← Quay lại trang sách

- 24 - MÙA HÈ NĂM 2005

Alice ngồi xuống chiếc ghế bành lớn màu trắng một cách thoải mái và cố lý giải chiếc đồng hồ trên tường. Đó là loại có kim chỉ giờ, khó đọc hơn với loại chỉ hiển thị số. Là năm giờ chăng?

“Mấy giờ rồi?” – Cô hỏi người đàn ông ngồi ở một chiếc ghế bành khác, cũng to và có màu trắng.

Anh nhìn vào cổ tay mình. “Khoảng ba giờ rưỡi.”

“Tôi nghĩ đã đến lúc mình phải về.”

“Em đang ở nhà mà. Đây là nhà em ở Cape.”

Cô nhìn quanh phòng – đồ nội thất màu trắng, những bức tranh về ngọn hải đăng và bờ biển trên tường, những cửa sổ khổng lồ, những cành nhỏ khẳng khiu bên ngoài khung cửa.

“Không, đây không phải nhà của tôi. Tôi không sống ở đây. Tôi muốn về nhà bây giờ.”

“Chúng ta sẽ trở lại Cambridge trong vài tuần nữa. Chúng ta đang đi nghỉ. Em thích ở đây mà.”

Người đàn ông ngồi trên ghế tiếp tục đọc sách và uống đồ uống của mình. Quyển sách dày và đồ uống có màu nâu vàng nhạt với những viên đá bên trong, giống như màu mắt của cô. Anh thưởng thức và tận hưởng cả quyển sách lẫn thức uống.

Đồ nội thất màu trắng, những bức tranh về ngọn hải đăng và bờ biển trên tường, những cửa sổ khổng lồ, những cành nhỏ khẳng khiu bên ngoài khung cửa không tạo cho cô cảm giác quen thuộc. Những âm thanh này không hề thân quen. Cô đã nghe tiếng chim, những loại sống ở đại dương, tiếng đá xoáy và tiếng ly chạm leng keng khi người đàn ông ngồi trên ghế uống ly nước, tiếng anh thở bằng mũi khi đọc sách, và tiếng tích tắc của đồng hồ.

“Tôi nghĩ tôi đã ở đây đủ lâu rồi. Tôi muốn về nhà bây giờ.”

“Em đang ở nhà. Đây là nhà em trong kỳ nghỉ. Đây là nơi ta đến để nghỉ ngơi và thư giãn.”

Nơi này không thấy hay nghe có vẻ giống nhà mình, và cô không hề thấy thư thái. Gã đàn ông đang đọc sách và uống trên chiếc ghế to màu trắng kia chắc hẳn không biết mình đã nói gì. Có lẽ anh ta quá chén.

Anh thở, đọc và uống, đồng hồ kêu tích tắc. Alice ngồi trên chiếc ghế to, màu trắng và nghe thời gian trôi qua, ao ước ai đó đưa mình về nhà.

CÔ NGỒI TRÊN MỘT TRONG NHỮNG chiếc ghế gỗ màu trắng, uống trà đá và lắng nghe tiếng ồm ộp chói tai của lũ ếch cùng tiếng côn trùng buổi hoàng hôn.

“Đây, Alice, anh đã tìm được chiếc vòng cổ bươm bướm của em” – người chủ ngôi nhà nói.

Anh đưa sợi dây chuyền bạc có treo lủng lẳng một con bướm trước mặt cô.

“Đấy không phải dây chuyền của tôi, mà là của mẹ tôi. Và nó rất đặc biệt, anh hãy trả lại nó, chúng ta không thể đùa với thứ này được.”

“Anh đã nói với mẹ em, và bà bảo rằng em có thể giữ nó. Bà đã tặng nó cho em.”

Cô quan sát đôi mắt, miệng và ngôn ngữ cơ thể của anh, tìm kiếm vài dấu hiệu giải thích cho hành động vừa rồi. Nhưng trước khi cô có thể nhận ra sự chân thành của anh, vẻ đẹp của con bướm xanh lấp lánh đã quyến rũ cô, khiến cô bỏ qua những quy tắc cẩn trọng của mình.

“Bà nói tôi có thể giữ nó ư?”

“Ừ, phải.”

Anh cúi xuống từ phía sau và đeo nó vào cổ cô. Cô lướt những ngón tay trên đôi cánh bằng đá quý màu xanh, cơ thể làm bằng bạc và hai sợi râu đính kim cương. Cô cảm thấy có một đốm lửa tự mãn nhen nhóm trong lòng. Anne hẳn sẽ rất ghen tỵ.

CÔ NGỒI TRÊN SÀN NHÀ, đối diện tấm gương dài trong phòng ngủ và nhận xét hình ảnh phản chiếu trong gương. Người phụ nữ trong gương có quầng thâm tối ở dưới hai mắt. Da cô ấy trông lỏng lẻo, nổi đốm ở mọi nơi và nhăn nheo ở góc mắt hay dọc theo trán. Hàng lông mày dày và rậm cần được tỉa tót lại. Mái tóc xoăn đa phần là màu đen, nhưng vẫn len lỏi màu xám. Cô gái trong tấm gương này thật già dặn và xấu xí.

Cô lướt những ngón tay lên hai má và trán, cảm nhận gương mặt cô qua những ngón tay và bàn tay. Đây không phải mình. Hẳn là có gì đó không đúng với khuôn mặt mình thì phải. Người phụ nữ ở trong gương làm cô phát bệnh.

