang làm đã mang tới nhiều kỹ năng hữu ích. Con thật sự biết con đang làm gì.”
Alice nhớ đến sự bất an và sự thể hiện trong tháng đầu tiên cô giảng dạy tại Harvard.
“Họ chắc chắn đều có kinh nghiệm hơn con, nhưng không ai trong số họ nghiên cứu về Meisner. Họ đều nghiên cứu về Stanislavsky, hoặc những thủ thuật, nhưng con nghĩ Meisner là cách tiếp cận mạnh mẽ nhất để có được sự tự nhiên trong diễn xuất. Vậy nên dù con không có nhiều kinh nghiệm sân khấu, con cũng sẽ đem lại điều gì đó khác biệt cho cả nhóm.”
“Nghe thật tuyệt, con yêu. Đó có thể là một trong những lý do họ tuyển con. Mà ‘sự tự nhiên trong diễn xuất’, chính xác nó nghĩa là gì?” – John hỏi.
Alice cũng đang tự hỏi điều tương tự, nhưng ngôn ngữ của cô lại đang kết dính sền sệt như một thứ bột, cô liền bị tụt lại phía sau John, như những cuộc trò chuyện bấy lâu nay. Thế nên cô nghe chồng và con gái huyên thuyên dễ dàng trước mặt mình giống như là một khán giả đang xem các diễn viên đứng trên sân khấu.
Cô cắt chiếc bánh vừng làm đôi và cắn một miếng. Cô không thích hương vị giản đơn này. Có thêm một vài gia vị tùy chọn được đặt trên bàn – mứt việt quất dại vùng Maine, một lọ bơ đậu phộng, một thanh bơ đặt trên đĩa và một bát “bơ màu trắng”. Nhưng người ta không gọi nó là “bơ màu trắng”. Nó được gọi là gì nhỉ? Không phải sốt mayonnaise. Không, nó quá dày, như bơ vậy. Nó gọi là gì nhỉ. Cô chỉ con dao cắt bơ vào nó.
“John, anh đưa nó cho em được không?”
John đưa cho cô bát “bơ màu trắng”. Cô thoa một lớp dày lên lát bánh vòng và nhìn chằm chằm vào nó. Cô biết chính xác vị nó thế nào, và rằng mình thích nó, nhưng cô sẽ không cắn miếng nào cho đến khi cô tự mình nói ra cái tên. Lydia nhìn mẹ đang chăm chăm nghiên cứu cái bánh vòng.
“Mẹ, là kem phô mai.”
“Đúng rồi. Kem phô mai. Cảm ơn con, Lydia.”
Điện thoại reo lên, John vào trong nhà để nghe máy. Ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong tâm trí cô là mẹ cô vừa gọi, thông báo cho họ biết cuối cùng bà cũng tới đây. Suy nghĩ đó khá thực tế và có khả năng xảy ra, nó xuất hiện như một lý do để cô mong John trở về bàn ăn trong vài phút tới. Alice chấn chỉnh lại ý nghĩ bốc đồng này, tự mắng chửi mình và gạt nó đi. Mẹ và em gái cô đã chết khi cô còn học năm nhất. Thật điên rồ khi cứ phải tự nhắc nhở bản thân chuyện này.
Ở một mình với con gái, ít nhất trong thời điểm này, cô đã có cơ hội để mở lời.
“Lydia, còn về việc đến trường để lấy bằng ở nhà hát thì sao?”
“Mẹ, mẹ có nghe từng câu từng chữ con vừa nói không đấy? Con không cần bằng cấp.”
“Mẹ nghe mọi thứ con nói và mẹ hiểu hết. Mẹ chỉ đang nghĩ tới một tương lai xa hơn. Mẹ chắc vẫn còn nhiều khía cạnh về nghề diễn mà con chưa khám phá, những điều con có thể học hỏi, hay thậm chí là định hướng đúng đắn. Vấn đề là, một tấm bằng có thể mở ra nhiều cánh cửa hơn, và con cần có nó.”
“Và những cánh cửa đó là gì?”
“Ừm, một trong số đó là, tấm bằng có thể tăng thêm uy tín cho con nếu con muốn giảng dạy.”
“Mẹ, con muốn trở thành một diễn viên, chứ không phải giáo viên. Đấy là thứ mẹ muốn, chứ không phải con.”
“Mẹ biết, Lydia, con đã thể hiện điều đó rất rõ. Mẹ không hẳn là nghĩ đến một giáo viên dạy ở trường đại học hay cao đẳng, mặc dù con có khả năng đó. Mẹ nghĩ ngày nào đó con có thể dạy hội thảo như những người con đã gặp và rất quý trọng.”
