← Quay lại trang sách

- 16 - THÁNG MƯỜI MỘT, NĂM 2004

Những đĩa phim mà John mua về hồi hè cũng chung số phận với mấy cuốn sách mà trước đó Alice đã dành khá nhiều thời gian cho chúng. Cô không thể nào dõi theo cốt truyện hay nhớ vai trò của các nhân vật nếu như họ không xuất hiện liên tục. Cô có thể nhận ra những tình tiết nhỏ nhưng khi đến hồi kết, trong đầu cô chỉ đọng lại cảm nhận chung chung về bộ phim mà thôi. Bộ phim ấy thật vui nhộn. Khi John và Anna xem cùng cô, họ thường cười phá lên, giật mình vì sợ hãi, hay nhăn nhó vì thấy ghê tởm, họ phản ứng lại những gì diễn ra rất rõ ràng, mãnh liệt nhưng cô chẳng thể hiểu được. Cô cũng thường tham gia với họ, giả vờ hiểu và cố giấu họ sự thật là cô mơ hồ đến dường nào. Xem phim khiến cô nhận ra trí nhớ của mình đã giảm sút nhiều đến mức nào.

Lydia làm những đĩa DVD thật đúng lúc. Mỗi câu chuyện John và những đứa con của cô kể chỉ kéo dài vài phút nên cô có thể ghi nhớ từng chuyện, và cô không phải cố gắng giữ lấy thông tin của một câu chuyện nào nên cô có thể hiểu và tận hưởng những câu chuyện khác. Cô xem đi xem lại từng đoạn phim. Cô không nhớ được hết những điều mà mọi người nói, nhưng việc này vẫn hoàn toàn bình thường, bởi các con cô và John cũng không nhớ được hết các chi tiết. Và khi Lydia bảo họ nhắc lại cùng một câu chuyện, mỗi người lại nhớ theo một cách khác nhau, cắt bớt vài phần, phóng đại vài phần, và nhấn mạnh câu chuyện theo cách nhìn của họ. Ngay cả những tình tiết tưởng rằng không thể khác đi được cũng dễ dàng chịu những lỗ hổng và nhiễu loạn.

Cô chỉ có thể xem được đoạn phim Alice Howland đúng một lần. Trước đây, cô quá minh mẫn, thoải mái nói trước bất cứ người nào. Giờ đây, cô phải lạm dụng từ “gì đó” và lặp đi lặp lại vô số lần đến ngớ ngẩn. Nhưng cô cảm thấy biết ơn đoạn phim đó, nó có kí ức của cô, suy nghĩ của cô và những lời khuyên được ghi lại, giữ lại các phân tử tàn tật mà bệnh Alzheimer muốn cuốn đi. Những đứa cháu của cô sẽ xem đoạn phim một ngày nào đó và nói: “Đó là bà hồi lúc bà còn có thể nói chuyện và nhớ được.”

Cô vừa xem xong đoạn phim Alice và John. Cô vẫn ngồi lại trên ghế sofa, đắp chăn ngang người tới khi màn hình tivi tắt đi rồi cô bắt đầu cảm nhận. Sự yên tĩnh làm cô thấy thoải mái. Cô hít thở và chẳng nghĩ về thứ gì khác ngoài tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ trên lò sưởi. Rồi, bất giác, tiếng tích tắc ấy gợi cho cô nhớ một chuyện, mắt cô mở to.

Cô nhìn xuống cổ tay mình. Mười giờ kém mười. Ôi trời ơi, mình còn làm gì ở đây? Cô ném chiếc chăn thẳng xuống sàn nhà, xỏ vội chân vào giày, chạy xuống phòng làm việc và kéo khóa túi đựng máy tính xách tay lại. Cái túi màu xanh của mình ở đâu? Không có trên ghế, không phải trên bàn, không có trong ngăn kéo, cũng không phải ở trong túi máy tính xách tay. Cô chạy lên phòng ngủ. Không có trên giường, không nằm trên bàn đầu giường, không có trên tủ đựng chén bát, không có trong tủ quần áo, cũng không ở trên bàn. Cô đứng giữa hành lang, cố gắng dò lại những nơi có thể biết trong bộ não ì ạch của mình, cho đến khi cô thấy chiếc túi xách thì nó đang được treo trên tay nắm cửa phòng tắm.

