- 15 - THÁNG MƯỜI, NĂM 2004
Cô ngồi dậy trên giường và tự hỏi sẽ làm gì. Trời vẫn còn tối, vẫn còn nửa đêm. Cô không còn thấy bối rối. Cô biết lẽ ra cô phải đang ngủ rồi. John nằm ngay bên cạnh cô, anh ngủ sâu đến mức ngáy vang. Nhưng cô không ngủ được. Gần đây, cô đang phải đối mặt với hàng tá khó khăn để ngủ được ban đêm, có lẽ vì ban ngày cô đã ngủ nhiều rồi. Hay là ban ngày cô ngủ nhiều vì ban đêm cô không ngủ được? Cô vướng vào một vòng luẩn quẩn, một vòng lặp phản hồi dương, một chuyến xe điên cuồng mà cô không biết làm sao để bước xuống. Có lẽ nếu cô chiến thắng cơn buồn ngủ trong ngày, cô sẽ ngủ được suốt đêm và bỏ được thói quen hiện tại. Nhưng hàng ngày, cứ xế chiều cô lại thấy kiệt quệ đến mức ngã lăn ra ghế sofa. Và mọi lúc khác trong ngày đều mời gọi cô vào giấc ngủ. Cô nhớ đến ngày trước cô đã đối mặt với nghịch cảnh tương tự hồi những đứa con cô chừng hai tuổi. Không được ngủ trưa khiến chúng cáu gắt, đêm về không nghe lời cô. Còn nếu được ngủ trưa, dù đã quá giờ đi ngủ cả vài tiếng đồng hồ, chúng vẫn tỉnh như sáo. Cô không nhớ ra mình đã giải quyết thế nào.
Với đống thuốc tôi đang uống, hẳn bạn nghĩ ít nhất cũng có tác dụng phụ nào đó gây buồn ngủ. À khoan, tôi được kê một liều thuốc ngủ.
Cô bước ra khỏi giường và đi xuống cầu thang. Mặc dù khá tự tin rằng thuốc của cô ở trong chiếc giỏ màu xanh, cô vẫn dốc hết các vật dụng có trong đó ra. Ví tiền, BlackBerry, điện thoại di động, chìa khóa. Cô mở ví. Thẻ tín dụng, thẻ ngân hàng, bằng lái, thẻ Harvard, thẻ bảo hiểm y tế và hai mươi đô la gồm cả nắm những tờ tiền được thối.
Cô bới trong chiếc tô hình nấm trắng chỗ họ hay để thư từ. Hóa đơn tiền điện, gas, điện thoại, giấy tờ thế chấp, một vài thứ từ Harvard, biên lai.
Cô mở và lấy hết mọi thứ trong ngăn kéo bàn và tủ hồ sơ trong phòng làm việc. Cô lôi hết tạp chí và các quyển catalog trong sọt ở phòng khách ra. Cô đọc một vài trang trong Tạp chí The Week và một trang được gấp góc đánh dấu trong quyển catalog J.Jill đăng một mẫu áo len dễ thương. Cô thích mẫu áo này nhưng là màu xanh bạc hà.
Cô kéo ngăn tủ đựng các thứ linh tinh ra. Pin, tuốc-nơ-vít, băng keo Scotch, băng keo dán điện, hồ dán, chìa khóa, một vài chiếc sạc, diêm, và nhiều thứ khác. Ngăn tủ này có lẽ nhiều năm rồi không được sắp xếp. Cô lôi hẳn ngăn tủ ra khỏi đường rãnh và đổ hết thảy mọi thứ ra bàn bếp.
“Ali, em đang làm gì vậy?” – John hỏi.
Cô giật mình, quay sang nhìn mái đầu rối bời và cặp mắt ngái ngủ của anh.
“Em đang kiếm...”
Cô nhìn xuống đống đồ đạc rải ra trên bàn trước mặt cô. Pin, bộ dụng cụ may, hồ dán, thước dây, vài chiếc sạc, một chiếc tuốc-nơ-vít.
“Em đang kiếm một thứ.”
“Ali, mới ba giờ hơn thôi. Em đang làm ồn đấy. Em có thể để sáng mai mới tìm không?”
Giọng nói anh tỏ ra không mấy kiên nhẫn. Anh không thích đang ngủ mà bị phá rối.
“Được.”
