Tập 1 Chương 1
Từ rằng: "Tâm phúc tương cờ,
Phải người trăng gió, vật vờ hay sao?"
NGUYỄN DU (TRUYỆN KIỀU]
Dạo đó, niên hiệu Xương Phù thứ ba (1379), Nguyễn Phi Khanh chưa làm mất lòng một ai. Chàng vừa thi đậu cử nhân và cuốn sách mà sau này con rắn sẽ làm vấy máu còn nằm trên kệ sách của một cửa hàng bán sách ở phố Hàng Gai hay Hàng Sứ, nếu không phải là chưa được in ra, hay còn là cây tre chưa được đốn về để làm ra giấy.
Một buổi sáng tháng hai, chàng ăn mặc chải chuốt với chiếc áo lương đẹp nhất trong hai chiếc áo chàng có, mang theo giấy thông hành và chậm rãi đi qua các phố xá của kinh đô để đến nơi mà chàng sẽ có một cuộc hội kiến quan trọng.
Hôm trước, một sứ giả của Hoàng thành, đem theo lính tráng có xăm trên trán dấu của Thiên tử, đến trong sân nhà họ Trương nơi Nguyễn Phi Khanh đang dạy học cho con cháu nhà ấy: Ngài Nhiếp chính Đại thần cho gọi chàng sáng ngày mai đến dinh của ngài ở nội thành. Lệnh truyền quá bất ngờ nên chàng không kịp báo cho các thầy dạy của mình để xin những lời khuyên bảo. Suốt năm canh, chàng không ngủ được, trằn trọc trên giường, tâm trạng rất lo âu. Kể từ ngày chàng rời quê hương làng Nhị Khê lên kinh đô Thăng Long trọ học, chàng chỉ có một tham vọng duy nhất là chuẩn bị dự các khóa thi ở cấp cao hơn, trái ngược hẳn với các sĩ tử khác thường hay la cà ở nơi ca lâu tửu điếm. Vậy thì ngài Nhiếp chính Đại thần kỳ vọng gì nơi con người kém cỏi, kiến thức ít ỏi của chàng? Làm thế nào ngài biết được chàng, vốn chỉ là một gia sư tầm thường? Chàng rất lo âu đồng thời cũng rất háo hức.
Sáng hôm sau, tin đó đã được lan truyền trong khu phố như thể đã được thằng mõ loan báo. Chàng thấy nhiều người láng giềng đã đứng đợi mình. Vốn có lòng yêu quý, họ lo lắng đến công việc của chàng, người này thì chúc mừng, người kia thì trấn an và nói rằng hôm nay thì tốt ngày. Không chần chừ, chàng ra khỏi nhà họ Trương thật sớm vì chàng đã định đến chùa Báo Thiên trước để dâng hương lên Đức Phật. Sau đó, chàng thả bộ một lúc ở bờ hồ Lục Thủy2 để suy nghĩ về thái độ ứng xử thích hợp mà chốc nữa đây chàng phải có. Mặt nước phản chiếu mười hai tầng tháp Báo Thiên với mười hai mái thếp vàng tỏa rạng trong ánh nắng ban mai. Rồi chàng lại băng qua những con đường nhỏ quanh co và đông đúc đến đường Hoa Hòe dẫn thẳng đến chợ phía Đông và Cửa Đông của Kinh thành.
Giờ đây, chàng đi dưới những cây hòe đang trổ hoa, giữa tiếng rao hàng quen thuộc của đất Thăng Long đã từng làm chàng vui thích. "Kẹo đây!" giọng rao hàng êm ái của cô bán kẹo kéo. "Phở đây!" giọng mũi của anh bán phở. "Ai lấy ráy tai với lông nhím nào?" giọng nói bỡn cợt của anh thợ lấy ráy tai. Tất cả làm cho chàng lấy lại sự bình thản.