Cô kéo khóa ra. Trong đó là chiếc BlackBerry, nhưng không thấy chùm chìa khóa. Cô luôn để trong này. Chà, cũng không phải hoàn toàn là vậy. Cô luôn muốn để chìa khóa trong này. Đôi khi, cô để trong ngăn kéo bàn làm việc, ngăn kéo đựng dao nĩa, ngăn kéo đồ lót, hộp trang sức, hộp thư và các túi áo, túi quần. Đôi khi cô cắm luôn ở ổ khóa. Cô ghét phải nghĩ về việc bỏ ra bao nhiêu phút để tìm kiếm các thứ bị lạc mỗi ngày.

Cô chạy nhanh xuống phòng khách. Không có chìa khóa, nhưng cô tìm thấy áo khoác của cô trên ghế dựa. Cô khoác áo lên và thò thay vào túi áo. Là chùm chìa khóa!

Cô lao nhanh ra hành lang trước, nhưng dừng lại trước khi ra đến cửa. Thật kì lạ. Có một cái hố trên sàn ngay trước cửa. Bề rộng nó ngang bằng bề rộng của hành lang, còn chiều dài khoảng hai mét rưỡi đến ba mét, mà chẳng có gì trong đó ngoài bóng tối. Cô không thể nào vượt qua được. Ván ốp hành lang trước đã cong vênh và kêu cọt kẹt, cô và John đã từng bàn về chuyện thay mới. John đã gọi thợ nào chưa? Có ai đến đây hôm nay không? Cô không nhớ ra. Cho dù lý do là gì, cũng không thể ra cửa trước cho tới khi cái hố được bít lại.

Trong lúc cô đi ra cửa sau, chuông điện thoại reo lên.

“Chào mẹ, khoảng bảy giờ con ghé qua, con sẽ mang đồ ăn tối.”

“Được rồi.” – Alice trả lời, trong giọng nói của cô vui một chút.

“Con là Anna nè.”

“Mẹ biết mà.”

“Bố ở New York tới mai, mẹ nhớ không? Con sẽ ngủ lại, mà tới sáu giờ rưỡi con mới tan ca, cho nên mẹ đợi con qua ăn nhé. Có lẽ mẹ nên ghi chú vào bảng trắng treo trên tủ lạnh.”

Cô nhìn qua chiếc bảng.

KHÔNG ĐƯỢC CHẠY BỘ MỘT MÌNH.

Bất thần, cô muốn hét vào điện thoại là cô không cần bảo mẫu, và cô có thể tự xoay sở một mình trong nhà của mình. Nhưng rồi cô hít thở.

“Được rồi, hẹn gặp lại con.”

Cô gác máy rồi tự tán thưởng bản thân vì vẫn còn khả năng làm chủ được cảm xúc tự nhiên của mình. Một ngày nào đó, sớm thôi, cô sẽ không còn kiểm soát được nữa. Cô muốn tận hưởng những giờ phút được gặp Anna, vả lại ở một mình lúc này không hay chút nào.

Cô khoác áo, quàng giỏ xách và túi đựng máy tính xách tay lên vai. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ nhà bếp. Trời gió, ẩm ướt và xám xịt. Đang là buổi sáng chăng? Cô không muốn ra ngoài, cũng chẳng muốn ngồi trong văn phòng. Cô cảm thấy chán nản, lạc lõng và xa lạ trong chính văn phòng của mình. Cô cảm thấy mình thật ngớ ngẩn. Cô đâu còn thuộc về nơi ấy.

Cô lại bỏ giỏ xách xuống, cởi áo khoác và đi vào phòng làm việc, nhưng đột nhiên một tiếng thịch, rồi tiếng leng keng lại kéo cô ra lại hành lang trước. Lá thư vừa lọt vào khe bỏ thư cửa trước, nó nằm ngay trên miệng hố, một cách nào đó, nó nằm lơ lửng ở trên miệng hố. Hẳn nó phải nằm thăng bằng trên một thanh dầm ẩn bên dưới hay một tấm ván mà cô không thấy được. Lá thư nổi. Não mình bị nhũn ra mất rồi! Cô lùi về phòng làm việc và cố quên đi cái hố không trọng lực ở cửa trước. Bất ngờ thay, thật khó mà quên được.