Cô nằm xuống giường và cố nhớ lại xem mình đang tìm gì. Trời vẫn tối, vẫn còn giữa đêm. Cô biết cô lẽ ra phải đang ngủ rồi. John đã ngủ lại và anh còn ngáy. Anh là người dễ ngủ. Trước đây cô cũng từng dễ ngủ. Nhưng giờ cô không thể ngủ được. Gần đây phải khó khăn lắm cô mới ngủ được ban đêm, có lẽ vì ban ngày cô đã ngủ nhiều rồi. Hay là ban ngày cô ngủ nhiều vì ban đêm cô không ngủ được? Cô vướng vào một vòng luẩn quẩn, một vòng lặp phản hồi dương, một chuyến xe điên cuồng mà cô không biết làm sao bước xuống được.
À khoan, tôi có một cách để ngủ. Tôi có một toa thuốc của bác sĩ Moyer. Tôi để ở đâu nhỉ?
Cô lại rời khỏi giường và đi xuống cầu thang.
HÔM NAY KHÔNG CÓ CUỘC HỌP hay hội nghị chuyên đề nào. Không một cuốn sách, tạp chí hay thư từ gì ở văn phòng làm cô có hứng thú. Dan chưa có gì sẵn sàng đưa cho cô đọc. Hộp thư của cô cũng không có gì mới. Thư điện tử gửi hàng ngày của Lydia phải đến chiều mới tới. Cô nhìn dòng chuyển động ngoài cửa sổ của mình. Xe cộ lướt qua những đường cong trên đường Memorial Drive, những người chạy bộ chạy dọc theo đôi bờ uốn lượn của dòng sông. Những ngọn thông chọc vào không khí mùa thu.
Cô lôi hết tất cả các tập tài liệu đánh dấu Tài liệu tái bản của Howland trong kệ tài liệu của cô. Cô đã ghi tên mình trên hàng trăm tài liệu được phát hành. Cô nắm giữ trong tay mình cả đống bài nghiên cứu, bài bình luận, phê bình và sự nghiệp vừa bị cắt ngang đáng giá bằng những suy nghĩ và ý kiến của mình. Thật nặng nề. Suy nghĩ và ý kiến của cô như bị đè nén. Ít ra, chúng cũng từng là gánh nặng của cô. Cô nhớ công việc nghiên cứu của cô, nhớ lúc cô nghĩ về nó, nói về nó, nhớ những ý tưởng của riêng cô, kiến thức của chính cô, một món nghệ thuật tao nhã trong ngành khoa học của cô.
Cô đặt chồng tài liệu xuống và chọn lấy cuốn sách Từ Phân tử đến Tư duy trên kệ. Cuốn sách cũng rất nặng. Đây là thành quả soạn thảo mà cô tự hào nhất, ngôn từ và suy nghĩ của cô hòa quyện với John, họ cùng tạo nên một thứ độc nhất trong vũ trụ để truyền đạt và ảnh hưởng đến ngôn từ và suy nghĩ của bao người khác. Cô đã cho rằng họ sẽ viết một cuốn nữa một ngày nào đó. Cô lật nhanh qua cuốn sách, nhưng không bị nó hấp dẫn. Cô không cảm thấy muốn đọc sách lúc này.
Cô xem đồng hồ. Cô và John đã định chạy bộ vào cuối ngày nhưng đã trễ mấy giờ đồng hồ rồi. Cô quyết định chạy về.
Nhà của họ cách văn phòng chỉ hơn một cây số rưỡi nên cô chạy về nhanh chóng và dễ dàng. Tiếp đến là gì? Cô bước vào bếp, pha một ít trà. Cô mở vòi, đổ đầy nước vào ấm, đặt lên lò và điều chỉnh nhiệt độ ở mức cao. Cô đi lấy một túi trà. Cô tìm khắp bàn bếp nhưng không thấy chiếc hộp thiếc vẫn hay đựng trà. Cô mở tủ đựng cốc café. Nhưng khi cô nhìn chằm chằm vào lại thấy ba hàng đĩa. Cô đẩy cánh cửa tủ về phía bên phải, tưởng rằng sẽ thấy những hàng ly thủy tinh, nhưng trong đó lại là những chiếc tô, chén và cốc.
Cô lấy những chiếc chén và cốc ra khỏi tủ, xếp chúng ra bàn bếp. Sau đó, cô lấy hết đĩa ra và đặt chúng cạnh chén và cốc. Cô mở ngăn tủ tiếp theo. Trong đó mọi thứ cũng không đúng thứ tự. Bàn bếp ngay lập tức đầy ắp đĩa, chén, cốc, ly uống nước trái cây, ly uống nước, ly uống rượu, chậu, chảo, hộp nhựa, miếng lót tay, khăn lau đĩa và các dụng cụ bằng bạc. Toàn bộ nhà bếp đều bị xáo trộn. Giờ thì vị trí cũ của tất cả những thứ này ở đâu? Ấm pha trà rít lên làm cô không thể nghĩ ra. Cô vặn núm lò xuống nút tắt.