Chỉ một tí nữa thôi thì chàng đã làm một vài câu thơ về số phận của một thanh niên thuộc hàng dân dã được gặp một vị quyền cao chức trọng. Dĩ nhiên, sống ẩn dật tốt hơn là sống phô trương và ngay lúc ấy chàng vẫn thích được học tập trong một căn gác xép hoặc đừng bao giờ rời khỏi xóm làng hơn là đi tìm danh vọng lớn lao đầy nguy hiểm. Tuy nhiên, chàng cũng bị sự tò mò cuốn hút. Trong những lần đi dạo khắp kinh đô, chàng trai tỉnh lẻ ấy thường thấy những ông quan ngồi trên lưng voi hay được khiêng võng đi vào Nội thành qua cửa Nam là cửa dành riêng cho họ. Còn Cấm thành, chàng chỉ biết qua sách vở của những nhà thơ như Phạm Sư Mạnh, hoặc là qua lời kể lại của các thầy dạy học mình. Đó là những vị tiến sĩ thi đậu kỳ thi Đình. Họ được hưởng một ân huệ đặc biệt là dạo chơi trong vườn Thượng Uyển nhìn ngắm bao nhiêu là danh hoa dị thảo và các loài cầm thú quý hiếm. Làm sao biết trước được một ngày nào đó số phận may mắn sẽ dành cho chàng đặc ân ấy? Hay tất cả điều đó chỉ là một giấc mộng Nam Kha?
Thình lình có những người xô đẩy chàng và kéo chàng về thực tại. Họ đến từ mọi hướng, từ các hàng quán, các cửa phố, các tầng gác và sân sau. Họ chạy vội theo hướng Chợ Đông đến cuối đường. Có phải giặc Chiêm Thành lại đột kích nữa không? Hay triều đình lại ra một chỉ dụ mới?
Chính vào lúc đó, chàng nghe tiếng chiêng buồn thảm vang lên. Đằng kia một tốp lính cưỡi ngựa la hét mở đường. Cuối đường, đoàn người nhấp nhô rồi như bò sát đất dần dần lùi lại. Trên lưng voi, dưới chiếc lọng, một vị pháp quan xuất hiện, tiến tới như lướt đi nhẹ nhàng trên đám đông đang cúi rạp xuống để chào. Vị pháp quan đội một cái mũ cứng bằng lụa sơn xanh có quai bằng sắt gài dưới cằm, tay cầm một cái loa vàng. Tiếng chiêng gõ vang lên từng hồi cách đều nhau. Đó là đoàn người áp giải một tên tử tội đưa đến quảng trường chợ Đông hành hình.
Trong nháy mắt, Nguyễn Phi Khanh bỗng muốn quay về, tưởng như không cưỡng lại được. Tuy nhiên, chàng lại không làm như thế. Dù chàng có đi chậm lại cũng vô ích, đúng lúc chàng tới được quảng trường, đám đông, bằng một chuyển động bất ngờ đã đẩy chàng lên những hàng đầu. Ở đó, chàng trông thấy người tử tội mang gông rất lớn, khuôn mặt với đôi gò má nhô ra kiêu hãnh. Phía sau tử tội là mẹ hắn đang nài xin người đao phủ thi hành nhiệm vụ cho thật khéo léo với đường đao thật ngọt, không trầy trợt nham nhở. Cảm thấy trước điều phải xảy ra, cậu cử nhân trẻ tuổi rùng mình sợ hãi, hai chân va vào nhau lập cập mặc dù chàng không hề làm cho chúng cử động. Dù sao thì, chàng vẫn đứng đó, kẹt giữa cái bẫy của đám người đứng chết trân, không còn dám nghĩ đến điều gì đang chờ đợi chàng trong nội dinh.
Bây giờ đoàn người đi theo đã đứng đầy trung tâm của quảng trường. Các vệ binh tháo gông ra khỏi tử tội, người này ngoan ngoãn quỳ gối xuống cho vệ binh cột mái tóc của hắn vào một cành rủ xuống của cây đa to. Người đao phủ lấy miếng trầu đang nhai đánh một dấu đỏ chót lên gáy của tử tội. Thanh gươm dài của đao phủ lóe sáng trong ánh sáng ban mai. Cái chiêng treo trên cái đòn tre, hai đầu có người vác, không còn vang lên nữa. Chỉ có bà mẹ già đang cầu xin chú em đao phủ vì món tiền bà đã lo lót mà không làm con bà đau đớn. Đám đông im lặng như tờ chờ cho vị quan chấm dứt phát biểu qua cái loa màu vàng những lý do kết tội kẻ phản nghịch. Tên này đã phạm tội "bất nghĩa" vì đã giết một quan chức, tức đã phạm vào một trong "Thập đại tội", do đó đáng bị tử hình.
