Tập 3 Chương 1
Đâu đâu cũng chịu lệnh đông quân
Nào chốn nào chang gió xuân?
Huống lại vườn còn hoa trúc cũ,
Trồi thức tốt lạ mười phân.
NGUYỄN TRÃI (QUỐC ÂM THI TẬP)
Sau khi ghi lại việc triều đình gửi sang Trung Hoa hai mươi nhà sư mà Nhà Minh ở Nam Kinh đòi hỏi, nhà biên sử của triều đình tại Thăng Long đã hạ bút viết những dòng sau đây:
"Tháng bảy năm Ất Sửu triều đại Trần Phế Đế (1385), quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán, cháu tằng tôn của Trần Quang Khải, con thứ ba của Hoàng đế Trần Thái Tông, đã rút hẳn về ở núi Côn Sơn, tỉnh Hải Dương".
Khi mặt trời vừa mới mọc, chiếc thuyền lớn nhà quan khởi hành từ bến đò cửa Suối, giờ đây đang ngược dòng sông Hồng, đi về hướng kênh Dương. Mặt trời đã lên cao hứa hẹn một ngày oi bức. Người ta đang ở vào mùa nước lớn tháng bảy năm Ất Sửu (1385). Kinh đô, chùa chiền, tháp cao và các thị trấn run rẩy dưới một lớp sương mù màu hồng, mỏng như cánh chuồn.
Chiếc thuyền của Hoàng thân sau khi xoay xở hồi lâu giữa những chiến thuyền và thuyền buôn, và đám thuyền tam bản lúc nhúc như cả một hạm đội ở Đông Bộ Đầu, giờ đây đang tiến lên theo nhịp điệu của mười một tay chèo. Khi thấy con tàu của Hoàng thân lướt qua như một con chim lớn với những con rồng chạm trổ óng ánh, với bộ cáng đặt trên nóc buồng lái, những người chèo thuyền tam bản, những ngư phủ và các binh sĩ đứng gác trên các tàu chiến nói với nhau đấy là một vị Hoàng thân nào đó đang du hành cùng các phu nhân núp sau các bức rèm buông rủ. Những người ở làng Cổ Xá trồng dâu bên bờ phía Bắc sông và những người trồng cây ăn quả ở bờ phía Nam đưa mắt nhìn theo con thuyền sang trọng, lấy tay lau mồ hôi trán và tự nghĩ:
Con vua thì lại làm vua
Con sãi nhà chùa lại quét lá đa.
Làm sao mà người ta có thể tưởng tượng được rằng nhân vật du hành ấy, đang trở về quê hương bản quán để làm một kẻ mang dép rơm, đội nón lá?
Thỉnh thoảng, một cậu bé xinh đẹp chừng năm sáu tuổi xuất hiện trên boong thuyền theo sau là một đứa tớ gái. Cậu bé nhìn nước sủi bọt dưới mũi thuyền hoặc vui thích với phong cảnh của tàu bè và các làng chài nổi.
Con sông Hồng chảy lờ đờ với lớp bùn xói lở từ hai bên bờ, với lớp phù sa nhuộm thắm khác nào như mặt trời đỏ ửng buổi hoàng hôn đã chết chìm trong đó. Con sông ấy chảy, mở rộng và lan tràn, cuốn dòng nước mang phù sa màu mỡ đến tận chân đê, khi thì tỏ ra ngoan ngoãn, khi thì sẵn sàng tràn lấn lên bờ. Và cùng với dòng sông, giống như dòng sông không đầu, không đuôi, Thủy thần khi ẩn khi hiện, vươn mình kéo dài ra như vô tận.
Cậu bé đang rình gặp Thủy thần khi nó nghiêng mình cúi nhìn mặt nước. Đôi khi dòng nước xáo động đột ngột trồi lên, ở vùng nước xoáy, giữa những ánh sáng lấp lánh, ấy là lúc Thủy thần lướt nhanh qua với cái đuôi rồng uốn lượn, rồi tất cả lại biến mất khi thần vừa nằm nghỉ, vừa thở giữa hai dòng nước, lơ lửng trong đám bụi vàng và giữa lớp bùn màu đỏ máu.
Cậu bé tưởng chừng nhận ra những cái vảy rồng bên dưới mặt nước không ngừng xao động theo nhịp đều đặn của mái chèo, còn đẹp hơn rất nhiều những vảy của các con rồng chạm trổ trên mũi thuyền. Như trong những câu chuyện được mẹ kể lại, một ông già gầy gò sống ở vùng đầm lầy lúc nào cũng có thể hiện ra trước mặt nó và nói: "Ta là Bạch Long bộ hạ của Long Vương". Nó kính cẩn chào ông ta: "Cháu muốn theo ông đến Long cung nhưng cháu không biết một người có xương như cháu có đi theo ông được không?" - "Không khó khăn gì", Bạch Long trả lời. Lúc đó, chính mắt nó thấy ông già dùng đầu gậy vạch nước ra đưa nó vào một thế giới rực rỡ, chỗ ở của Long Vương. Vị này đeo thắt lưng, ngọc trai và quần áo đỏ nhuộm bằng máu của hầu tinh. Nó sẽ nói gì với Long Vương? Trong các chuyện cổ tích cũng thế, các ông vua là những nhân vật đầy quyền lực và rất bận rộn, mỗi khi tức giận xét xử rất nghiêm khắc. Một vị pháp quan mặc lễ phục màu xanh lá cây không phải lúc nào cũng có mặt để dám thưa với các ông vua ấy rằng: "Ra lệnh trừng phạt khi bệ hạ đang tức giận chắc chắn không tốt đâu. Cần phải xét lại án quyết nghiêm khắc và điều nghiên vụ việc với tất cả sự thận trọng".
Cậu bé với hai chùm tóc để chỏm phất phơ trong gió, hoàn toàn không để ý đến sự có mặt của đứa tớ gái được giao cho việc phục dịch cậu. Cậu cứ xây đắp những cuộc phiêu lưu chung với các con giao long, cậu thường lơ đãng trong mơ mộng theo cánh én bay, hay hình ảnh một ngư phủ trên bờ sông lau lách, một mục đồng dắt trâu về trên bờ đê. Khám phá ra được điều gì, nó ước ao được chia sẻ với ông ngoại nhưng ông đã mệt mỏi, phải nghỉ ngơi.