Cô nghe tiếng cửa trước mở. Ôi, tốt rồi, John về nhà sớm.
“John, sao anh lại làm vậy với nhà bếp?” – Cô nói vọng ra.
“Alice, cô đang làm gì thế?” – Giọng người phụ nữ làm cô giật mình.
“Ồ, Lauren, cô làm tôi giật mình.”
Người phụ nữ ấy là hàng xóm đối diện nhà cô. Lauren không nói gì.
“Tôi xin lỗi, cô có muốn ngồi không? Tôi đang định pha trà.”
“Alice, đây không phải nhà bếp của cô.”
Sao cơ? Cô nhìn quanh căn phòng – mặt bàn bếp đá hoa cương đen, tủ gỗ bu-lô, sàn ốp gạch trắng, cửa sổ ngay chỗ bồn rửa, máy rửa bát đĩa bên cạnh bồn, và lò đôi. Khoan đã, cô không có lò đôi, phải vậy không? Và rồi, đến giờ cô mới chú ý đến chiếc tủ lạnh. Bằng chứng cho nhầm lẫn của cô đây. Chùm ảnh cắt dán đính bằng nam châm lên cửa tủ lạnh gồm ảnh Lauren, ảnh chồng của Lauren, ảnh con mèo của Lauren và những đứa bé mà Alice không nhận ra.
“Ôi, Lauren, xem tôi làm gì nhà bếp của cô. Tôi sẽ giúp cô xếp lại.”
“Không sao đâu Alice. Cô ổn chứ?”
“Không, không ổn lắm.”
Cô đã muốn chạy về, vào nhà bếp của cô ngay lập tức. Liệu họ có thể quên chuyện vừa xảy ra không? Liệu cô có thật sự phải nói chuyện về căn bệnh Alzheimer của cô? Cô ghét phải nói ra căn bệnh của mình.
Alice cố đoán ra cảm xúc trên gương mặt Lauren. Cô ấy trông bối rối và sợ hãi. Gương mặt ấy đang suy nghĩ, chắc Alice hóa điên rồi. Alice nhắm mắt lại và hít thật sâu.
“Tôi mắc bệnh Alzheimer.”
Cô mở mắt ra. Ánh mắt của Lauren không khác đi.
GIỜ ĐÂY, MỖI LẦN CÔ VÀO NHÀ BẾP, cô đều kiểm tra tủ lạnh, chỉ để bảo đảm. Không có ảnh của Lauren. Cô đang ở đúng nhà. Trong trường hợp cô vẫn chưa hết nghi ngờ, John đã viết sẵn một tờ ghi chú với nét chữ to đen đậm, đính bằng nam châm lên cửa tủ lạnh.
ALICE,
ĐỪNG CHẠY BỘ MỘT MÌNH.
SỐ CỦA ANH: 617-555-1122
ANNA: 617-555-1123
TOM: 617-555-1124
John bắt cô phải hứa không ra ngoài chạy bộ mà không có anh. Cô đã đặt tay lên ngực và hứa cô sẽ không làm vậy. Nhưng dĩ nhiên có thể cô vẫn sẽ quên.
Dù sao mắt cá chân của cô có lẽ phải nghỉ ngơi. Tuần trước, cô bị trật chân lúc bước khỏi vỉa hè. Cảm nhận về không gian của cô có phần mờ nhạt đi. Các vật thể đôi khi hiện ra gần hơn, có khi xa hơn, mà nhìn chung là chúng dời đi chỗ khác. Cô đã đi khám mắt. Mắt cô vẫn tốt như đôi mắt một người mới hai mươi tuổi vậy. Vấn đề không nằm ở giác mạc, thủy tinh thể hay võng mạc của cô. Theo John, sự cố nằm đâu đó ở trong quá trình xử lý thông tin hình ảnh, đâu đó trong thùy chẩm. Rõ ràng, cô có đôi mắt như sinh viên đại học và thùy chẩm của một bà lão tám mươi.