- Các ngươi hãy thi hành bản án!
Vị pháp quan ra hiệu. Tức thì một tiếng chiêng đáp lại. Đến tiếng chiêng thứ hai, thanh gươm trong đôi tay đao phủ được huơ lên, quay thành vòng tròn trong không khí và đúng tiếng chiêng thứ ba, lưỡi gươm phập xuống trên gáy kẻ tử tội đã được đánh dấu bằng nước quết đỏ. Máu vọt ra như suối từ tấm thân quỵ xuống, bắn tung tóe, dính vào bốn chân của thớt voi, trong khi cái đầu đã bị cắt đứt đu đưa dưới cành cây đa với một vẻ ngạc nhiên khủng khiếp. Bà mẹ già của kẻ tử tội ngã vật ra. Đao phủ hét lên một tiếng thật to rồi gỡ thủ cấp ra khỏi nhánh cây và để chứng tỏ tài năng hoàn hảo của mình, anh ta tung thủ cấp lên trời cho nó rơi xuống trong một trận mưa máu đang bay.
Đám đông tránh ra như sợ sệt một biểu hiện báo oán nào đó của người chết, từ nay phải chịu số phận của một cô hồn đi lang thang mãi mãi.
Nguyễn Phi Khanh không chờ những khổ hình dành cho tử tội3 sau khi đã chết. Chen lấn mãi, chàng mới mở được một lối rẽ qua đám đông đang xì xào những tiếng thì thầm chống lại các quan lại, những cha mẹ của dân (dân chi phụ mẫu) hút kiệt máu nông dân, đối xử với họ như bùn đất không hơn không kém, đẩy họ tới chỗ phải nổi loạn ngày càng thường xuyên hơn và khốc liệt hơn. Người mẹ già trút lên trời những lời rên rỉ: làm thế nào thực hiện đầy đủ mọi nghi thức lễ tang trên một cái xác đã bị chặt đầu? Tới được Cửa Đông, Nguyễn Phi Khanh trình diện với trạm gác, tuy bề ngoài bình thản, nhưng khi xuất trình giấy thông hành của ngài Nhiếp chính Đại thần, bàn tay chàng run lên khủng khiếp.
Khi những người lính xác nhận rằng phân nửa tấm thẻ chàng có tương ứng với phần nửa họ có, thì họ cho chàng vào. Có hai người trong bọn họ đi theo, sau khi chàng đã bỏ dép. Vì đó là đôi dép duy nhất của chàng mà chàng phải để lại như thế trên ngưỡng cửa nên chàng thích được bảo đảm sẽ tìm lại được. Chàng xấu hổ vì bận tâm đến một chi tiết nhỏ nhặt như thế. Nhưng khi bước qua cổng Minh Triệu, chàng quên hẳn điều ấy để chỉ còn nghĩ đến kẻ tử tội mà cái thủ cấp được xát muối giờ đây được bêu ở quảng trường chợ.
Bởi vì sáng hôm ấy, trong vẻ lộng lẫy của Hoàng thành, cùng một lúc chàng phải đo lường mọi sự phân cách giữa tầng lớp quý tộc và thứ dân, và sự khác nhau giữa thành nội và thành ngoại. Và trong khi bước đi trên những phiến đá cẩm thạch giữa cái khung cảnh lộng lẫy này, dọc theo những hành lang này, nơi các nhân vật quyền quý mặc triều phục lóng lánh qua lại, chàng cảm thấy dâng lên một nỗi nhớ nhung mãnh liệt chốn quê nhà, với những con đường làng buổi sáng dưới hàng tre xanh đính sương như đeo ngọc, những con đường viền cỏ ướt cọ nhẹ mắt cá chân chàng... Chưa bao giờ trong đời chàng, từ thuở bé cho tới tuổi đôi mươi, chàng có được sự hồi tưởng quê hương thắm thiết như thế.
Chàng sẽ biết được lý do của việc chàng được gọi đến sáng nay mà chàng không thể bỏ qua hay tránh né, từ đôi môi đỏ màu thần sa của một quan chức cao cấp ở một nơi nào đó trong dinh thự lộng lẫy vàng son này, cuối một gian phòng sâu, sau một bức tường. Chàng sẽ gặp ông ta sau khi vượt qua chục cái cổng. Liệu sau đó chàng còn được tự do không? Chàng có còn gặp lại các vị Thầy của mình, những đứa trẻ nhà họ Trương mà chàng đang dạy dỗ? Chàng có còn trở lại với bút, nghiên không?