Đến cửa sông của kênh Dương, các tay chèo chậm lại, chiếc thuyền lớn cập vào bến đò, gần đó có một quán nước. Tấm phên che nấp bóng dưới một cây đa biến nơi đây thành một chốn buông neo mát mẻ, nhiều khách hàng ngồi trên ghế đẩu đang phe phẩy những cái quạt lá cọ.
- Trãi! - Một tiếng gọi bên trong buồng lái vọng ra.
Đứa tớ gái muốn nắm tay cậu bé. Nó rút tay lại một cách nghiêm chỉnh và bắt đầu chạy đi. Đứng trước cửa buồng lái, nó nghiêng mình.
- Vào đi cháu của ông - Hoàng thân Trần Nguyên Đán nói, ông đang đứng giữa chiếc chiếu được trải sẵn để ông nằm nghỉ thoải mái. - Chúng ta dừng lại nơi đây, các tay chèo cần nghỉ ngơi. Nào, chúng ta xuống bờ một chốc.
Đằng sau tấm phên mắt cáo trong khoang bên cạnh, người ta nghe tiếng các phụ nữ trò chuyện dịu dàng:
- Nào, cháu nói gì về cuộc du hành này? Cháu đã thấy những gì?
Hoàng thân vịn vào vai của cậu bé Trãi. Cậu đứng rất thẳng và thấy mình trở nên quan trọng, đôi mắt cậu ngước nhìn ông ngoại với vẻ tôn kính. Cậu có quá nhiều câu hỏi nên rốt cuộc cậu lặng thinh. Hai ông cháu ra ngoài boong tàu dưới ánh nắng gắt. Đúng lúc ấy cả hai ông cháu được che dưới bóng chiếc dù vừa trương ra.
- Ông ngoại - vừa lên tới bờ Trãi nói - khi con ném một hòn sỏi xuống sông, nó rơi xuống đáy nước. Chiếc thuyền của chúng ta còn nặng gấp ngàn lần so với hòn sỏi, tại sao nó lại không chìm xuống?
Ông hoàng mỉm cười. Và nụ cười ấy đầy vẻ hiền từ như thể muốn gửi đến những người đang ngồi dưới mái che của quán nước mà ông đang bước tới, một tay đặt lên vai cậu bé, các khách hàng tránh ra một bên.
- Chúng tôi muốn nghỉ một lát - ông nói với ông chủ quán, tay bưng ấm lớn đang lần lượt rót cho khách hàng. - Cho xin vài cái bánh cho cháu bé.
Nhưng cậu Trãi không nghĩ đến bánh.
- Cháu xin ông ngoại trả lời cho cháu. Tại sao chiếc tàu của chúng ta không chìm?
Hoàng thân nhìn thật lâu con kênh lấp lánh dưới ánh mặt trời giờ Ngọ.
- Bởi vì - sau cùng ông nói - Thủy thần thích nâng nó lên. Nó với Thủy thần hòa hợp nhau. Nếu chiếc thuyền không hài hòa với Thủy thần thì có thể thần sẽ làm cho nó lật nhào và chìm nghỉm!
Đôi mắt cậu bé sa sầm lại, mọi vẻ rạng rỡ như tan biến đi nơi cậu bé mỗi lần cậu suy nghĩ sâu xa.
- Hài hòa? - Cậu bé ngỡ ngàng lặp lại.
- Ông muốn nói rằng - Hoàng thân nói sau khi đã uống một ngụm nước trà - tất cả mọi vật trong vũ trụ đều do sự cân bằng điều khiển. Sau này cháu sẽ biết rằng tất cả đều tuân theo những quy luật. Như khi cháu đi, đôi chân cháu mang cháu nhưng mặt đất lại mang đôi chân. Một hòn đá, một cái hố đủ để làm cháu mất thăng bằng và ngã xuống. Cũng thế, giữa sông và thuyền có một sự cân bằng, hay một sự hài hòa. Trái với hòn sỏi, chiếc thuyền dù nặng đến bao nhiêu nhưng mặt rộng tiếp xúc với mặt sông nên trở thành ra nhỏ. Như thế, mọi vật đều vận hành như thế cả - Hoàng thân nói thêm - Sức mạnh của thuyền do sông mà ra, sức mạnh của vua do dân mà có.
Câu nói cuối cùng này của Hoàng thân, cậu bé Trãi sẽ không bao giờ quên được dù hiện tại cậu chưa biết bắt nắm được ý nghĩa của nó. Ý tưởng ấy gieo vào đầu cậu lúc ấy, sẽ chín muồi, sẽ lớn lên khi cậu tiếp xúc với nông dân ở Côn Sơn cũng như khi cậu tiếp xúc với nhân dân làng Nhị Khê sau này nơi cha cậu dạy học. Nhiều năm sau này khi đương đầu với sự tàn bạo, lá cờ khởi nghĩa được dựng lên trên đất Lam Sơn, suốt những đêm dài, khi lo cái lo của dân - dân nâng đỡ thuyền và có thể làm thuyền nghiêng đổ - Nguyễn Trãi co người trong chiếc chăn lạnh, suy nghĩ đến cái ý tưởng đã hướng dẫn đời ông và các hoạt động chính trị của ông, và cả sau đó nữa, trong lúc vinh cũng như trong lúc nhục cho tới giây phút cuối cùng của đời mình mà số phận đã an bài trong mảnh vườn nọ…
Vào thời kỳ này, cuộc sống của cậu Trãi còn ở tuổi thanh xuân với Chúa xuân "Đông quân". Những ý tưởng ấy chỉ nằm ở hậu cảnh của cuộc đời. Và cuộc đời trong lúc này là cái mái che bằng lá cọ, mát mẻ mà hai ông cháu đang ngồi đối diện với con kênh bốc hơi dưới ánh mặt trời, là những người nông dân đang nhìn họ, và ông cụ già rất trang nghiêm đang đem bánh nếp từ quán ra cho họ, là cuộc du hành về Côn Sơn bằng thuyền rồi bằng ngựa làm cậu bé thích thú, nhất là lúc vào đến xứ Hồng với những con sông nhỏ nơi có nhiều giao long ẩn náu. Người ta nói không năm nào mà đất ấy không xảy ra những việc lạ lùng.
- Nào, ta đi cháu nhé.
Gần nơi thuyền đậu, những người chèo thuyền và người cầm lái sau khi tắm mát đang ngồi đợi, khăn quấn xung quanh mái tóc còn ướt. Từ trong các nhà tranh nằm ven sông, lũ trẻ con nách bồng đứa em út, một vài bà cụ, miệng nhai trầu, tất cả quây xung quanh họ.