CÔ NGỒI TRONG PHÒNG LÀM VIỆC, tay ôm đầu gối, dán mắt ra ngoài cửa sổ nhìn màn đêm dần buông xuống, đợi Anna đến mang theo bữa tối, đợi John từ New York về để cô có thể ra ngoài chạy bộ. Cô ngồi và đợi. Tâm trạng của cô trở nên tệ hơn vì ngồi đợi. Cô phát bệnh vì phải ngồi và đợi chờ.

Ở Harvard, cô là người duy nhất biết mình mắc phải Alzheimer khởi phát sớm và cũng là người duy nhất mắc căn bệnh này. Nhưng ngoài kia, chắc chắn cô không phải người duy nhất. Cô phải tìm những người bạn mới cho mình. Cô phải thích nghi với thế giới mới này, thế giới dành cho cô, thế giới của những người mất trí.

Cô gõ vào Google cụm từ “bệnh Alzheimer khởi phát sớm”. Kết quả cho ra rất nhiều thông tin và dữ liệu thống kê.

Ước tính có đến năm trăm nghìn người ở Hoa Kỳ mắc phải Alzheimer khởi phát sớm.

Alzheimer khởi phát sớm được định nghĩa là mắc phải Alzheimer trước tuổi sáu mươi.

Triệu chứng có thể xuất hiện ở tuổi ba mươi hoặc bốn mươi.

Google cho cô những trang điện tử liệt kê ra các triệu chứng, những nhân tố, nguyên nhân nguy hiểm đến gien, và các phương pháp trị liệu. Có những bài viết về việc nghiên cứu và phát hiện ra thuốc. Trước đây cô đã xem qua hết rồi.

Cô thêm từ “hỗ trợ” vào từ khóa tìm kiếm rồi nhấn phím trở về.

Cô tìm thấy những diễn đàn, đường dẫn, nguồn dữ liệu, bảng tin nhắn và các phòng chat. Chúng dành cho những người chăm sóc bệnh nhân. Người chăm sóc phải lo những việc bao gồm thăm các cơ sở y tế, hỏi thăm về việc chữa trị, giải tỏa căng thẳng, đối phó với hoang tưởng, lang thang vào ban đêm, ứng phó với tâm lý cô lập và trầm cảm của bệnh nhân. Những người chăm sóc bệnh nhân sẽ đăng câu hỏi và câu trả lời, quan tâm đến các giải pháp giải quyết khó khăn về những người mẹ tám mươi mốt tuổi, những người chồng bảy mươi bốn tuổi và những người bà tám mươi lăm tuổi mắc bệnh Alzheimer.

Vậy đối với những người mắc Alzheimer thì sao?

Còn nơi của những người mất trí năm mươi mốt tuổi ở đâu? Nơi những người sự nghiệp còn dang dở rồi bị căn bệnh xé nát cuộc sống của họ từ bên trong ở đâu? Cô không phủ nhận rằng mắc Alzheimer ở tuổi nào cũng là một bi kịch cả. Cô không phủ nhận rằng những người chăm sóc người bệnh cũng cần hỗ trợ. Và cũng không phủ nhận rằng họ cũng phải chịu đựng. Cô biết John đang phải chịu đựng. Nhưng còn cô thì sao?

Cô nhớ đến tấm danh thiếp của một nhân viên xã hội ở Bệnh viện Đa khoa Massachusetts. Cô tìm thấy nó rồi quay số.

“Denise Daddario xin nghe.”

“Chào Denise, tôi là Alice Howland. Tôi là một bệnh nhân của bác sĩ Davis, và anh ấy đưa tôi danh thiếp của cô. Tôi năm mươi mốt tuổi và một năm trước, tôi được chẩn đoán mắc phải Alzheimer khởi phát sớm. Tôi muốn hỏi rằng Bệnh viện Đa khoa Massachusetts có nhóm hỗ trợ cho bệnh nhân Alzheimer không?”

“Không may là chúng tôi không có. Chúng tôi có một nhóm hỗ trợ, nhưng chỉ dành cho những người chăm sóc bệnh nhân. Hầu hết các bệnh nhân Alzheimer của chúng tôi đều không đủ khả năng tham gia vào diễn đàn như vậy.”