Những người vệ binh dừng lại trước lối vào dinh của ngài Nhiếp chính Đại thần rồi lui gót. Khi người ta loan báo có khách thì cái tin này được lính túc vệ gồm cả trăm người truyền cho nhau từng người một đến tận những gian tiền sảnh. Nơi đây xuống lệnh cho Nguyễn Phi Khanh phải chờ đợi vì lúc này Đại quan đang bệ kiến Đức vua.
***
Tiểu thư Thái, con gái thứ ba của Đức ông Trần Nguyên Đán4, buổi sáng ấy thức dậy với niềm tin chắc chắn rằng hôm nay sẽ là một ngày khác hẳn mặc dù trong chốn khuê phòng, mỗi ngày đối với nàng đều giống như ngày hôm trước. Nàng đã nằm mơ thấy một đàn hạc trắng đang bay. Đó là điềm báo trước một biến cố may mắn. Cuộn mình trong cái chăn lụa, nàng vui sướng làm sống lại giấc mơ trong từng chi tiết nhỏ nhất... Những con chim hạc bay rất cao nhưng những chiếc bóng mảnh mai của chúng phản chiếu rõ nét trong nước biết bao! Nàng đi thơ thẩn trên bờ hồ - có lẽ là Hồ Tây, vì thỉnh thoảng nàng đã trông thấy trong lúc lén nhìn từ những tầng cao của dinh thự. Và cùng một lúc, chính nàng cũng là chim... được bay lượn và thấy mình vừa bay lượn vừa dạo chơi quanh bờ hồ nơi những cặp thư cưu5 đang bơi lội, đem lại cho nàng một cảm giác say sưa, ngây ngất và tự do tuyệt diệu làm sao! Quả là một việc khác thường.
Thị nữ Thị Nghi bước vào tạo ra một tiếng động nhẹ làm nàng giật nảy mình rồi bỗng nhiên lo âu với ý nghĩ rằng, điều nàng linh cảm đang vụt đến với nàng trước dự đoán.
Như thường lệ mỗi buổi sáng, đứa thị nữ quỳ gối bên giường dâng lên nàng một cốc nước để nàng súc miệng. Sau lưng người thị nữ, những cánh phượng hoàng trên bức sáo sáng rực dưới ánh mặt trời mùa xuân.
- Tại sao em để ta quá giấc? Có trễ quá rồi không em?
- Xin công nương cứ yên tâm, mới giờ Mão6 thôi!
Thị Nghi nhận lại cốc và dâng lên nàng tách nước trà ướp hoa thơm ngát.
- Lệnh bà nhắn bảo công nương sẵn sàng ứng hầu khi Đức ông cho gọi.
- Em có biết tại sao không? - Tiểu thư Thái lập tức đứng dậy - Em có biết thêm gì khác không? Nói mau lên.
Thị Nghi vốn đã biết tính khí táo bạo của cô chủ nên chỉ lắc đầu ra dấu không biết trong khi vẫn tiếp tục chế nước ấm vào thau đồng một cách buồn bã. Tiểu thư Thái quan sát đứa tớ gái bên trên tách nước và biết chắc rằng sáng nay Thị Nghi lại nhớ nhà. Là người xứ Nghệ An, Thị Nghi theo hầu hạ các phụ nữ khuê các từ ít lâu nay. Tiểu thư thường ái ngại cho nó và an ủi nó. Nàng dạy cho nó những bài cổ thi và nó dạy cho nàng những bài dân ca đầy châm biếm mà nó rất thích ngâm nga. Nhưng hôm nay, nàng không có lòng dạ nào để an ủi nó và mặc cho Thị Nghi cứ việc dõi mắt về hướng quê mà ruột đau chín chiều vì thương nhớ. Về phần mình, tiểu thư Thái đang quá nôn nao sốt ruột.