- Ngày mai - Hoàng thân nói - cháu sẽ làm quen với những cây thông ở Côn Sơn.
Ông nắm lấy tay Trãi, đi về phía mũi thuyền, một người đầy tớ theo sau họ cầm dù.
Dù lòng lưu luyến quê hương mãnh liệt, ngài Trần Nguyên Đán phải có nhiều can đảm mới giữ được lời ông tự hứa với mình là sẽ ra đi khi nào ông không còn hy vọng triều đình lắng nghe ông. Tuy nhiên, ít lâu sau lời thỉnh cầu táo bạo của quan tri huyện trẻ tuổi Từ Thức, ông thấy Đức Vua trị vì có vẻ hồi tỉnh lại. Trong một khoảng thời gian, Đức vua thường cho gọi ông đến, lắng nghe những lời ông khuyến cáo đến mức làm cho ông nghĩ rằng mình vẫn còn hữu dụng. Trong một cuộc họp, Đức vua cũng đã hạ cố tuyên dương một cách công khai những bề tôi trung trải qua năm triều đại. Đó là quận công Uy Túc đời vua cha ngài, Hoàng thân Văn Túc, đời vua ông của ngài, đại Hoàng thân Chiêu Minh, đời ông cố của ngài, còn đời ngài có Hoàng thân Trần Nguyên Đán, quan Tư Đồ Băng Hồ.
Tiếc thay, Đức Vua trị vì một lần nữa buông mình theo sở thích ưa dùng những cuộc vận động lắt léo. Vả lại chính mụ hoàng hậu già nua đã duy trì nơi ngài sở thích ấy. Và ngài đòi hỏi nơi Lê Quý Ly những sự nhượng bộ thật đáng nực cười vì chúng chỉ nhắm vào cái quyền hành chỉ hình thức của ngài. Đã qua rồi cái thời kỳ cho phép Hoàng thân Trần Nguyên Đán gỡ rối cái mớ bòng bong ấy và lãnh đạo việc tái lập sự ổn định. Vì vậy ông phải chọn con đường rút lui. Những kẻ xấu miệng đã xì xầm về ông rằng ông chỉ tìm lại ân huệ của nhà vua với mục đích duy nhất là tìm cách xóa bỏ hình phạt mà con rể ông là Nguyễn Phi Khanh phải chịu, cho rằng ông cáo quan chẳng qua là vì bất mãn. Nhưng chính Phi Khanh không lấy đó làm quan trọng, chàng cam chịu tình cảnh không được nhà vua dùng đến, chàng mở một trường học ở làng Nhị Khê. Dù là tiến sĩ, chàng không hơn không kém một gã tú quèn.
Hoàng thân ngồi ở mũi thuyền cùng với cậu bé. Chiếc cầu được rút lên, dây buộc thuyền được tháo ra, chiếc thuyền lớn của nhà quan từ từ rời bến ra giữa dòng kênh. Họ lại khởi hành. Ngày mai, Trần Nguyên Đán suy nghĩ, những rừng tre đất Côn Sơn xanh tươi sẽ ngút ngàn dàn trải trước mắt ông. Việc trở về quê đã dứt khoát. Những lời chào từ biệt hai vị vua cũng như Lê Quý Ly và các quan lớn, chén rượu cùng uống với bạn bè lúc chia tay ở bên cửa Suối từ nay thuộc hẳn về quá khứ. Những gì còn giữ lại của cuộc sống ở kinh đô được mang theo trong một vài cái rương bằng gỗ quý và các giỏ mây chất trên boong thuyền giữa những hành lý của gia đình, nghĩa là của những người nhà cùng chuyển theo ông về ở ẩn. Hai cô gái đầu lòng, một người lấy chồng làm quan tòa ngự sử, một người lấy chồng làm quan ở Bộ Lễ, các con trai ông ở tuổi đi học Trường Quốc Tử Giám còn ở lại Thăng Long, trong khi Thái và hai bé trai nhỏ, em của Trãi là Bảo và Lý thì đã theo Phi Khanh về làng Nhị Khê đã mấy tháng nay. Hoàng thân ngắm nhìn đứa cháu ngoại đứng bên cạnh ông đang nhìn đất nước Việt Nam lướt qua hai bên bờ sông, những cánh đồng lúa chín vàng, những ngôi làng nép mình sau những lũy tre xanh và những bụi chuối. Ông cảm thấy vô cùng biết ơn con gái ông đã chịu để cho ông dắt thằng nhỏ đi theo.
- Ông ngoại ơi, chúng ta đang ở trong xứ Hồng phải không ạ? Có phải đây là xứ sở của các con giao long? Những đền thờ trên bờ đâu? Ở đây phải không ạ? - Trãi chỉ vào một ngôi mộ nằm cô quạnh giữa hai thửa ruộng.
Hoàng thân lắc đầu mỉm cười:
- Cháu phải kiên nhẫn chứ! Phải kiên nhẫn! Phải chờ có gió lớn và mưa đổ làm xáo động bầu không khí. Vậy cháu tưởng rằng các con giao long xuất hiện dễ dàng mỗi khi người ta hối hả muốn gặp chúng sao?
Một bóng mây khả ái thoáng qua trong đôi mắt to của cậu bé. Mẹ nó mà thấy nó nhìn như thế, chắc hẳn đã phải ôm nó vào lòng. Hoàng thân hiểu ra rằng Thái phải trả giá đắt biết bao khi phải rời xa nó. Với lòng hiếu thảo, nàng đã hy sinh. Các đứa em sau của Trãi còn cần được săn sóc. Lý, đứa con thứ ba của nàng chưa cai sữa thì đứa con thứ tư đã báo hiệu. Lần mang thai này quá gần với lần mang thai trước làm cho nàng phải kiệt sức. Từ lâu, sức khỏe của cô con gái "Kiều Mai" luôn luôn làm ông bận tâm, giờ đây nó làm cho ông lo ngại. Cho tới nay ông vẫn có thể chăm sóc nàng, gửi ngay một thầy thuốc riêng khi có dấu hiệu bất thường nhỏ nhất nếu không thể sai bà hoàng, vợ ông tới làng Nhị Khê để biết rõ con gái ông có gánh vác những công việc nặng nhọc hay bị mẹ chồng làm khổ không. Từ nay, việc gì sẽ đến với con gái ông?