“Mẹ, con xin lỗi, nhưng con sẽ không tốn năng lượng để suy nghĩ về những gì con có thể làm nếu con không đủ giỏi để trở thành diễn viên. Con không cần phải nghi ngờ bản thân như thế.”
“Mẹ không nghi ngờ chuyện con có thể có sự nghiệp diễn xuất. Nhưng nếu một ngày con quyết định lập gia đình, và con muốn bước chậm lại nhưng vẫn ở trong giới kinh doanh? Dạy hội thảo, thậm chí là tại nhà cũng là một khả năng linh hoạt khá tốt. Thêm vào đó, vấn đề không phải là con biết những gì, mà là con biết những ai. Các khả năng kết nối cộng đồng với bạn cùng lớp, giáo sư, nữ sinh, mẹ chắc đó là một vòng khép kín mà con sẽ không dễ dàng bước vào nếu không có một tấm bằng hay có một vị trí trong kinh doanh đã được công nhận.”
Alice dừng lại, chờ Lydia thốt lên “Dạ, nhưng mà…”, song cô không nói gì cả.
“Con hãy nhận thức điều này. Cuộc sống sẽ ngày càng bận rộn hơn. Con sẽ khó hòa nhập khi càng về già. Con có thể nói chuyện với vài người trong đội nhạc kịch và nhìn nhận những quan điểm của họ về việc tham gia diễn xuất khi đã ba mươi, bốn mươi tuổi hay khi lớn hơn. Được chứ.”
“Dạ được.”
Được rồi. Đó là lần gần nhất họ đi tới sự thống nhất trong chủ đề này. Alice cố nghĩ thêm chuyện gì để nói nhưng không thể. Bấy lâu nay, họ chỉ nói về vấn đề này. Sự im lặng giữa hai người tăng lên.
“Mẹ, nó như thế nào ạ?”
“Cái gì như thế nào?”
“Mắc chứng Alzheimer ấy. Mẹ có cảm nhận được nó không?”
“Ừm, mẹ biết bản thân không bị nhầm lẫn hay lặp đi lặp lại điều gì bây giờ, nhưng chỉ vài phút trước, mẹ đã không thể nhớ ra từ “kem phô mai”, và mẹ đã cảm thấy khó khăn khi trò chuyện với hai bố con. Mẹ biết chỉ là vấn đề thời gian trước khi những chuyện này lặp lại lần nữa, và thời gian giữa chúng đang ngày một ngắn hơn. Còn vấn đề xảy ra thì càng nghiêm trọng hơn. Vì vậy kể cả khi mẹ cảm thấy hoàn toàn bình thường, mẹ biết bản thân không như thế. Đó không phải kết thúc, chỉ là khoảng nghỉ ngơi. Mẹ không còn tin chính mình nữa.”
Ngay khi kết thúc câu nói, cô lo lắng vì đã thú nhận quá nhiều. Cô không muốn làm con bé sợ. Nhưng Lydia đã không nao núng và vẫn còn quan tâm, nên Alice cảm thấy thoải mái hơn.
“Vậy là mẹ biết khi nào nó diễn ra?”
“Hầu như là vậy.”
“Như chuyện xảy ra khi mẹ không thể nhớ ra cái tên của kem phô mai?”
“Mẹ biết mẹ tìm kiếm điều gì, nhưng bộ não mẹ không làm được. Nó giống như khi con muốn một ly nước, mà bàn tay con lại không cầm cái ly lên. Con lịch sự năn nỉ nó, đe dọa nó, nhưng tay con vẫn không nhúc nhích. Cuối cùng thì tay con có thể di chuyển, nhưng thay vào đó con lại cầm lọ muối lên, hoặc con va vào cái ly và làm nước đổ đầy bàn. Hoặc tới khi tay con có thể cầm cái ly và đưa lên môi, thì sự nóng ran trong cổ họng con đã biến mất, con không cần uống thêm bất kỳ thứ gì nữa. Thời điểm cần thiết đã trôi qua.”
“Nghe cứ như tra tấn ấy.”
“Nó đấy.”
“Con rất tiếc.”
“Ừm, cảm ơn con.”
Lydia chìa bàn tay qua những bát đĩa và ly nước, qua cả khoảng cách thời gian mà nắm lấy tay mẹ. Alice nắm chặt và mỉm cười. Cuối cùng, họ cũng tìm ra thứ gì khác để nói.