Trong khi nàng nhúng khuôn mặt mình vào chậu nước bóng loáng, nàng tự nhủ: vậy là, vậy là sáng nay cha nàng đòi nàng đích thân đến ứng hầu. Mà hôm nay đâu phải là ngày tế lễ, hay ngày kỵ nhật một vị tiền nhân nào. Những cánh chim trắng trong giấc mơ đã không đánh lừa nàng. Những tiếng quạt mà Thị Nghi đập mạnh xuống để làm vải giường căng lại nhắc nàng nhớ đèn tiếng cánh chim bay. Trái tim trong ngực nàng giống như những con chim bồ câu trong hội thi thả chim, sẵn sàng bay đi ngay khi người ta lấy chiếc đũa đập vào lồng mấy cái.
Với đôi tay mảnh dẻ, nàng quấn mái tóc mây thành búi và cài tóc bằng một cây trâm bạc có những tua ngọc rủ xuống. Nàng kéo hộp trang điểm lại gần, lấy ra một lưỡi dao nhỏ có cán bằng ngà. Trước tấm gương kim loại mà Thị Nghi vừa giữ vừa thở dài, nàng tỉa đôi chân mày cho mảnh lại và dài ra như lá liễu, cạo những lông tơ trên trán, tô môi hồng bằng bột đàn hương màu đỏ rồi chà răng bằng một mảnh vỏ cây ổi. Sau đó trong cái rương quần áo hình bán nguyệt, nàng chọn một cái yếm màu lục, mặc thêm một cái áo cánh vừa khít màu vàng nhạt, một cái váy lĩnh màu đen và sau cùng một cái áo dài lụa tứ thân màu trái vải mà nàng khéo léo thắt lại với một dây thắt lưng xinh xắn bằng lụa xanh rất hợp với đôi hài thêu chim phượng.
- Mời tiểu thư dùng bữa, Thị Nghi nói.
Bữa ăn sáng gồm nhiều món thịt, cá nhưng cô chủ chỉ ăn qua loa. Số thức ăn đủ dùng cho gia đình Thị Nghi ở quê nhà Nghệ An trong cả ngày. Một lần nữa, Thị Nghi lại thở dài.
Tiểu thư Thái không thấy ngon miệng như mọi khi. Nàng chỉ đụng đôi đũa ngà trên một vài món rồi ra dấu cho Thị Nghi dọn dẹp.
Giờ đây, niềm vui của nàng sa lầy trong sự chờ đợi, tâm hồn người thiếu nữ cương quyết và đam mê ấy, một tâm hồn sẵn sàng chấp nhận cuộc sống gối cỏ nằm sương của khách lãng du lại rối bời với trăm ngàn câu hỏi. Nàng đang bước vào một vùng sáng rạch ròi, ở đó hiện rõ số phận đã định sẵn cho nàng từ bên ngoài, chỉ một lần thôi và mãi mãi. Bởi lẽ nàng đã không nhớ ra rằng qua khỏi tuổi mười lăm, cha nàng - như mọi người cha khác - có thể đã định đoạt xong việc hôn nhân của nàng, đã hứa gả nàng và có lẽ đã đính ước nàng với ai đó. Chính vì thế mà đêm qua nàng đã mơ thấy những cặp thư cưu. Chính vì thế mà sáng nay cha nàng cho gọi nàng. Làm sao mà không lo nghĩ cho được?
Nàng chợt có ý định đến soi gương để thử xem nàng có thể tạo ra được ảnh hưởng gì đến một người có thể sẽ là vị hôn phu của mình thì nàng thấy mình thật vô lý. Chỉ có chờ đợi mà không biết được điều gì làm nàng sinh ra nghi ngại. Nhưng kỳ diệu thay, nàng tin chắc rằng cha nàng sẽ hỏi ý kiến nàng trước khi quyết định về nàng. Ông yêu thương nàng hơn các chị em gái của nàng và ông đã chứng tỏ tình thương yêu đó trong cái đêm kinh hoàng hồi năm ngoái khi quân Chiêm Thành cướp phá kinh đô Thăng Long. Lúc đó, ông đã đích thân đến tìm nàng trong phòng, thấy nàng đang run sợ nhưng vẫn tiếp tục đưa tay dạo trên chiếc đàn tranh như không có điều gì xảy ra. Cả hai cha con chạy trốn khỏi dinh cơ trong cảnh hỗn loạn. Bên ngoài, trong ánh đuốc bập bùng, đám người chạy loạn xạ. Nhà vua đem theo các vương phi và tỳ thiếp đã vượt sông qua bờ bên kia. Người ta đồn rằng quân Chiêm Thành sau khi đột nhập vào Nghệ An đã tiến ngược lên theo sông Đại Hoàng, một nhánh của sông Hồng và giờ đây chúng đang ở cửa ngõ của kinh đô. Và cha nàng đã đưa nàng, đi cùng chung cáng chạy nước kiệu thật nhanh làm cho thân thể nàng đau đớn ê ẩm. Nàng không nghĩ đến quân Chiêm Thành đang cướp phá kinh đô và dưới mỗi bước chân chúng đi qua là cảnh tàn phá, tro bụi và xác người. Nàng chỉ nghĩ nàng hạnh phúc biết bao khi cùng đi với cha mình trong cuộc chạy nạn. Dĩ nhiên, nàng thương yêu cha với một tình yêu thương ích kỷ nhưng tình yêu ấy đã đem lại cho nàng một sự minh mẫn mà chẳng cần đến lý luận suy tư. Mặc dù mùa xuân là mùa của việc mai mối nhưng chắc rằng nếu có gì bất ngờ mà cha nàng sẽ đem lại cho nàng, thì cũng không phải là chuyện dựng vợ gả chồng.