Không được chạy bộ mà không có John. Cô có thể sẽ lạc hoặc bị thương. Nhưng gần đây cô cũng không được chạy bộ với John luôn. Anh phải đi xa nhiều, và khi anh không xa, anh cũng rời khỏi nhà từ sớm để đến Harvard rồi lại đi làm về muộn. Đến khi anh về nhà thì anh cũng thấm mệt. Cô ghét phải phụ thuộc vào anh để chạy bộ, đặc biệt là khi anh chẳng phải phụ thuộc vào ai.
Cô nhấc máy và quay số ghi trên tủ lạnh.
“Alô?”
“Hôm nay chúng ta có chạy bộ không?” – Cô hỏi anh.
“Anh không biết nữa, chắc có, anh đang họp. Anh sẽ gọi cho em sau” – John trả lời cô.
“Em thật sự phải ra ngoài chạy bộ.”
“Anh sẽ gọi lại cho em.”
“Khi nào?”
“Khi nào anh có thể.”
“Được thôi.”
Cô gác máy, nhìn ra cửa sổ và nhìn xuống đôi giày chạy bộ mang dưới chân. Cô tuột giày ra rồi ném vào tường.
Cô mệt mỏi vì phải hiểu cho anh. Anh cần làm việc. Nhưng tại sao anh không hiểu là cô cần chạy bộ? Nếu có thứ gì đó chỉ đơn giản như thể dục thường xuyên thật sự giúp cô chống chọi với sự tiến triển của căn bệnh, vậy cô nên chạy thường xuyên hết mức có thể. Mỗi khi anh nói với cô “Hôm nay không được”, cô lại mất đi nhiều sợi thần kinh mà lẽ ra cô sẽ giữ được. Cái chết lẽ ra đâu đến với cô nhanh như vậy. John đang dần đưa cô đến chỗ chết.
Cô nhấc điện thoại lên lần nữa.
“Sao vậy em?” – John hỏi cô, anh nói thầm tỏ ra khó chịu.
“Em muốn anh hứa chạy với em hôm nay.”
“Tôi xin phép một phút” – anh quay sang nói với một ai đó khác. – “Xin em, Alice, để anh gọi cho em sau buổi họp này.”
“Hôm nay em cần phải chạy bộ.”
“Anh không biết khi nào anh mới hết việc ngày hôm nay.”
“Vậy thì?”
“Đây là lý do anh nghĩ chúng ta nên mua cho em một máy chạy bộ.”
“Ôi, chết tiệt.” – Cô bực bội gác máy.
Cô cho rằng như vậy là không được lắng nghe. Cơn giận của cô bùng lên sau đó. Liệu đây là triệu chứng căn bệnh của cô hay là một phản ứng bình thường, cô cũng không biết nữa. Cô cần anh. Có lẽ cô không nên quá cứng đầu. Có lẽ chính cô cũng đang tự giết mình.
Cô luôn có thể đi đến đâu đó mà không cần anh. Dĩ nhiên, phải là nơi nào đó “an toàn”. Cô có thể đi bộ đến văn phòng. Nhưng cô không muốn đến văn phòng. Cô cảm thấy buồn chán, lạc lõng và xa lạ ở văn phòng của mình. Ở đó, cô cảm thấy mình ngớ ngẩn. Cô không còn thuộc về nơi đó nữa. Trong ánh hào quang lộng lẫy của Harvard đâu còn chỗ cho một giáo sư Tâm lý học nhận thức mang trong mình tình trạng nhận thức tàn tạ đến vậy.
Cô ngồi xuống ghế bành trong phòng khách và cố nghĩ ra việc gì đó để làm. Cô chả nghĩ ra được việc gì có ý nghĩa. Cô cố tưởng tượng đến ngày mai, tuần sau rồi mùa đông sắp tới. Không gì có ý nghĩa cả. Cô cảm thấy buồn chán, lạc lõng và xa lạ trên chính chiếc ghế bành ở phòng khách nhà mình. Mặt trời buổi xế chiều tỏa những tia sáng kỳ lạ, những cái bóng như trong phim của Tim Burton đổ xuống sàn nhà và lên trên tường những hình thù khúc khuỷu. Cô nhìn những cái bóng mờ dần đi rồi căn phòng tối sầm xuống. Cô nhắm mắt lại, cảm thấy buồn ngủ.
ALICE TRẦN TRUỒNG ĐỨNG TRONG PHÒNG NGỦ của hai vợ chồng, trên người cô chỉ có đôi tất cao đến mắt cá và vòng tay an toàn. Cô vật vã gào thét trong chiếc áo đang quấn lấy đầu cô. Như một vũ điệu của Martha Graham, cuộc chiến chống lại chiếc áo đang bó vào đầu cô trông như những động tác mãnh liệt diễn tả sự đau đớn. Cô trút một tiếng gào dài.