ALICE TỈNH DẬY trên băng ghế dài. Cô thường xuyên ngủ trưa trong khoảng thời gian gần đây, có khi là hai lần một ngày. Trong khi việc nghỉ trưa rất có ích cho sự chú tâm và năng lượng của cô, thì lúc thức giấc cô lại khó chịu đến gai người. Bốn giờ mười lăm. Cô không thể nhớ mình đã ngủ gà ngủ gật lúc nào. Cô nhớ đến bữa ăn trưa. Một bánh sandwich, vài loại sandwich, cùng John. Lúc đó có thể là khoảng giữa trưa. Có thứ gì đó ở bên cạnh đè vào hông cô. Quyển sách cô đang đọc. Cô hẳn đã thiếp đi khi đang đọc sách.
Bốn giờ hai mươi. Buổi diễn tập của Lydia kéo dài đến bảy giờ. Cô ngồi dậy và lắng nghe. Cô có thể nghe tiếng chim hải âu kêu quang quác ở Hardings và tưởng tượng cảnh truy lùng kho báu của chúng, một cuộc chạy đua điên rồ để tìm và cắn xé những mẩu bánh cuối cùng mà bọn người có làn da rám nắng đã bất cẩn bỏ lại. Cô đứng lên và bước vào cuộc săn của chính mình, ít điên cuồng hơn lũ hải âu, cô tìm John. Cô kiểm tra phòng ngủ và suy xét. Cô nhìn ra đường lớn. Không có ô tô. Chỉ vừa mới nguyền rủa anh vì không để lại lời nhắn thì cô đã thấy nó được đính nam châm trên cửa tủ lạnh.
Ali – Anh lái xe ra ngoài, sẽ về sớm, John.
Cô ngồi xuống chiếc ghế dài và nhặt quyển sách lên, Lý trí và Tình cảm của Jane Austen, nhưng không mở nó ra. Cô thật sự không muốn đọc chúng bây giờ. Cô chỉ mới đọc được nửa quyển Moby-Dick trước khi làm mất nó. Cô và John đã lật tung ngôi nhà nhưng vẫn không tìm thấy. Họ thậm chí truy tìm cả những ngóc ngách đặc biệt mà một người đãng trí có thể đặt quyển sách vào – tủ lạnh, tủ đông, tủ đựng thức ăn, ngăn kéo tủ quần áo, tủ đựng khăn gối, lò sưởi. Nhưng không ai tìm thấy. Cô đoán chắc mình đã để quên trên bãi biển. Cô hy vọng thế. Đó là việc ít nhất mà cô đã làm trước khi chứng Alzheimer lại bộc phát.
John đã đưa một bản sao khác lúc đón cô. Có thể anh đã đến hiệu sách. Cô hy vọng là vậy. Nếu cô chờ lâu hơn, cô sẽ quên tất cả những gì đã đọc và phải bắt đầu lại. Tất cả mọi việc. Chỉ cần nghĩ đến cũng khiến cô mệt mỏi lần nữa. Trong khi chờ đợi, cô bắt đầu với Jane Austen, nhà văn cô yêu thích. Nhưng tác phẩm này không thu hút được sự chú ý của cô.
Cô lang thang ở tầng trên đến phòng ngủ của Lydia. Trong số ba đứa con, cô biết về Lydia ít nhất. Trên nóc tủ quần áo, có những chiếc nhẫn màu ngọc lam bằng bạc, một dây chuyền bằng da, một chiếc đính đầy những hột cườm sặc sỡ ló ra khỏi hộp các-tông để mở. Bên cạnh hộp là một đống kẹp tóc và một cái khay để đống hương. Lydia thật sự có đôi chút lập dị.
Quần áo của con bé ở trên sàn, có cái gấp lại, có cái không. Cũng không có gì nhiều trong ngăn kéo tủ quần áo. Con bé còn chưa dọn giường. Lydia còn là một đứa không mấy cẩn thận.
Những quyển sách về thơ và nhạc kịch nằm trên kệ sách – Người mẹ bóng đêm; Bữa tối với bạn bè; Bằng chứng; Cân bằng mong manh; Tuyển tập sông Spoon; Agnes của Thiên Chúa; Những thiên thần Mỹ; Oleanna. Lydia là một diễn viên.
Cô cầm một vài vở kịch lên và lướt qua chúng. Chúng tầm tám mươi đến chín mươi trang, và mỗi trang chỉ thưa thớt đôi dòng. Có lẽ nó giúp con bé dễ dàng và thoải mái hơn khi đọc kịch bản. Và mình sẽ nói về chúng với Lydia. Cô nắm chặt vở Bằng chứng.
Sổ nhật ký, iPod của Lydia, quyển Học diễn xuất với Sanford Meisner, và một bức tranh được đóng khung đặt trên giường của cô. Alice cầm quyển nhật ký lên. Cô do dự, nhưng chỉ thoáng qua. Cô không có nhiều thời gian xa xỉ. Ngồi xuống giường, cô lướt qua từng trang giấy viết về những giấc mơ và lời thú tội của con gái mình. Cô đã đọc về những khó khăn và sự đột phá trong lớp diễn xuất, nỗi sợ và niềm hy vọng xung quanh buổi thử giọng, sự thất vọng và niềm vui sướng trong buổi thử vai. Cô đã đọc về niềm đam mê và sự kiên trì của một cô gái trẻ tuổi.