Thành ra, nàng cảm thấy hoàn toàn bình thản và cầm bút để hoàn thành bài thơ mà nàng đã bắt đầu từ hôm qua trong khi chờ đợi người ta đến gọi nàng.
* * *
Nguyễn Phi Khanh không biết mình đã kiên nhẫn chờ đợi trong bao lâu ở sân ngoài của dinh phủ. Đột nhiên chàng thấy một cỗ kiệu lớn, xung quanh có lính hầu mang võ khí và nghi trượng, tiến vào một cái cổng khá rộng đủ chỗ cho voi qua. Trước khi vị quan đại thần ngồi trên kiệu bước xuống, Phi Khanh vội tiến đến để chào, vì không còn nghi ngờ gì nữa, chính là đoàn tùy tùng của quan Tư đồ. Tuy nhiên, chàng giữ một khoảng cách thích hợp và cong lưng bái quỳ chờ quan lớn cho phép đứng lên.
Một giọng nói nhỏ nhẹ nhưng rắn rỏi cho chàng được miễn lễ và mời chàng đến gần hơn, chàng lùi lại tỏ dấu tôn kính và khi chàng đứng lên, chàng bắt gặp ánh mắt nhân từ của quan Tư đồ, Hoàng thân Trần Nguyên Đán đang đứng trong bộ triều phục rực rỡ dưới ánh nắng, tay cầm gậy.
- Ta có nghe nói về thầy là một thanh niên có nhiều triển vọng lớn - ông nói - Chính vì thế ta đã cho gọi thầy.
Rồi ông mời chàng vào nội dinh.
Các quân hầu đi trước mở những bức màn gấm vóc trước mặt hai người. Họ đi ngang qua những gian phòng lớn có cột và xà sơn son thếp vàng, những vườn cảnh có hồ nước với hòn non bộ, những sân trong với các cây đào đang nở hoa màu hồng đong đưa trước gió. Họ đến tận thư phòng và Hoàng thân đã mời chàng cùng ngồi chung chiếu. Sự giản dị ấy của Hoàng thân làm chàng bối rối. Trong phút chốc, chàng suýt quên mất nghi thức, nhưng rồi để giữ cho hợp lệ "chủ khách", chàng đã từ chối ba lần trước khi ngồi xuống bên cạnh. Hoàng thân bèn truyền cho quân hầu mang nước trà đến. Lúc đó, chàng thanh niên không thể nén được một tiếng thở nhẹ. Quan Tư đồ thấy thế liền nói:
- Thầy hãy bình tĩnh và hãy yên tâm. Thứ hạng của thầy trong kỳ thi hương đã chứng tỏ tài năng hiếm có của thầy. Hơn nữa, các thầy dạy của thầy nói rằng thầy trung thực và chân thành. Vì thế, ta thích thầy hơn những người đã được tiến cử cho ta và quyết định giao cho thầy việc dạy dỗ các con ta và đặc biệt là con gái thứ ba của ta cần hoàn chỉnh kiến thức. Nếu thầy chấp nhận, thầy có thể ở trong dinh này, ngoài những giờ lên lớp thầy sẽ được tự do nghiên cứu và đọc sách trong thư phòng này, tới lui tùy thích.