Hoàng thân thở dài, hai ông cháu ở trong bóng râm. Mặc dù có gió nhẹ, trời vẫn rất nóng ở trên mũi tàu. Ông hoàng cảm thấy hơi chóng mặt. Từ mấy tháng nay, ông bị chứng sung huyết ở mặt và lồng ngực, chứng ù tai và suy nhược. Cùng với cậu bé, ông thích lùi về khoang đằng trước. Dưới bóng đêm buông xuống, đèn lồng được đốt lên ở mũi tàu và đuôi thuyền. Trãi với đứa tớ gái theo giữ, được phép ra xem đèn. Một trong những chiếc đèn có ghi hàng chữ: "Nhà quan Tư Đồ".
Khi đến gần sông Lục Đầu, thuyền bè xuôi ngược tấp nập, nhiều xuồng nhỏ chở thóc cho các địa chủ đi theo chiều ngược lại. Chúng lướt qua im lặng như những vật đen tưởng chừng như do ma quái lèo lái. Thỉnh thoảng dưới ánh đèn lồng, cậu bé nhận ra một ánh mắt sắc nhìn thẳng vào mặt cậu làm cho cậu sợ hãi lùi vào. Rồi thì những chiếc thuyền đi xa dần, nhạt nhòa trong bóng tối. Dưới ánh trăng, chiếc thuyền của Hoàng thân tiếp tục cuộc hành trình đơn độc, để lại sau lưng những làng mạc ngủ yên, những ngọn đèn leo lét của một vài con thuyền tam bản và tiếng chuông của một ngôi chùa xa. Trong ba khoang ở phòng lái trên boong, người ta mắc võng, trải chiếu bỏ gối xuống và sau một bữa ăn nhẹ, gia đình Hoàng thân đi nằm nghỉ qua đêm.
Gần tới canh tư, Hoàng thân và người nhà đang ngủ yên, các lính gác theo tiếng mái chèo đều đặn đong đưa đang ngủ gà ngủ gật, thình lình một vùng sáng rực trời làm họ thức dậy. Tiếng hú hét xuyên thủng bóng đêm. Một ngôi làng bốc cháy. Trong cơn sửng sốt, các tay chèo chậm lại. Ông Hoàng thân và cậu bé trong khoang phía trước, các phụ nữ trong khoang giữa sợ hãi dựng tóc gáy quan sát cảnh tượng qua các bức mành.
Xuyên qua đám cháy đỏ rực, những viên ngói nhọn như móc câu trên đường gờ các mái nhà, vươn cao lên như quắp vào màn trời trước khi sụp đổ, người ta xô nhau chạy theo mọi hướng. Những bóng đen vừa chạy vừa gào thét, cố thoát khỏi những bóng đen khác mang khí giới đang chạy theo đuổi bắt. Chính giữa đám lửa, một người đàn bà xuất hiện, hai tay giơ cao một đứa bé. Một nhát kiếm từ đằng sau xuyên qua người đàn bà. Trên thuyền, những khán giả bất lực thốt lên tiếng kêu than nghẹn ngào trước cảnh tượng đó.
- Trời tru đất diệt cả dòng họ chúng! - Một anh lính gác thốt lên.
Cậu bé Trãi giật lùi lại, đôi mắt còn mở to vì sợ hãi, miệng há hốc nhưng không nói được lời nào. Hoàng thân và cậu bé không nghe thấy giọng nói run rẩy của bà hoàng hỏi nhẹ nhàng qua tấm phên mắt cáo.
- Tránh cho thằng bé trông thấy tất cả những cảnh đó được không? Trãi, cháu Trãi, cháu có trùm chăn lên không?
Bọn cướp đang đốt phá một ngôi làng gần sông, người ta thấy rõ như ban ngày, và chiếc thuyền lớn nhà quan với những chiếc đèn lồng lớn đu đưa ở mũi và sau lái bị phát hiện từ xa. Trong lúc bọn lính gác nhận thấy sự nguy hiểm, lớn tiếng báo động thì những bóng đen đã chạy ùa xuống bờ sông về hướng các thuyền mành giấu trong lau sậy.
Dưới sức mạnh của mười hai cánh tay chèo, con thuyền nặng chuyển mình như một cánh chim lớn hoảng sợ. Hoàng thân bước ra trước cửa buồng lái, nhìn thấy những chiếc thuyền mành đang tới gần.
- Thưa ngài, đội trưởng đội lính gác nói với ông, bổn phận của tôi là bảo vệ cho gia đình ngài được an toàn. Tôi kính cẩn xin ngài lui vào và chốt kín cửa lại.
Kế đó, đội trưởng kiểm tra xem cửa phòng lái đã được gài chốt kỹ chưa trước khi đương đầu với sự tấn công của bọn cướp
Các tay chèo cố ra sức chèo nhanh đến độ cả con thuyền rung chuyển cũng vô ích, các thuyền mành nhanh nhẹn và nhẹ nhàng của bọn cướp có tốc độ nhanh hơn. Từ thuyền quan người ta thấy những lưỡi gươm của chúng lấp lánh dưới ánh trăng. Bám chặt vào mũi của chiếc thuyền mành dẫn đầu, với một nụ cười khan để lộ hàm răng như loài lang sói, một tên cướp đang sẵn sàng nhảy sang thuyền nhà quan khi khoảng cách đủ gần. Các lính gác cùng bọn tôi tớ của Hoàng thân, cả bác đầu bếp võ trang bằng tất cả những gì tìm thấy trên thuyền có thể gây thương tích, đâm thủng, chặt, chém, chờ đợi chống lại bọn cướp cho tới người cuối cùng.
- Ông ngoại ơi - Trãi nói với một giọng trẻ con rung lên vì tức giận - cháu xin ông để cháu bảo vệ ông. Có giao long giúp cháu, cháu sẽ đánh bại tất cả bọn chúng!
Trong ánh sáng bập bùng của đám cháy, bóng dáng Hoàng thân đang ngồi trong tư thế trầm tư gầy gò ảm đạm nổi rõ lên trong phòng lái.
- Ông ngoại ơi - cậu bé nài nỉ - ông ra lệnh cho lính gác mở cửa đi!
Trong khi đó tiếng đàn bà rên rỉ vang lên đằng sau tấm phên mắt cáo.
- Cháu à, điều gì con người không thể làm nổi, Trời làm được. Nếu số mệnh muốn chúng ta đến được Côn Sơn an toàn thì ngọn gió thổi đưa giúp thuyền cũng sẽ thổi cho chúng ta! - Ông hoàng vừa nói xong thì có tiếng trống vang lên đáp lại lời ông: bốn hồi trống liên tiếp theo sau đó là tám tiếng đánh gấp, Hoàng thân và gia đình chưa kịp hiểu được ý nghĩa của những hồi trống ấy thì cánh cửa buồng lái đã được mở chốt.