Cô đọc về Malcolm. Trong khi họ đang vào vai ở một phân đoạn kịch tính ở lớp học, Lydia đã phải lòng anh ta. Một lần con bé nghĩ mình có thể mang thai, nhưng không. Lydia cảm thấy nhẹ nhõm, vì chưa sẵn sàng để kết hôn hay có con. Trước tiên con bé muốn tìm con đường riêng của mình trong thế giới.
Alice nghiên cứu bức ảnh được đóng khung của Lydia cùng một người đàn ông, có thể là Malcolm. Khuôn mặt tươi cười của họ chạm vào nhau. Cả hai trong bức ảnh đều hạnh phúc. Lydia đã là một cô gái trưởng thành.
“Ali, em có đây không?” – John hỏi.
“Em ở trên lầu này.”
Cô đặt quyển nhật ký và khung ảnh lên giường rồi bước xuống tầng dưới.
“Anh định đi đâu à?” – Alice hỏi.
“Anh ra ngoài một lát.”
Anh cầm hai tay hai chiếc túi nhựa trắng.
“Anh đã mua cho em một bản sao mới của Moby Dick à?”
“Đại loại thế.”
Anh đưa cho Alice một chiếc túi. Nó đựng đầy những chiếc DVD – Moby Dick với Gregory Peck và Orson Welles, Vua Lear với Laurence Olivier, Casablanca, Bay trên tổ chim cúc cu, Giai điệu hạnh phúc, luôn là những thứ ưa thích của cô.
“Anh nghĩ những thứ này có thể dễ dàng với em hơn. Và chúng ta có thể cùng xem.”
Cô mỉm cười.
“Có gì trong cái túi kia vậy?”
Cô cảm thấy choáng váng, như một đứa trẻ vào buổi sáng Giáng Sinh. Anh kéo ra một gói bỏng ngô được hâm nóng và một hộp Milk Duds.
“Chúng ta có thể xem Giai điệu hạnh phúc chứ?”
“Chắc chắn rồi.”
“Em yêu anh, John.”
Cô vòng cánh tay quanh người anh.
“Anh cũng yêu em, Ali.”
Với bàn tay đặt cao trên lưng anh, cô áp mặt vào ngực anh và cảm nhận rõ hơi thở ấm áp của chính mình. Cô muốn nói thêm với anh, rằng anh có ý nghĩa như thế nào, nhưng không tìm được từ để diễn tả. Anh ôm chặt cô hơn một chút. Anh biết. Họ đứng ôm nhau mà không nói gì trong một lúc.
“Đây, em hãy đi làm bỏng ngô, còn anh sẽ lấy đĩa phim và chờ em ở sofa” – John nói.
“Được thôi.”
Cô bước tới lò vi sóng, mở cửa lò và cười to. Cô nên cười.
“Em đã tìm thấy Moby Dick!”
ALICE ĐÃ Ở MỘT MÌNH trong vài giờ. Trong nỗi cô đơn buổi sớm, cô uống trà xanh, đọc một vài trang sách và tập yoga ngoài bãi cỏ. Trong tư thế “chó duỗi mình”, cô lấp đầy phổi với không khí biển ban mai trong lành và cảm thấy xa xỉ một cách kỳ lạ, gần như niềm vui vì đau đớn kéo căng ở gân khoeo và mông cô. Qua khóe mắt, cô quan sát thấy cơ tam đầu bên trái khớp với cơ thể ở vị trí này. Rắn chắc, đường nét như điêu khắc, vô cùng đẹp đẽ. Cả cơ thể cô trông thật khỏe mạnh và xinh đẹp.
Cô đang ở trong hình thái vật chất tốt nhất của cuộc đời mình. Chế độ ăn uống lành mạnh cộng với bài tập thể dục hằng ngày cân đối với lực ở cơ tam đầu, sự linh hoạt ở hông, bắp chân mạnh mẽ và khả năng hô hấp dễ dàng trong suốt cuộc chạy bốn dặm. Chúng, dĩ nhiên, chỉ ở trong tâm trí cô. Không hồi đáp, bất tuân, yếu đuối.