“Chuyện gì vậy?” – John chạy vào hỏi cô.
Cô nhìn anh bằng một con mắt hoảng loạn qua cái lỗ tròn trên chiếc áo đang bị xoắn lại.
“Em không biết làm sao! Em không biết phải mặc cái áo ngực thể thao khốn kiếp này vào thế nào nữa. Em không nhớ cách mặc áo ngực, John! Em không mặc áo ngực được.”
Anh lại gần và xem chiếc áo trên đầu cô.
“Đây không phải áo ngực, Ali, đây là quần lót.”
Cô phá lên cười.
“Không vui đâu em.” – John nói. Cô cười lớn hơn nữa.
“Thôi đi em, không vui đâu. Nghe này, nếu em muốn chạy bộ, em phải nhanh lên, mặc quần áo vào. Anh không có nhiều thời gian.”
Anh rời khỏi phòng, anh không chịu được khi nhìn cô trần truồng, trùm quần lót lên đầu mà cười điên dại.
ALICE BIẾT CÔ GÁI ĐANG NGỒI ĐỐI DIỆN CÔ là con gái cô, nhưng cô cảm thấy một sự mơ hồ khó chịu về điều cô đang biết. Cô biết rằng cô có một người con gái tên Lydia, nhưng khi cô nhìn cô gái ngồi đối diện, cô nhận thức rằng Lydia giống một kiến thức học thuật hơn là một hiểu biết thực tế mà cô đồng ý, hay thông tin mà cô nhận được và chấp nhận là đúng.
Cô nhìn Tom và Anna, họ cũng ngồi vào bàn, cô có thể tự động liên kết họ với những hồi ức của cô về con trai và con gái lớn của cô. Cô có thể tưởng tượng ra lúc Anna mặc váy cưới, lúc mặc áo tốt nghiệp trường luật, trường cao đẳng và trường trung học, rồi bộ đồ ngủ Bạch Tuyết mà Anna ngày nào cũng nhất quyết đòi mặc hồi ba tuổi. Cô có thể nhớ Tom mặc áo tốt nghiệp và đội nón, cô nhớ một tai nạn lúc trượt tuyết khiến anh bị gãy chân phải đeo nẹp, rồi lúc anh mặc đồng phục Little League và nhớ về lúc anh còn là đứa bé nằm trong vòng tay cô.
Trong đầu cô cũng nhìn ra những ký ức về Lydia, nhưng một cách nào đó cô gái ngồi đối diện cô không gắn với ký ức của cô về con gái út của cô. Cô cảm thấy bứt rứt và đau đớn nhận ra rằng cô đang trầm trọng hơn, quá khứ của cô đã tách khỏi hiện tại của cô rồi. Và thật kỳ lạ rằng cô không thấy khó khăn chút nào để nhận ra người đàn ông ngồi cạnh Anna là Charlie, chồng của Anna. Anh mới bước vào cuộc đời họ vài năm trước. Cô hình dung ra căn bệnh Alzheimer của cô như một con quỷ trong đầu cô, liên tục cắn xé trên một con đường hủy diệt không theo quy luật nào, xé nát sợi dây liên kết giữa “Lydia bây giờ” và “Lydia ngày xưa”, nhưng vẫn bỏ mặc những liên kết về “Charlie” bình yên vô sự.
Nhà hàng đông đúc và ồn ào. Giọng nói từ các bàn khác giành lấy sự tập trung của Alice, tiếng nhạc như dội vào đầu cô rồi lại dịu xuống. Cô không phân biệt được giọng nói của Anna và Lydia. Mọi người dùng đại từ nhiều quá. Cô phải gắng sức xác định ai đang nói trong bàn của cô và cố theo dõi những gì mọi người đang nói.
“Cưng à, em ổn chứ?” – Charlie hỏi vợ mình.
“Mùi khó chịu quá” – Anna nói.
“Em muốn ra ngoài một lát không?” – Charlie hỏi.
“Để mẹ đi với con bé” – Alice nói.
Alice co người lại ngay khi họ ra khỏi không khí ấm áp của nhà hàng. Cả hai đều quên mang áo khoác. Anna nắm lấy tay Alice và dẫn cô ra khỏi đám thanh niên đang quây lại hút thuốc gần cửa ra.