- Thưa ngài, mọi nguy hiểm đã qua rồi. Bọn cướp đã tháo chạy.
Trãi chạy ào ra boong thuyền. Thật vậy, bọn cướp như tuân theo một hiệu lệnh kỳ lạ, bỏ ngang cuộc tấn công, tháo chạy chèo hết tốc độ về hướng ngược lại. Trên mặt sông tràn ngập ánh trăng, những cuộn vảy quẩy mình đuổi theo sau những chiếc thuyền đang rút lui của bọn cướp.
- Xem kìa ông ngoại - Trãi siết thật mạnh bàn tay mà Hoàng thân vừa đặt lên vai cậu - đến lượt các con giao long đang truy kích chúng!
- Cháu ạ, bây giờ ta hãy trở vào nghỉ ngơi trước khi trời sáng. Ngày mai đường còn dài.
Ở hướng Tây, ngôi làng bị đốt cháy giống như một cây hoa mẫu đơn khổng lồ đỏ chói. Nhớ lại người đàn bà nâng đứa con trong tay, Trãi nghĩ đến mẹ cậu và rùng mình.
Khi gà gáy lần đầu, họ tới chỗ trạm nghỉ theo sự giao hẹn trước, ở đó thuyền sẽ chở các lính gác quay trở về sau khi đã hộ tống Hoàng thân và người nhà lên đường bộ cho đến tận Côn Sơn.
Không đánh thức Nguyễn Trãi, Hoàng thân bước ra boong thuyền.
—★—Trời rạng sáng một cách êm ả như người ta tháo băng một vết thương. Trên bờ sông, đằng sau lũy tre xanh nhấp nhô như hàng răng cưa, lác đác một vài nóc nhà lá cọ. Đằng xa, những ngọn đồi bấp bênh sau làn sương mù quấn quyện với những cây thông xanh trên đỉnh. Phía sau dãy đồi, sau một ngày đường đi ngựa, vùng đất Côn Sơn trải rộng... Mùi thơm thoang thoảng của hoa đại chùa Thiên Phúc Tự lúc nào cũng hòa lẫn với mùi hăng nồng của lò đốt than trong rừng gần đấy, đủ cho nơi thiêng liêng ấy có thêm một cái tên khác là "Chùa khói". Hỡi ôi! Sau những gì xảy ra trận khắp cõi Đại Việt, từ cuộc phiến loạn cho tới những toán cướp đốt phá và tàn sát lương dân, ông sẽ nhìn thấy quê hương bản quán trong tình trạng đáng buồn ra sao?
Lũ tôi tớ đi đi lại lại, bận rộn bốc vác rương hòm và hành lý lên bờ, sau đó những thứ này được chở đi đường bộ trên lưng lừa. Chợt thấy một hũ rượu cũ có đến chín năm, Hoàng thân ra lệnh mang ngay đến lữ quán gần đó và hâm nóng bằng những cành hương mộc, để đãi các anh lính gác và các chú chèo thuyền đêm qua đã tỏ ra can đảm, cả đến ông già Phan cũng đứng vững trên đôi chân khẳng khiu, tay cầm con dao bếp. Cái bộ mặt dữ tợn mà ông già Phan cố hết sức tạo ra trông ngồ ngộ.
Hoàng thân vẫn còn buồn cười về cái bộ mặt đó khi bước vào gian giữa của buồng lái. Bà hoàng đang dâng hương trước bàn thờ Phật. Nhìn vẻ mặt tươi cười của ông, bà vui mừng vì Hoàng thân có vẻ khỏe hơn hôm qua. Cơn xúc động làm ông ấy trẻ lại, bà tự bảo, rồi nắm tay Trãi dắt đi.
- Cháu đi chơi đi! - Hoàng thân nói - Ông phải viết một vài bức thư.
Ông vỗ tay để người ta đem đến cho ông tứ bảo thư phòng.
Một lát sau, ông cho người cáng vào lữ quán vì đường lầy lội. Lữ quán đã đầy những người ở quanh vùng. Câu chuyện xoay quanh cuộc tàn phá đêm qua. Giữa tiếng ồn ào rộn rã, người chủ quán chào ông ba cái, kính cẩn mời ông bước vào tệ xá. Một người dân làng với đôi bàn chân to và khuôn mặt rỗ lúc đó đang hỏi trống không rằng các đạo quân ở tỉnh làm gì khi bọn cướp đang làm việc giết người, bỗng ngừng nói. Mọi người thình lình câm như hến, nhìn ông hoàng mặc áo lụa quần the cùng với đoàn hộ tống đặc biệt bước vào. Những kẻ khôn ngoan giấu mặt đi sau những bát trà hay bát cháo và nếu không thì sau những chiếc nón lá.
Hoàng thân ngồi trên một tấm chiếu sổ mép cách bức ngăn không xa một ông lão, ông này vội vàng đứng dậy. Sau khi Hoàng thân yêu cầu ông lão ngồi vào chỗ như người khách được mời, ông lão mặc áo dài nâu đội mũ đạo sĩ mới chịu ngồi xuống. Đúng lúc đó, ông già Phan đến báo cho Hoàng thân rượu đã được hâm nóng.
- Hãy nói với chủ quán rằng tôi phải thưởng thức khoản nước trà chế nước mưa mà ông ta đã khoe với tôi rồi tôi mới đi. Nhưng bây giờ thì hỏi mượn ly chén và rót rượu ra, trước hết cho lính gác, các người chèo thuyền và gia nhân rồi sau hết cho mọi người có mặt ở đây cùng với đồ nhắm.
Mọi người chắp hai tay lại, đón nhận món quà của Hoàng thân.
Khi nhận chiếc cốc đầy tràn rượu, ông đạo sĩ già giảm đi phần nào cái vẻ thanh thản. Không đụng đến đồ nhắm, ông uống hết một hơi như một con trâu đang khát. Ông ta bèn hỏi:
- Thưa Tướng Công, chẳng hay có phải ngài là đại quan Băng Hồ khả kính, người đã cho bài trí động Thanh Hư trong núi Côn Sơn và đêm qua đã bị băng cướp Ba Cụt tấn công?
Hoàng thân nhướng đôi chân mày.