Cô lấy mấy viên Aricept, Namenda, loại thuốc viên bí ẩn Amylix còn đang thử nghiệm, Lipitor, vitamin C và E, và aspirin cho trẻ em. Cô dùng các chất chống oxy hóa bổ sung bằng các loại quả việt quất, vang đỏ, và chocolate đen. Cô uống trà xanh. Cô thử dùng bạch quả. Cô ngồi thiền và chơi Numero. Cô đánh răng bằng cánh tay không thuận. Cô ngủ khi đã quá mệt mỏi. Tuy nhiên, không có nỗ lực nào trong số đó cho một kết quả có thể trông thấy hay đo đếm được. Có lẽ khả năng nhận thức của cô sẽ xấu đi đáng kể nếu cô không tập thể dục, dùng Aricept hay quả việt quất. Có lẽ chẳng khó khăn gì, chứng mất trí của cô sẽ chạy điên cuồng. Có lẽ vậy. Nhưng cũng có thể toàn bộ những điều này chẳng gây ảnh hưởng gì. Cô không thể biết, trừ khi chấm dứt điều trị, thôi ăn chocolate hay uống vang, và ngồi chờ cho tới tháng kế. Đấy không phải cuộc thử nghiệm cô mong muốn.
Cô đứng thành tư thế chiến binh, thở ra và chìm sâu hơn trong tư thế lao tới kẻ thù, chấp nhận sự khó chịu và thách thức để tập trung và chịu đựng, quyết tâm duy trì tư thế này. Quyết tâm vẫn là một chiến binh.
John bước vào nhà bếp, quả đầu bù xù như thây ma nhưng trang phục đã sẵn sàng để chạy bộ.
“Anh muốn uống cà phê trước không?” – Alice hỏi.
“Không, ta đi thôi, anh sẽ uống khi mình quay về.”
Họ chạy hai dặm mỗi sáng dọc đường chính đến trung tâm thành phố và trở về theo tuyến đường cũ. Cơ thể anh đã trở nên thon gọn và anh có thể chạy ở khoảng cách này rất dễ dàng, nhưng anh đã không tận hưởng giây phút đó. Anh chạy cùng cô, nhẫn nhịn và không than vãn, với sự nhiệt tình và say mê như khi anh trả hóa đơn hay giặt giũ. Và cô yêu anh vì lẽ đó.
Cô chạy phía sau, để anh chọn tốc độ, quan sát và lắng nghe như thể anh là một nhạc cụ tuyệt đẹp – khuỷu tay anh đánh qua lại như con lắc, hơi thở ra nhịp nhàng và thoáng mát, nhịp gõ của đôi giày thể thao xuống vỉa hè đầy cát. Sau đó anh nhổ nước bọt, và cô bật cười. Anh cũng không hỏi tại sao.
Họ đang trên đường về nhà, cô vẫn chạy bên cạnh anh. Trong một thoáng thương cảm, cô định nói với anh rằng anh không cần phải chạy cùng cô nếu không muốn, rằng cô có thể tự xử lý những tuyến đường này. Nhưng sau đó, theo lộ trình của anh, họ rẽ phải vào một ngã ba trên đường Mill về phía ngôi nhà, nơi cô đã định rẽ trái. Alzheimer không thích bị bỏ quên.
Trở về nhà, cô cảm ơn, hôn lên gò má ướt đẫm mồ hôi của anh, và sau đó họ đi thẳng vào nhà tắm, bỏ qua Lydia còn trong bộ đồ ngủ và đang uống cà phê ngoài cổng. Mỗi buổi sáng, cô và Lydia thảo luận mọi vở kịch. Alice đã liếc qua phần ngũ cốc với việt quất, bánh vòng hạt mè với kem phô mai, cà phê và trà. Bản năng của Alice đã đúng. Cô thích đọc những vở kịch bất tận hơn là những tiểu thuyết hay tiểu sử danh nhân, và kể những gì vừa đọc với Lydia, cho dù đó là cảnh một, hành động đầu, hoặc toàn bộ vở kịch, đã chứng minh một cách thú vị và mạnh mẽ cho việc tăng cường bộ nhớ của cô. Qua việc phân tích phân cảnh, nhân vật, và cốt truyện với Lydia, Alice nhận thấy chiều sâu trong trí tuệ của con gái mình, sự hiểu biết phong phú về nhu cầu, cảm xúc và sự đấu tranh của con người. Cô nhìn Lydia. Và cô yêu con bé.
Hôm nay, họ thảo luận về một cảnh của vở Những thiên thần Mỹ. Họ lướt tới lui những lời hỏi đáp đầy hăm hở, cuộc đối thoại hai chiều, bình đẳng, vui vẻ. Vì Alice không phải cạnh tranh với John để hoàn thiện ý nghĩ của mình, cô có thêm thời gian và không bị bỏ lại phía sau.
“Con thấy thế nào khi đóng cảnh này với Malcolm?” – Alice hỏi.
