Đoạn mở đầu
Niên hiệu Xương Phù thứ năm (1381), đời Trần Phế Đế, một kỳ thi tiến sĩ đã được tổ chức ở Thăng Long kinh đô của nước Đại Việt.
Cùng với các sĩ tử ứng thi, Nguyễn Phi Khanh đến trường thi trong ánh sáng lờ mờ của những ngọn đuốc. Vì kỳ thi kéo dài nhiều tuần, chàng phải mang đầy đủ lều chõng trên vai và trước ngực đeo ống quyển đựng mực, giấy và các cây bút lông.
Đó là một thanh niên có tài năng đặc biệt. Chàng đã thi đậu cả hai kỳ thi hội và thi đình, được xướng danh thái học sinh trong tiếng trống, đứng hàng thứ hai trong tam khôi là Bảng Nhãn.
Như truyền thống đã quy định, chàng nhận được cân đai áo mão từ tay Đức Vua là đấng Thiên tử, được dùng bữa với các quan lớn trong Bộ lễ và được dạo chơi dưới những tàn cây treo đầy gấm vóc màu đỏ trong vườn Ngự Uyển và được rước qua các phố xá ở kinh đô.
Tuy triều đình thừa nhận sở học của chàng như thế nhưng lại không bổ dụng làm quan, lệnh trên đã gạt chàng qua mắt bên. Người ta đã đưa ra lý do:
"Chàng thanh niên ấy đã phạm thượng nghiêm trọng. Không nên thu dụng".
Nguyễn Phi Khanh phải lui về bản quán sau lũy tre xanh làng Nhị Khê, tỉnh Hà Tây, mở trường dạy học không hơn một ông tú bình thường. Dù sao, vị tôn sư Chu Văn An đã chẳng thích ẩn mình dạy học ở vùng thôn dã hơn bọn nịnh thần trong triều đình sao? Và chàng đã tìm được sự động viên và an ủi trong tình yêu của người vợ thuộc dòng dõi hoàng tộc, trong sự học tập và lòng khâm phục của các môn sinh và xóm làng.
Thật vậy, nếu việc thi cử là điều vinh dự cho kẻ sĩ thì danh tiếng của một ngôi làng có một vị khoa bảng như thế khỏi phải nói. Khắp nơi trong tỉnh, một số rất đông các sĩ tử tìm đến làng Nhị Khê học tập và ngôi trường của thầy Nguyễn Phi Khanh trở nên quá nhỏ. Không hiếm khi người ta thấy các học trò phải ngồi nghe thầy giảng bài trên những chiếc thuyền ở cái ao trước nhà.
Không thể để học trò học hành trong mưa nắng, gió bão, thầy Nguyễn Phi Khanh đã chỉ cho họ một góc vườn, truyền cho họ phải phát quang để ngày hôm sau dựng lên một phòng học mới. Đó là một nơi hoang dã chỉ có lau sậy mọc thành bụi rậm khô cằn.
Truyền bảo học trò xong, chàng trở vào nhà cùng vợ con và không nghĩ đến chuyện đó nữa.
Tối hôm ấy, một đêm trong trẻo giữa thu, đắp chăn nằm ngủ bên cạnh vợ, chàng thấy trong mơ:
... Dưới bầu trời vần vũ, sấm chớp vây quanh, thình lình chàng thấy một người đàn bà đang đau đớn quằn quại vì sắp sinh con, tiến lại gần chàng. Dù phải mang bào thai nặng nhọc, người đàn bà ấy dường như lướt đi nhẹ nhàng uyển chuyển giữa các bụi cỏ.
Cách chàng vài bước, nàng dừng lại và cúi đầu nói:
- Tiện nữ biết rằng tiên sinh không chỉ có sở học quảng bác mà còn là người đạo cao đức trọng, nên tiện nữ cầu xin tiên sinh vui lòng hoãn lại dự định của tiên sinh chỉ một ngày thôi để tiện nữ, là một kẻ đã bao phen chìm nổi lênh đênh, tìm được một nơi nương náu khác trước khi rời bỏ góc vườn kia.
Chàng vừa trịnh trọng cất lời hứa sẽ chấp nhận ước vọng của người đàn bà ấy thì nàng đã liền biến đi trong gió nhưng vẫn còn để lại cho chàng ấn tượng về cái nhìn cháy bỏng không chút dao động của nàng.
Sáng sớm, Nguyễn Phi Khanh thức dậy với cảm thức về một bổn phận phải hoàn thành. Chàng định thắp cái đèn nhựa thông nhưng mặt trời đã lên cao. Chàng nghe tiếng vợ chàng sau bức mành khe khẽ hát ru đứa con nhỏ nhất của họ và chàng nhớ lại giấc mộng đêm qua. Chàng vội vã bước xuống vườn và thấy các học trò của mình đã dậy rất sớm và đã phát quang góc vườn và chàng hối tiếc vì chúng đã vâng lời mình. Nhưng khi nghe bọn trẻ kể lại chuyện chúng đuổi đánh một con rắn đang mang trứng và con rắn này phải chạy trốn để lại một khúc đuôi dính máu, Nguyễn Phi Khanh cảm thấy một nỗi xao xuyến khôn tả làm lòng chàng quặn lại. Tuy đã dùng kiến thức của một nhà nho, phải vượt lên trên sự mê tín dân gian, không sợ bùa ngải và ma quỷ, tâm trạng bất an cứ kéo dài. Không muốn cho ai đoán biết tâm trạng đó, chàng gượng cười, rung chuông gọi đám học trò vào lớp học ban sáng.
Đêm hôm sau, chàng đang ngồi đọc sách trong tiếng võng đưa con kẽo kẹt, thình lình chàng như bị ai bắt buộc phải ngẩng đầu lên.
Lúc đó, chàng thấy một con rắn cụt đuôi đang quấn mình trên cây đòn dông. Con rắn đã thoát chết dù bị thương, Nguyễn Phi Khanh nghĩ như thế liền cảm thấy nhẹ nhõm, sự sống được bảo tồn.
Ngay lúc ấy một vật gì từ mái nhà rơi xuống trên quyển sách đang mở, tạo ra một âm thanh trầm đục. Cúi xuống, chàng thấy lấp lánh trên giấy một vệt đỏ thẫm. Là máu, máu từ thân con rắn.
Một giọt máu to rơi xuống vào một chữ nho có nghĩa là Đời (Thế) làm nhòe mặt chữ và thấm ướt ba trang giấy.
Rất nhiều năm về sau, khi sắp chết trong cảnh lưu đày ở Trung Hoa, bản thân bị giam giữ trong lúc đất nước bị lệ thuộc, Nguyễn Phi Khanh hẳn phải nghĩ đến con rắn, và với biết bao đau đớn, tin chắc rằng máu của nó vẫn còn tiếp tục nhỏ giọt.