- Vâng, đúng thế - ông nói - Cuộc tấn công ấy xảy ra cách nơi đây mười dặm, mới mấy giờ trước đây thôi, nhưng làm thế nào ông lại biết được chính xác danh tánh của tên cướp nhanh thế?
Vị đạo sĩ nhổ nước miếng xuống dưới vách ngăn.
- Chả là, mấy năm trước đây - đạo sĩ nói - Ba Cụt đã đưa nguyên cả một làng đi ăn cướp từ tỉnh Hà Tĩnh ra. Từ đó, không tháng nào mà bọn chúng không cướp bóc và tàn sát. Còn ai ngoài Ba Cụt và băng nhóm của hắn có thể phạm tội ác như thế?
Một lần nữa, đạo sĩ lại khạc nhổ.
- Chẳng lẽ sau những lời kêu ca, các quan thanh tra của triều đình không được cấp báo gì sao? - Hoàng thân hỏi, mặc dù ông thừa biết sự bất lực hoàn toàn của bọn quan chức ấy.
- Thông thường, việc điều tra của họ dừng lại ở quan đầu tỉnh. Ông này đãi họ một bữa tiệc và gọi các ả ca nhi đến. Thế là xong!
Rượu vào khiến anh ta trở nên bạo dạn, anh dân làng có đôi chân to xích lại gần.
- Không tháng nào - anh ta nói - mà các xã trưởng không nhận được những lời ca thán của các làng bị tấn công. Họ chuyển các lời ca thán ấy lên cai tổng và cứ như thế cho đến viên quan đầu tỉnh. Các lời ca thán chắc là lạc mất dọc đường, vì Ba Cụt và đồng bọn vẫn cứ hoành hành!
Với nét mặt đầy vẻ dè bỉu rõ ràng, anh ta quay về các bạn của mình cũng đang sắp sửa góp ý.
- Các quan chức hàng tổng - một nông dân mắt lồi khoảng bốn mươi tuổi nói tiếp vào - hăng say trong việc thu thuế bắt phu hơn là việc tuyển mộ và võ trang cho tuần đinh để bảo vệ chúng tôi.
- Mỗi làng phải tự tổ chức - chủ quán bưng nước trà chế bằng nước mưa vào cũng cất tiếng. - Chẳng nhẽ cứ thụ động như con heo để cho người ta chọc tiết?
- Sách Xuân thu - ông già đạo sĩ nói - dùng một từ gớm ghiếc là "kẻ bất lương" để gọi những tên giết người và cướp của ấy, những kẻ không còn thuộc giống người nữa. Người dân chờ đợi Nhà Vua ra hình phạt thật nghiêm minh và cương quyết. Vậy mà ngày hôm nay, chúng ta thấy gì? Bọn cướp vẫn sống an toàn và giàu có.
Hoàng thân buồn bã lắc đầu. Biết nói gì với đám dân nghèo này? Ông im lặng uống trà rồi bước đi trong khi một người đầy tớ trả tiền mọi chi phí.
Đúng vào lúc đoàn người khởi hành, ông già đạo sĩ một lần cuối đến chào Hoàng thân. Dường như ông đạo sĩ lại trở về trạng thái dửng dưng với mọi sự vật chất phù du, tuy rằng rượu ngon của đất kinh kỳ không phải là không có góp phần tạo nên tâm trạng ấy. Mũ đạo sĩ lệch qua một bên, bước chân chếnh choáng, ông xoa tay, điệu bộ có phần nào vui tếu. Mặc dù phong cách của ông già đạo sĩ có chút gì hoang dã nhưng ông ta có một khuôn mặt độc đáo và có vẻ một con người có văn hóa. Hoàng thân tiếc là không có thì giờ để làm quen với ông đạo sĩ nhiều hơn. Ông hoàng hỏi tên vị đạo sĩ và cho đạo sĩ biết rằng Hoàng thân rất hân hạnh nếu đạo sĩ đến thăm viếng đất Côn Sơn. Đạo sĩ Vô Kỷ vái chào Hoàng thân, hứa sẽ đến. Sau đó Hoàng thân ra hiệu khởi hành.
* * *
Suốt buổi sáng, bầu trời đầy mây, những đám mây đen như khói chạy đuổi nhau, báo hiệu cơn giông sắp tới. Trên con đường ngoằn ngoèo, xuyên qua cánh đồng, giữa những đám ruộng nước tràn bờ tháng bảy, theo bước chân người và ngựa, đoàn lữ hành hướng về những ngọn đồi màu xám đen, sau những ngọn đồi đó là đất Côn Sơn.
Vẻ mặt âu lo, Hoàng thân nhìn những cây tre soi bóng mờ trong hố đọng nước. Phải nói rằng, cuộc nói chuyện với đám nông dân ở lữ quán làm ông bận tâm suy nghĩ, và làm hỏng mất niềm vui mà ông mong chờ trong cuộc hành trình về quê nhà với cậu bé Trãi. Cậu bé ngồi trên mông ngựa của đội trưởng toán lính gác, lâu lâu lại quay mặt lo lắng về phía chiếc cáng của Hoàng thân và Hoàng thân đáp lại cậu với dấu hiệu âu yếm và lơ đãng. Quả thật là số phận khéo đùa, ông nghĩ. Ta đã treo ấn từ quan, thích tùng cúc chốn làng quê hơn cổng Đào môn, nhưng ta không thể dửng dưng với nỗi khốn khổ của quê hương. Thời thế này người ta không còn biết phải làm gì. Tất cả những điều ấy buồn thảm biết bao! Trong trường hợp Ba Cụt và bè đảng hắn, chỉ cần quan tuần vũ ra lệnh cho quan phủ tổ chức một cuộc truy lùng bọn chúng tới tận sào huyệt. Rõ ràng là bọn này được hưởng sự tiếp tay ngay trong hàng ngũ bọn quan cai trị tỉnh. Trong suốt một đoạn đường, Hoàng thân phác họa trong đầu bản báo cáo chi tiết mà ngay sau khi tới nơi, ông sẽ gửi cho bạn ông, ông Dương, tổng trấn kinh đô và nhờ đó ông tìm lại được chút thanh thản trong lòng.
Khoảng giữa trưa, đoàn người dừng lại trong một cái quán nghèo, không xa một con sông. Bà chủ quán, một bà góa già, miệng móm, chưa từng tiếp đón những vị khách như thế nên không ngừng xin lỗi.