Lydia nhìn chằm chằm cô như thể câu hỏi kia thổi bay hết tâm trí cô.
“Hả?”
“Không phải con và Malcolm đã diễn cảnh này trong lớp sao?”
“Mẹ đọc nhật ký của con?”
Dạ dày của Alice trống rỗng. Cô cứ nghĩ Lydia đã từng nói với cô về Malcolm.
“Con yêu, mẹ xin lỗi...”
“Con không tin được mẹ làm thế. Mẹ chẳng biết lý lẽ gì cả!”
Lydia đẩy ghế và giận dữ bỏ đi, mặc kệ một mình Alice ngồi ở bàn, choáng váng và mặt mày xây xẩm. Một vài phút sau, Alice nghe thấy tiếng cửa trước đóng sầm lại.
“Đừng lo lắng, con bé sẽ bình tĩnh lại thôi” – John nói.
Cả buổi sáng cô đã cố làm điều gì đó khác: dọn dẹp, làm vườn, đọc sách, nhưng tất cả những gì cô làm được chỉ là lo lắng. Cô lo mình đã gây ra một chuyện không thể tha thứ được và sẽ đánh mất sự tôn trọng, lòng tin, và tình yêu của đứa con gái mà cô chỉ mới vừa thấu hiểu.
Sau bữa trưa, Alice và John đi bộ ngoài bãi biển Hardings. Alice bơi cho đến khi cơ thể hoàn toàn kiệt sức. Cô không còn cảm thấy cồn cào trong ruột, cô trở lại ghế dài, ngả người ra, nhắm mắt và tĩnh tâm.
Cô đã từng đọc được ở đâu đó rằng ngồi thiền có thể làm tăng độ dày của vỏ não và làm chậm sự lão hóa. Lydia đều thiền mỗi ngày, và khi Alice bày tỏ sự quan tâm, Lydia đã dạy cô. Cho dù nó có giúp duy trì độ dày vỏ não hay không, Alice vẫn thích thời điểm tập trung yên tĩnh này, nó rất hiệu quả và giữ kín những tiếng ồn lộn xộn, lo lắng trong đầu cô. Nó thật sự mang bình yên cho tâm trí cô.
Sau khoảng hai mươi phút, cô trở lại trạng thái thức tỉnh, thoải mái, tràn đầy sinh lực, và nóng nực. Cô lại ra biển, chỉ để nhanh chóng được ngâm mình trong khoảng thời gian này, giải phóng mồ hôi, nhiệt trong cơ thể nhờ muối biển và tận hưởng sự mát mẻ. Trở lại ghế ngồi, cô nghe thấy một phụ nữ ngồi trên tấm trải bên cạnh nói về vở nhạc kịch tuyệt vời mà bà ta vừa xem ở nhà hát Monomoy. Cô lại cảm thấy cồn cào trong dạ dày.
Tối hôm đấy, John nướng burger phô mai, còn Alice làm salad. Lydia không hề về nhà ăn tối.
“Anh chắc là do buổi diễn tập kết thúc hơi trễ một tí thôi” – John nói.
“Nó ghét em.”
“Nó không ghét em đâu.”
Sau bữa tối, Alice uống thêm hai ly vang đỏ, còn John đã uống ba ly scotch. Vẫn không thấy Lydia về. Sau khi Alice dốc số thuốc buổi tối vào dạ dày đang nhộn nhạo của mình, họ ngồi trên ghế dài với bát bỏng ngô, một hộp Milk Duds và xem Vua Lear.
John đánh thức cô trên chiếc ghế dài. Tivi đã tắt và căn nhà chìm trong bóng tối. Cô chắc hẳn đã ngủ trước khi bộ phim kết thúc. Dù thế nào cô cũng không nhớ ra cái kết. Anh dẫn cô lên cầu thang để vào phòng ngủ của họ.
Cô đứng ở bên giường, đặt tay lên miệng vì không thể tin nổi, nước mắt đầm đìa trên mặt, nỗi lo lắng bị trục xuất khỏi dạ dày và tâm trí cô. Nhật ký của Lydia nằm trên ghế.
“XIN LỖI CON VỀ TRỄ” – TOM NÓI và bước vào.
“Được rồi, mọi người, giờ có Tom ở đây, Charlie và con có một vài tin muốn chia sẻ” – Anna nói, – “Con đã mang thai năm tuần và là song sinh!”