Hoàng thân đã nói như thế và Nguyễn Phi Khanh không tin tai mình đã nghe những lời ấy vì trước đó chàng đã tưởng đến đủ thứ, đã tưởng tượng ra hơn một nghìn lẻ một tình huống: chàng có thể bị nhốt vào ngục tối, bị đánh một trăm roi hoặc còn bị kết án phải lao dịch cắt cỏ ngựa trên phố "Hàng Cỏ", tóm lại đủ mọi chuyện, ngoại trừ việc được chỉ định làm gia sư cho một thiếu nữ ở hoàng thành mang trong mình dòng máu của các vua chúa nhà Trần?
Chàng đáp lại Đức ông bằng những lời tôn kính nhất và thái độ khiêm cung hoàn hảo nhất rằng đây là một hồng phúc hiếm có, cả ba đời cũng không dễ gì gặp được, và để đền đáp, chàng nguyện đem hết kiến thức và lòng nhiệt thành ra phục vụ. Chàng cảm thấy tự hào, hãnh diện khi nghĩ rằng phúc lộc này đang lan tỏa đến gia đình và quê hương chàng.
Sau khi uống cạn chén trà Tàu trong bộ đồ sứ Bát Tràng, chàng chờ đợi được ban lời tiễn khách thì đức ông truyền lệnh:
- Cho người gọi Cô Ba!
Quay lại phía chàng, ông bắt đầu hỏi han.
Có lẽ Nguyễn Phi Khanh đã đối đáp trôi chảy làm Hoàng thân hài lòng vì nhiều lần ngài gật gù mỉm cười tán thưởng.
Bấy giờ, tiểu thư xuất hiện với vẻ ung dung và tự nhiên của một người đã từng lui tới thư phòng. Khi vừa thấy Phi Khanh, một vẻ kinh ngạc và khó chịu cùng lúc hiện lên trên khuôn mặt xinh đẹp kiêu kỳ của tiểu thư. Nàng trấn tĩnh, lấy lại sự thoải mái và dường như đối với Phi Khanh đó chính là dấu hiệu của các tiểu thư con nhà gia thế:
- Thưa phụ thân, cha đã gọi con? - Nàng cất lời.
Nhìn đôi chân mày vòng nguyệt, đôi má hồng và dáng người yểu điệu, mảnh mai như cây liễu non, Phi Khanh tự nhủ nếu nàng lại hé môi cười, chắc không bút mực nào tả nổi.
Trong lúc Hoàng thân giải thích lý do sự có mặt của chàng trai, khuôn mặt của con gái ngài trở nên thư thái và lấy lại vẻ rạng rỡ thanh thản. Qua đôi mày mềm mại như tơ tằm, nàng hướng ánh mắt đầy vẻ tinh nghịch về vị gia sư tương lai của mình. Nàng sẽ nghĩ điều gì đây? Phi Khanh tự hỏi, và càng ngắm nhìn nàng, lòng chàng càng xao xuyến.
Khi quay về nhà họ Trương. Nguyễn Phi Khanh dường như là một hồn ma từ chốn cửu tuyền trở về: tâm hồn chàng rất xáo động. Lũ trẻ con trong nhà reo hò sung sướng được gặp lại chàng nhưng rồi chúng khóc lóc, kêu than khi biết thầy giáo từ nay phải vào sống trong hoàng thành để dạy học cho một cô học trò, độc nhất, dù đó là một bà quận chúa! Buổi tối hôm đó, chàng tổ chức bữa tiệc chia tay xứng đáng với gia đình họ Trương và tiêu sạch món tiền ít ỏi của mình. Chàng uống rượu nếp và nhận những lời cầu chúc chân thành hay chỉ là hình thức của mỗi người. Phúc thay cho đứa con hiếu hạnh và kính cẩn, biết trợ giúp gia đình khi Hoàng thiên cất nhắc.