Cô tìm thấy phòng tắm và bật đèn lên. Cô nhìn hình ảnh tương tự trong gương trên bồn rửa. Đó là đôi mắt nâu vàng, chiếc mũi cao, đôi môi hình trái tim của cô, nhưng sự hòa trộn giữa những bộ phận ấy thì sai lầm một cách kì quặc. Cô lướt những ngón tay trên mặt kính lạnh và trong suốt. Chắc có gì đó không đúng với những tấm gương này?

Phòng tắm nhà cô cũng không có mùi giống như thế này. Hai chiếc ghế thang màu trắng bóng, một cây cọ sơn, một chiếc thùng đặt trên mấy tờ báo dưới sàn nhà phía sau cô. Alice cúi xuống hít quanh chiếc thùng. Cô cạy nắp thùng, nhúng cây cọ vào và ngắm nhìn từng giọt sơn trắng nhỏ xuống.

Cô bắt đầu với những chiếc gương mà cô biết đã bị hỏng, một cái trong phòng tắm và một cái trong phòng ngủ. Cô tìm thấy thêm bốn chiếc gương nữa và sơn chúng thành màu trắng.

CÔ NGỒI TRÊN MỘT CHIẾC GHẾ BÀNH LỚN màu trắng và người đàn ông chủ ngôi nhà ngồi trên ghế khác. Anh đang đọc sách và dùng đồ uống. Quyển sách dày còn đồ uống có màu nâu vàng với đá bên trong.

Cô cầm một quyển sách trên bàn lên và lướt nhanh qua nó, trông nó còn dày hơn quyển sách anh đang đọc. Đôi mắt cô dừng lại trên phần sơ đồ gồm các chữ và ký tự liên kết với nhau bằng dấu mũi tên, dấu gạch ngang hay các hình minh họa nhỏ. Cô nghiên cứu từng từ một khi duyệt qua các trang – về sự giải ức chế, sự photphoryl hóa, gien, acetylcholine, sự bồi dưỡng, tính nhất thời, ma quỷ, hình vị, âm vị học.

“Tôi nghĩ mình đã đọc quyển sách này trước kia” – Alice nói.

Anh nhìn qua quyển sách cô đang cầm và sau đó nhìn vào cô.

“Em còn làm nhiều hơn thế. Em viết ra nó. Em và anh đã cùng nhau viết quyển sách đó.”

Ngập ngừng trước những lời của anh, cô đóng quyển sách và đọc chữ trên bìa màu xanh bóng loáng. “Từ Phân tử tới Tư duy” bởi Tiến sĩ John Howland và Tiến sĩ Alice Howland. Cô nhìn sang người đàn ông ngồi trên ghế. Anh ta là John. Cô lật sang những trang trước. “Mục lục. Tâm trạng và Cảm xúc, Động lực, Sự kích thích và Chú ý, Trí nhớ, Ngôn ngữ”. Ngôn ngữ.

Cô mở ở đâu đó gần cuối quyển sách. “Khả năng diễn tả không giới hạn, dễ dàng và tự nhiên, rất phổ biến. Khả năng này được nghiên cứu dựa theo bản năng, các ngữ nghĩa, cú pháp, ngữ pháp theo trường hợp, động từ bất quy tắc”. Những gì cô vừa đọc dường như đẩy cô từ đầm lầy cỏ dại và vũng bùn gây nghẹt thở trong tâm trí về một nơi còn hoang sơ và nguyên vẹn, để cô cố bấu víu vào.

“John” – cô nói.

“Phải.”

Anh đặt quyển sách xuống và ngồi thẳng lên ở mép ghế bành.

“Em viết quyển sách này cùng anh” – cô nói.

“Phải.”

“Em nhớ rồi. Em nhớ anh rồi. Em nhớ em đã từng rất thông minh.”

“Phải, em từng như thế, em là người thông minh nhất anh từng biết.”

Quyển sách dày với bìa màu xanh bóng loáng kia đã đại diện cho rất nhiều điều cô từng làm. Mình từng biết cách trí não xử lý ngôn ngữ và mình có thể truyền đạt những gì mình biết. Mình từng là một người biết rất nhiều. Đã không còn ai hỏi ý kiến hay xin lời khuyên của mình nữa. Mình nhớ điều đó. Mình từng ham học hỏi, độc lập và tự tin. Mình nhớ mình từng chắc chắn những điều này. Không hề thoải mái khi không chắc chắn về điều gì đó. Mình nhớ cách mọi thứ đều được thực hiện dễ dàng. Mình nhớ bản thân khi là một phần của những chuyện đã diễn ra. Mình nhớ cuộc sống và gia đình mình. Mình yêu cuộc sống và gia đình.

Cô muốn nói với anh những điều cô nhớ và nghĩ, nhưng cô không thể truyền tải mọi ký ức và suy nghĩ này, bao gồm rất nhiều từ, mệnh đề và câu, đã đẩy cô trở lại đầm lầy cỏ dại và vũng bùn gây nghẹt thở trong tâm trí. Cô chỉ tóm tắt và nỗ lực để nói những gì cần thiết nhất. Những điều còn lại sẽ lặng yên bấu víu ở một góc hoang sơ.

“Em nhớ chính bản thân mình.”

“Anh cũng nhớ em, Ali, rất nhiều.”

“Em không bao giờ định sẽ trở thành như vậy.”

“Anh biết.”