Những cái ôm, nụ hôn và lời chúc mừng cũng như các câu hỏi liên tiếp dành tặng cho Anna. Khi Alice bắt đầu cảm thấy mình khó có thể theo kịp cuộc trò chuyện của các thành viên, sự nhạy cảm trong cô cùng những điều chưa nói, ngôn ngữ cơ thể và cảm xúc kìm nén bắt đầu lớn dần lên. Cô đã kể hiện tượng này với Lydia vào vài tuần trước, con bé nói rằng đấy là một kỹ năng tuyệt vời để trở thành diễn viên. Con bé nói rằng mình và những diễn viên khác đã vô cùng khó khăn khi nỗ lực tập trung tách rời bản thân khỏi ngôn ngữ nói để không bị ảnh hưởng bởi hành động và cảm xúc của người khác. Alice không hoàn toàn hiểu hết sự khác biệt ấy, nhưng cô yêu cái cách mà Lydia nhìn khuyết điểm của cô như một kỹ năng tuyệt vời.
John trông hạnh phúc và vui mừng, nhưng Alice thấy anh chỉ chạm vào một chút niềm hạnh phúc và vui mừng mà anh thật sự cảm thấy, có lẽ vì cố gắng tôn trọng lời cảnh báo “vẫn còn quá sớm” của Anna. Thậm chí nếu Anna không cảnh báo, anh vẫn mê tín dị đoan, tin rằng “nói trước bước không qua”. Nhưng anh đã không đợi được nữa. Anh muốn có cháu.
Ẩn chứa trong niềm hạnh phúc và phấn khích của Charlie, Alice nhìn thấy sự căng thẳng dày đặc bao phủ quanh một lớp khủng hoảng còn dày hơn. Alice nghĩ mọi người dễ dàng nhìn ra được, nhưng chỉ riêng Anna dường như không biết gì, và cũng không ai ý kiến về điều đó. Hay cô chỉ đang nhìn thấy sự lo lắng điển hình của một người lần đầu làm cha? Charlie đang lo lắng vì phải nuôi hai miệng ăn cùng một lúc hay trả học phí đại học cũng gấp đôi? Chúng chỉ giải thích cho sự căng thẳng đang hiện trên mặt Charlie. Hay cậu ấy cũng đang sợ cái viễn cảnh có hai đứa con học đại học, và, cùng lúc đó, với một người vợ bị mất trí?
Lydia và Tom đứng cạnh nói chuyện với Anna. Những đứa trẻ xinh đẹp, những đứa trẻ đã không còn là trẻ con nữa. Lydia trông thật rạng rỡ; con bé đang thích thú với tin vui này còn hơn là việc cả gia đình đều ở đây để xem con bé diễn.
Tom nở nụ cười chân thành, nhưng Alice thấy một tia bứt rứt từ cậu, đôi mắt và má hơi chùng, cơ thể cậu căng cứng hơn. Có phải vì trường lớp? Một cô bạn gái à? Tom nhận ra mẹ đang quan sát mình.
“Mẹ, mẹ cảm thấy thế nào?” – Cậu hỏi.
“Khá là tuyệt.”
“Thật chứ?”
“Ừ, thật tình là mẹ thấy ổn.”
“Mẹ yên lặng quá đấy.”
“Có nhiều người nói cùng lúc với nói nhanh quá mà” – Lydia lên tiếng.
Nụ cười của Tom vụt tắt, và trông anh như chực khóc. Chiếc BlackBerry của Alice trong cái túi em bé màu xanh ở bên hông cô, rung lên nhắc nhở đã đến giờ uống thuốc buổi chiều. Cô muốn trì hoãn vài phút. Cô không muốn uống chúng lúc này, ngay trước mặt Tom.
“Lyd, buổi trình diễn ngày mai của con là lúc mấy giờ vậy?” – Alice hỏi, cầm chiếc BlackBerry trong tay.
“Tám giờ ạ.”
“Mẹ, mẹ không cần lên lịch gì đâu. Tụi con đều ở đây mà. Mẹ cứ làm như tụi con sẽ quên đưa mẹ đi cùng ấy” – Tom nói.
“Tên vở kịch chúng ta sắp xem là gì vậy?” – Anna hỏi.
“Bằng chứng” – Lydia đáp.
“Em lo lắng không?” – Tom hỏi.
“Một chút, bởi vì đây là vở mở đầu đêm diễn, và nhà mình đều tới xem. Nhưng em sẽ quên sự tồn tại của mọi người ngay khi em lên sân khấu thôi.”
“Lydia, mấy giờ con diễn vậy?” – Alice hỏi.
“Mẹ, mẹ vừa hỏi rồi. Đừng bận tâm về nó nữa” – Tom lên tiếng.
“Lúc tám giờ, mẹ ạ” – Lydia trả lời. – “Tom, anh vô dụng quá.”
“Không, em mới là vô dụng đấy. Sao em cứ làm mẹ lo lắng về chuyện phải nhớ giờ giấc trong khi mẹ chả cần bận tâm về nó chứ?”