Trong khi chờ cơm chín, Hoàng thân và gia đình ngồi lên chõng tre ọp ẹp của gian nhà ngoài và các lính gác ngồi chen chúc dưới mái hiên. Cơn giông sắp đến. Vì Trãi kể lại cho ông ngoại cậu tất cả những gì đã làm cậu ngạc nhiên suốt cuộc hành trình nên Hoàng thân giảng giải đôi chút cho cậu hiểu.
Bên kia bức phên mắt cáo, trong gian nhà trong, có tiếng người khóc nức nở. Vừa bận rộn với việc tiếp xúc, bà chủ quán vừa thì thầm điều gì đó với người ấy, tiếng bà ta lên xuống từng hồi càng lúc càng nhanh. Thình lình, một tiếng than buột ra, tiếng khóc im bặt, sau đó là im lặng. Một tia chớp vạch ngoằn ngoèo trên bầu trời tiếp đó là tiếng sấm đầu tiên. Mưa bắt đầu rơi khi bà chủ quán đem chén bát ra cùng với nồi cơm bốc hơi.
Đoàn người lại lên đường. Cơn giông vừa mới ngớt nhưng Hoàng thân muốn đến Côn Sơn trước khi trời tối.
Họ sắp sửa vượt qua chiếc cầu tre thì đội trưởng lính canh là người mở đường dừng ngay ngựa lại chỉ xuống dòng sông ngập lũ. Một người đàn bà vừa mới gieo mình xuống nước. Đội trưởng hét vang ra lệnh cho thuộc hạ cứu ngay người đàn bà. Dòng nước cuốn người đàn bà, mái tóc rối tung nổi trên mặt nước kế đó biến mất trong vùng nước xoáy. Chỉ có một bàn tay còn trồi lên.
Một anh lính gác tên Phụng nhanh nhẹn hơn đồng bọn đã nắm được bàn tay ấy và kéo người đàn bà tuyệt vọng lên bờ. Đó là một người đàn bà còn trẻ, chân tay và khuôn mặt với đôi mắt khép kín rám nắng bởi công việc đồng áng. Quần áo rách rưới nhiều chỗ cho thấy nước da trắng xanh ở trong và ở cặp vú nở nang với đầu vú săn lại vì dầm nước. Các lính gác đứng đó chỉ biết lúng túng đứng nhìn cô gái chưa biết tính sao thì bà hoàng và các bà vợ khác đã nhanh nhẹn đẩy họ ra.
Một người xoa bóp, một người gọi vào lỗ tai, người thứ ba lấy trâm cạy miệng, người thứ tư thì chạy về phía bà chủ quán đang đi tới mang bột đậu tằm dại đã đốt cháy để bỏ vào mũi cho nạn nhân hắt hơi, còn người thứ năm thì ấn thật mạnh vào bao tử, người thiếu nữ liền nôn ra chút nước có lẫn cỏ rồi mở mắt.
Nhìn thấy những bà ăn mặc sang trọng xúm xung quanh mình để săn sóc, người đàn bà trẻ cứ ngỡ đây là những vị nữ thần nơi thủy cung.
- Thà sống trong cõi mây nước này - thiếu nữ thì thào - còn hơn sống ở cõi trần mà tôi vừa từ bỏ.
Khi người ta đưa thiếu phụ ấy vào quán và làm cho hồi sức, mặc quần áo khô vào, Hoàng thân cho ngồi ở gian ngoài và hỏi nguyên do của hành động đó.
- Kính thưa cụ lớn - nàng nói - tôi tên là Kiều Oanh ở làng Ngọc Kiệu. Chồng tôi đi lính chết ở phương Nam đã hai năm nay. Tôi cày thuê hai mẫu ruộng cho địa chủ nhưng hắn đã lấy hết lúa thóc của tôi. Mẹ tôi vừa mới chết và tôi không có một đồng mua quan tài. Như thế tôi sống nữa để làm gì? - Nói xong, thiếu phụ lăn ra đất gào khóc to đến nỗi khạc ra máu.
Hoàng thân cảm thấy rất đau lòng. Ông gọi một bà thứ thiếp bắt thiếu phụ còn đang khóc nức nở uống một bát nước trà.
- Cô còn trẻ - ông nói - không phải là lúc nghĩ đến cái chết. Đây là năm quan tiền28 để cô nhớ đến cuộc gặp gỡ hôm nay, không có gì quan trọng hơn là việc lo đám tang cho bà cụ. Cô hãy nói với láng giềng chắc chắn họ sẽ giúp đỡ cho. Đừng chậm trễ trong việc thu xếp công việc. Thôi, cô về nhanh đi.
Kiều Oanh sụp lạy, nhận tiền, mủi lòng nước mắt giàn giụa trên đôi má. Bà chủ quán chạy theo cô trên đường về:
- Nếu không có cái quán của tôi - bà nói với cô - hành động của cô chẳng được ích gì.
Nghe những lời ấy, Kiều Oanh đưa cho mụ ba tiền29
- Tôi không thể đưa bà nhiều hơn. Tôi phải trả tiền quan tài, nhang, lễ vật cho nhà sư và chi phí cho bữa cỗ đám ma.
Nhanh như trở bàn tay, mụ nhét ba tiền vào ruột tượng thắt lưng.
- Cô đã hỏi quý danh của vị ân nhân đã giúp cô chưa?
Đoàn người đã vượt qua cầu lúc người thiếu phụ đuổi theo kịp họ.
- Tên ta? - Hoàng thân mỉm cười nói. - Ta là Trần Nguyên Đán người làng Côn Sơn. Sao lại để mất thời gian của cô một cách vô ích thế?
- Từ nay, tôi sẽ ghi tâm khắc cốt món nợ nghĩa ân đối với ngài.
Khi cô đứng dậy, người ta đã khiêng kiệu của Hoàng thân đi rồi. Đứng thẳng bên vệ đường, cô nắm chặt tiền, nhìn đoàn người theo nhau đi qua. Anh lính gác Phụng đi sau cùng, khi đi qua đã trao cho cô một nụ cười mỉm màu hạt huyền, hãnh diện khoe cô hàm răng đen nhánh mà mỗi năm anh đều nhuộm lại. Cái thói đỏm dáng của Phụng chỉ làm cho các bạn lính của anh chế giễu.
Một người bạn anh lấy cùi chỏ đẩy anh:
- Ôi chà! Con mẹ chết trôi sông xem được đấy, mày đã thấy vú con mẹ ấy phải không? Nếu y thị làm mồi cho cá thì uổng thật.