Cũng như đêm hôm trước, chàng không thể ngủ được. Nếu việc nhậm chức gia sư cũng như mọi khả năng thán phục trước vẻ duyên dáng của cô học trò quý phái có làm cho lòng tự ái của chàng thỏa mãn, thì trong một sự chuyển hướng lạ lùng, giờ đây nó như biến mất và chàng cảm thấy một tình cảm phức tạp mà người ta không dễ gì xóa bỏ được trong nháy mắt. Trái lại, Phi Khanh không phải là một đầu óc nông cạn để vội vàng kết luận từ một ấn tượng mà thôi, chàng đã phải trải qua năm đêm dài thao thức mới nhận ra được rằng tình cảm căn cứ vào một cái gì như là định mệnh: một biến cố không thể đảo ngược vừa xảy đến. Trong cõi trần này, đối với nhà nho, chỉ có đức hạnh là quan trọng, thế mà số mệnh đã đẩy chàng lao vào biển công danh đầy sóng gió và đá ngầm hiểm hóc. Chỉ cần nghĩ lại cái cách mà tiểu thư con quan Tư Đồ đã chào chàng như muốn nói rằng: "Giờ thì chỉ có hai chúng ta thôi!" cũng đủ làm cho chàng bối rối không biết ứng xử thế nào. Cho dù Hoàng thân có lòng nhân từ đã hứa, chàng không thể ra vào chốn Hoàng thành theo ý mình, cũng không đi về quê hương vào các kỳ lễ hội mà không gặp những trở ngại khó lòng vượt qua. Chàng đâm ra hối tiếc vì đã đỗ đầu khóa thi hương thay vì chỉ đứng vào một thứ hạng khiêm tốn để chàng còn được hoàn toàn tự do. Cuộc sống trong Hoàng thành, như hôm trước chàng đã thoáng thấy, dường như có thể so sánh với một vở tuồng bao gồm những điệu bộ và dáng vẻ bên ngoài. Thế nhưng, chàng thở dài, một thiếu nữ đẹp như tiểu thư này, nhan sắc làm nghiêng thành đổ nước, chàng tin rằng mình chưa từng gặp được một ai!
Giờ Mão7 đến, đã thấy chàng có mặt giữa những cây cảnh trong sân giữa và đang thong thả đi vòng quanh bể cá.
Dần dần, khu phố thức dậy, chàng nghe tiếng trẻ con gọi nhau từ nhà nọ sang nhà kia, các cậu học sinh chạy qua những cổng phường mà người ta vừa mở. Những mảnh ván cửa trượt của các cửa hàng lướt nhẹ. Ở đằng xa, những người bán hàng rong đầu tiên bám riết theo khách hàng và trong đường phố gần đó, những chiếc xe bò nghiến vành xe giữa mặt đường. Trong khu dân cư của kinh thành này - mà sáu mươi mốt khu phố còn quen thuộc với chàng hơn cả làng quê - giữa đám dân làm thợ thủ công, thương nhân, nông dân và nho sinh, có cả những ngoại nhân từ Chiêm Thành, Trung Hoa, Chân Lạp và Xiêm La đến, Phi Khanh biết cách phải ứng xử thế nào, dù chàng chỉ là một anh chàng dân tỉnh lẻ. Còn ở giữa một gia đình đại quý tộc, chàng không biết gì về cuộc sống, về phong tục tập quán của Triều đình và những mưu đồ của nó. Vả lại cả cách dạy dỗ một tiểu thư quý tộc đối với chàng cũng chẳng thuận lợi gì nếu căn cứ vào ánh mắt chế giễu của nàng.
Đứa tớ gái đến múc nước từ bồn nước giật nảy mình khi nhận ra chàng. Một lát sau, Phi Khanh nghe thấy tiếng đứa tớ gái cười ở nhà trong vì nó ngỡ ông gia sư là một bóng ma.
Chàng cũng phải bật cười.
[←1]
(Từ latinh): Định mệnh
[←2]
Dưới các triều đại Lý, Trần (thế kỷ 11 đến thế kỷ 14), Hồ Gươm (Hồ Hoàn Kiếm) ngày nay được gọi là Hồ Lục Thủy (nước xanh)
[←3]
Bêu thủ cấp, giã nát xương, đánh roi trên mộ v.v...
[←4]
Trần Nguyên Đán (1320-1390), cháu tằng tôn Trần Quang Khải, con thứ ba của Trần Thái Tông, làm Nhiếp chính Đại Thần.
[←5]
Thư cưu: giống chim sống dưới nước, tượng trưng cho sự kết hợp vợ chồng
[←6]
Giờ Mão: từ 5 giờ đến 7 giờ sáng.
[←1]