“Mẹ sẽ không phải lo nếu ghi chú trong chiếc BlackBerry. Cứ để mẹ làm vậy đi” – Lydia nói.
“Ồ, mẹ không nên phụ thuộc vào chiếc BlackBerry đó quá. Mẹ nên vận động trí nhớ một xíu khi có thể” – Anna nói.
“Vậy là sao? Mẹ nên nhớ giờ diễn của em hay phụ thuộc mọi thứ vào chúng ta?” – Lydia hỏi.
“Em nên khuyến khích mẹ tập trung và thực sự chú ý. Mẹ nên cố gắng tự mình nhớ lại những thông tin và không được lười biếng” – Anna đáp.
“Mẹ không hề lười biếng” – Lydia nói.
“Em và chiếc BlackBerry đó đang làm thế đấy. Nhìn xem, mẹ, giờ diễn của Lydia là mấy giờ thế?” – Anna hỏi.
“Mẹ không biết. Bởi vậy mẹ mới hỏi con bé” – Alice đáp.
“Em ấy nói đi nói lại tận hai lần rồi, mẹ à. Mẹ có thể cố nhớ những gì em ấy nói không?”
“Anna, dừng đùa giỡn như vậy đi” – Tom gầm lên.
“Mẹ đang tính lưu nó trong chiếc BlackBerry thì con gián đoạn mẹ.”
“Con không kêu mẹ nhìn vào cái di động BlackBerry đó. Con muốn mẹ nhớ thời gian mà em ấy đã nói.”
“À, mẹ không cần phải nhớ, vì mẹ sẽ ghi chúng vào điện thoại của mình.”
“Mẹ, chỉ cần nghĩ một giây thôi. Mấy giờ ngày mai Lydia sẽ biểu diễn?”
Alice không biết câu trả lời, nhưng cô nghĩ Anna đáng thương cần phải đặt mình vào vị trí của cô.
“Lydia, mai mấy giờ con biểu diễn?” – Alice hỏi.
“Tám giờ ạ.”
“Lúc tám giờ, Anna.”
TÁM GIỜ KÉM NĂM PHÚT, họ yên vị tại chỗ của mình, ở khu vực trung tâm hàng thứ hai. Nhà hát Monomoy là một nơi ấm cúng, với một trăm ghế ngồi và một sàn sân khấu cách hàng ghế đầu hơn một mét. Alice không thể chờ đến khi đèn tắt hết. Cô đã đọc vở kịch và nói về nó rất nhiều lần với Lydia. Cô thậm chí còn muốn giúp con bé định hướng nhân vật. Lydia diễn vai Catherine, con gái của một thiên tài toán học điên loạn đã mất. Alice không thể chờ để thấy những nhân vật này hiện hữu trước mặt mình.
Từ phân cảnh đầu tiên, diễn xuất nhiều sắc thái, trung thực và đa chiều, khiến Alice dễ dàng đắm chìm hoàn toàn trong thế giới tưởng tượng mà những diễn viên tạo ra. Catherine tuyên bố cô đã viết một chứng minh mang tính đột phá, nhưng cả người cô yêu thương lẫn em gái đều ghẻ lạnh và thắc mắc liệu thần kinh cô có ổn định. Cô tự tra tấn mình với nỗi sợ hãi rằng, giống như người cha thiên tài, có thể cô bị điên. Alice trải qua nỗi đau, sự phản bội, và sợ hãi cùng với cô. Nhân vật Catherine đã mê hoặc mọi người từ đầu chí cuối.
Sau đó, các diễn viên ra ngoài chào khán giả. Catherine cười rạng rỡ. John tặng hoa cho cô và ôm thật chặt.
“Con thật tuyệt, thật không thể tin được!” – John nói.
“Cảm ơn bố! Nó không tuyệt đến thế chứ?”
Những người khác cũng ôm hôn và ca tụng Lydia.
“Cháu đã tỏa sáng và đẹp rạng ngời khi diễn” – Alice nói.
“Cảm ơn mẹ.”
“Liệu chúng tôi có được xem cháu diễn vở nào trong mùa hè này nữa không?” – Alice hỏi.
Lydia nhìn Alice một lúc lâu đầy khó chịu trước khi trả lời.
“Không, đây là vai diễn duy nhất của con trong mùa hè này.”
“Cháu chỉ ở đây vào mùa hè thôi à?”
Câu hỏi đặt ra dường như khiến Lydia buồn hơn bao giờ hết. Đôi mắt con bé ngấn nước.
“Phải, con sẽ trở lại L.A vào cuối tháng Tám, nhưng con sẽ trở lại như thế này nhiều lần để thăm gia đình.”
“Mẹ, đó là Lydia, con gái mẹ đấy” – Anna đáp.