“Nhưng vài người sẽ đủ.”

“Phải, nhưng tôi e rằng chúng tôi không có đủ kinh phí đáp ứng được nguồn lực để mở ra và duy trì một nhóm như vậy.”

“Nguồn lực như thế nào?”

“À, đối với nhóm hỗ trợ người chăm sóc bệnh nhân của chúng tôi, khoảng mười hai đến mười lăm người gặp nhau hàng tuần trong vài giờ. Chúng tôi có một phòng được đặt trước, có café, bánh ngọt, một vài nhân viên hậu cần và một khách mời phát biểu hàng tháng.”

“Nếu như chỉ có một căn phòng trống để những người bị mất trí sớm gặp nhau và nói chuyện về những gì họ đang trải qua thì sao?”

Tôi có thể mang café và một ít bánh vòng nhân mứt, ơn trời.

“Chúng tôi cần một nhân viên nào đó giám sát và không may là hiện tại chúng tôi không còn ai có thể đảm nhận.”

Vậy còn một trong hai nhân viên hậu cần trong nhóm hỗ trợ những người chăm sóc bệnh nhân thì sao?

“Cô có thể cho tôi thông tin liên lạc của những bệnh nhân mất trí sớm để tôi có thể tự sắp xếp không?”

“Tôi e là tôi không thể cho thông tin như vậy. Cô có muốn hẹn gặp để nói chuyện với tôi không? Tôi rảnh vào mười giờ sáng thứ Sáu, ngày 17 tháng Mười Hai.”

“Không, cảm ơn.”

TIẾNG ỒN Ở CỬA TRƯỚC đánh thức cô khi đang ngủ trên ghế sofa. Căn nhà vừa lạnh, vừa tối. Cửa trước mở ra cọt kẹt.

“Con xin lỗi, con đến trễ.”

Alice đứng dậy và bước ra hành lang. Anna đứng ôm một túi giấy màu nâu to bằng một tay, tay kia nắm một chồng thư. Cô đang đứng trên hố!

“Mẹ ơi, đèn tắt hết cả. Mẹ đang ngủ hả? Mẹ không nên ngủ vào giờ này, mẹ thức trắng đêm mất.”

Alice bước lại gần Anna và cúi xuống. Cô đặt tay lên cái hố. Cô chỉ cảm thấy khoảng không. Cô rà ngón tay trên những mũi dệt của tấm thảm len đen. Hành lang của cô đã trải thảm đen nhiều năm rồi. Cô đập tay xuống thật mạnh đến mức tiếng động vang lên.

“Mẹ ơi, mẹ đang làm gì vậy?”

Tay cô nhức buốt, cô quá mệt mỏi để chịu được câu hỏi của Anna, và mùi đậu phộng quyến rũ từ chiếc túi làm cô thấy ghê tởm.

“Để mẹ yên!”

“Mẹ, ổn mà. Mẹ với con vào bếp ăn tối nào.” Anna đặt chồng thư xuống và với lấy tay mẹ cô, bàn tay đang đau nhức. Alice giật tay ra và gào lên.

“Để mặc mẹ! Đi khỏi nhà mẹ đi! Mẹ ghét con! Mẹ không muốn con đến đây!”

Lời của cô đập vào Anna còn đau hơn cô tát vào mặt con mình. Vượt qua dòng nước mắt đang chảy xuống, Anna kìm cảm xúc mình lại để giải quyết ôn hòa.

“Con mang theo bữa tối, con đang đói, con sẽ ở lại. Con sẽ vào nhà bếp để ăn tối và con sẽ đi ngủ.”

Alice đứng một mình trên hành lang, cơn phẫn nộ và mâu thuẫn sôi lên trong từng mạch máu cô. Cô mở cửa và bắt đầu kéo tấm thảm ra. Cô lôi nó bằng tất cả sức lực còn lại, cô vấp ngã. Cô lại đứng dậy, kéo, vặn và quăng tấm thảm tới khi nó nằm hoàn toàn bên ngoài. Sau đó, cô đá vào tấm thảm và gào lên điên cuồng cho tới khi nó văng xuống khỏi thềm nhà trước và nằm bất động trên vỉa hè.