“A... Không khí trong lành” – Anna nhẹ nhõm, hít một hơi thật xa xỉ và thở ra bằng mũi.
“Và yên tĩnh nữa” – Alice nói.
“Mẹ thấy thế nào rồi?”
“Mẹ ổn con à” – Alice trả lời.
Anna vuốt ve bàn tay mẹ cô, bàn tay mà trước đây cô luôn nắm lấy.
“Mẹ đã thấy đỡ hơn rồi” – Alice nói.
“Con cũng vậy” – Anna nói. – “Mẹ có bị giống như vậy khi mẹ mang thai con không?”
“Có.”
“Làm sao mẹ vượt qua được?”
“Con cứ cố gắng, sẽ qua nhanh thôi.”
“Và trước khi mẹ kịp biết, những đứa bé đã ra đời rồi.”
“Mẹ mong quá.”
“Con cũng vậy” – Anna nói. Nhưng giọng cô không hồ hởi như Alice. Dòng nước mắt đột nhiên tuôn ra khỏi mắt cô.
“Mẹ ơi, lúc nào con cũng cảm thấy phát bệnh, con kiệt sức, mỗi lần con quên một thứ gì đó, con lại nghĩ con bắt đầu có triệu chứng.”
“Ôi, con yêu, không phải đâu, con chỉ mệt thôi.”
“Con biết, con biết. Chỉ vì khi con nghĩ đến mẹ không đi dạy nữa, và mẹ đang mất hết mọi thứ...”
“Đừng con. Đây là lúc con phải thật phấn khởi. Con hãy nghĩ đến những gì chúng ta đang có này.”
Alice siết chặt bàn tay cô đang nắm lấy và đặt tay kia lên bụng Anna. Anna mỉm cười, nhưng dòng nước mắt vẫn chảy ra từ đôi mắt ướt đẫm của cô.
“Con không biết con phải làm sao để vượt qua hết những gì đang diễn ra. Công việc của con và hai đứa bé và...”
“Và Charlie. Đừng quên những gì giữa con và Charlie. Hãy giữ lấy những gì con có với cậu ấy. Hãy giữ mọi thứ cân bằng, giữa con và Charlie, sự nghiệp của con, con của con, và mọi thứ con yêu. Đừng đánh giá thấp những thứ con yêu quý trong cuộc sống và con sẽ vượt qua hết. Charlie sẽ giúp con.”
“Anh ấy nên như vậy” – Anna trầm giọng.
Alice cười. Anna lấy cổ tay lau nước mắt vài lần, cô thở mạnh ra theo kỹ thuật thở thư giãn Lamaze.
“Cám ơn mẹ. Con cảm thấy đỡ hơn rồi.”
“Tốt rồi.”
Họ trở lại nhà hàng, yên vị trong ghế ngồi và dùng bữa tối. Cô gái ngồi đối diện Alice, đứa con út tên Lydia của cô gõ vào ly rượu đã uống cạn bằng dao ăn.
“Mẹ, tụi con có một món quà lớn cho mẹ.”
Lydia tặng cô một gói quà hình khối chữ nhật gói bằng giấy màu nhũ vàng. Ắt hẳn trong đó phải có gì rất quan trọng. Alice lột lớp giấy gói. Trong đó là ba đĩa DVD ghi tên Những Đứa Trẻ nhà Howland, Alice và John, và Alice Howland.
“Đây là một đoạn phim hồi ký cho mẹ. Những Đứa Trẻ nhà Howland là một tuyển tập các đoạn phỏng vấn Anna, Tom và con. Con quay hồi hè này. Đây là ký ức của tụi con về mẹ, tuổi thơ của tụi con và thời gian tụi con lớn lên. Đĩa thứ hai là phim quay bố, về những ký ức của bố từ lúc gặp mẹ, hẹn hò, đám cưới, những kỳ nghỉ và rất nhiều thứ khác. Trong đó có một vài câu chuyện rất hay mà tụi con chưa bao giờ biết. Còn đĩa thứ ba, con chưa làm. Con sẽ phỏng vấn mẹ, những câu chuyện của mẹ, nếu mẹ muốn làm.
“Dĩ nhiên mẹ muốn làm rồi. Mẹ thích lắm. Cám ơn các con, mẹ muốn xem quá.”
Người bồi bàn mang cho họ café, trà và bánh chocolate đã cắm sẵn nến. Họ cùng hát “Chúc mừng sinh nhật.” Alice thổi nến và ước.