Phụng vừa đi vừa ngoái lại. Từ xa, cô ta giống như một cây cỏ cao lớn phất phơ ở vệ đường. Nhớ đến cặp đùi mềm mại của cô đụng vào cặp đùi anh trong dòng nước xô đẩy, anh cảm thấy toàn thân rạo rực như một dòng nhựa bất ngờ trỗi dậy dồn lên cặp má nóng bừng của anh và làm anh như mờ luôn cả mắt. "Cô em, chờ anh nhé. Anh sẽ trở lại".
Cơn giông đã làm cho bầu trời quang đãng, rửa sạch bùn lưng đàn trâu, đánh bóng mặt nước các ao hồ, đưa các đồi núi hoang sơ lại gần nhau hơn. Đoàn người đi giữa những cành lá chuối, lá cau còn đọng nước long lanh như ngọc, tiến lên trên con đường lầy lội. Mưa đã tạnh hẳn. Và thật lạ lùng, vào giờ Mùi30 này, ánh sáng làm cho bóng các nông dân trên bờ đê, những túp lều và giậu tre nhuộm một màu nâu nhạt dường như không phải đến từ bầu trời mà lóe sáng từ mặt đất xuyên qua vô số tấm gương phản chiếu của ao hồ bao quanh các thửa ruộng.
Đoàn người đã biến mất sau khúc quanh, Kiều Oanh mới hoàn hồn. Cô vừa tự hỏi làm sao trên đời này lại có một ông quan sẵn sàng giúp đỡ người khác như cô vừa mới gặp, vừa chạy vội về làng báo tin mừng cho người cha già còn đang khóc nức nở bên cạnh xác mẹ cô.
Suốt đường về, cô cứ sờ vào ruột lượng nơi để gia tài mới có của mình. Năm quan, vị chi ba ngàn đồng? Cả một cuộc đời lao nhọc, cô cũng chưa kiếm được ngần ấy! Cô như còn nghe tiếng nói chua chát của tên địa chủ: "Cảnh cáo cho mày nhớ! Nếu mày làm to chuyện, tao sẽ giao ruộng cho người khác và nếu cha con mày chết đói, thì không phải lỗi tại tao!". Giờ đây cô có đủ phương tiện để mua đất và cả một con trâu để kéo cày. Đầy tớ của lý trưởng sẽ không còn xông vào nhà cô, giơ cao roi mây sẵn sàng đánh đập cô. Tiếng trống thúc dân làng đi đóng thuế sẽ làm cô dửng dưng. Cô sẽ cử hành đám tang lớn cho mẹ cô và mua sẵn cho cha cô một chiếc quan tài đẹp bằng gỗ dổi và đặt nó ở vị trí trang trọng bên dưới bàn thờ tổ tiên, kê trên những hòn đá để tránh hơi ẩm ướt... Như để thêm xác tín rằng tất cả đều là sự thật, cô mải mê sờ vào ruột tượng căng phồng trước bụng như người mang bầu chín tháng.
Trong khi cô đi xa về hướng Tây, trong lòng tin chắc số phận hẩm hiu của cô đã chìm theo dòng nước, thì Hoàng thân và đoàn tùy tùng đi xa dần về hướng Đông cũng nghĩ về cô mỗi người theo cách nghĩ riêng mình. Trãi đã nghe cô khóc sau bức phên mắt cáo, tự nhủ rằng cô đã để lỡ một dịp may được đích thân hầu tước Bạch Long cứu sống, Hoàng thân thán phục lòng hiếu thảo của cô, vừa đi vừa nghĩ đến cô ta, nghĩ đến một đóa hoa nhỏ đã được gieo trồng cho kiếp lai sinh, các bà thứ thiếp của Hoàng thân ít ra lần này thấy bằng lòng với số phận của mình nếu đem so sánh với số phận của cô ta, các bà vuốt ve tà áo dài bằng lụa thêu hoa của họ, tấm tắc khen: "Ôi tuyệt vời!", còn bà hoàng khi nghĩ đến nỗi tuyệt vọng và quần áo rách rưới của cô thì thở dài nói: "Tội nghiệp!", những người theo hộ tống đang lội bì bõm trong bùn cứ tiếc hùi hụi bộ ngực tuyệt vời của cô và trong đầu của anh chàng Phụng đã quay cuồng ý tưởng về cuộc gặp gỡ tiền định...
Khi ngày bắt đầu tàn, con đường bắt đầu lên dốc và xuống dốc giữa những hàng thông. Họ đã đến vùng đồi. Giữa những cành cây, người ta thấy lấp lánh sao trời, một làn gió mát thơm mùi nhựa thông thoảng qua. Cảm động trước vẻ đẹp thanh tịnh của phong cảnh quê hương, Hoàng thân đã làm trong lúc đi đường một bài thơ tám chữ lấy đề tài "Trên cáng trở về Côn Sơn".
Đêm đã xuống khi họ đến nơi nhưng bầu trời hãy còn trong sáng. Đàn dơi săn muỗi trong bầu trời. Hàng trăm con dế nép mình trong bóng tối hát ca. Họ băng qua làng nằm bên phải con đường nơi có tiếng chó sủa vang, đi lên một đoạn đường dốc rộng, rải cát hướng về ngôi nhà của Hoàng thân ở cạnh chùa.
Khi họ vượt qua tấm biển đá chỉ khu vực của gia trang, họ nhìn thấy một người như một ông tiên da ngăm đen, râu bạc trắng, cao gần năm thước ta tiến về phía họ dưới những hàng cây, tay cầm đuốc.
Hoàng thân lập tức truyền lệnh cho những người khiêng cáng dừng lại và xuống cáng đi bộ đến gặp người ấy.
- Atangana? Ông vui mừng kêu lên, giọng khàn đi vì xúc động.
Người lạ mặt giơ cao ngọn đuốc, cúi chào ba lần.
- Hoàng thân - người lạ mặt hỏi, tay để lên ngực - lòng tôi thật vui mừng khi gặp lại ngài. Tôi vui sướng được là người đầu tiên đón chào ngài trở về quê hương của ngài.
Cách đó vài bước, Trãi say sưa nhìn ông lão quấn quanh mình một chiếc áo trắng đã đem lại cho ông ngoại cậu niềm hân hoan trong giây phút gặp nhau. Ánh lửa soi lên phân nửa khuôn mặt hốc hác màu nâu đen. Trong cái nhìn đầy dịu dàng lóe lên một tia lửa kỳ lạ dường như muốn xâu xé nội tâm cậu.
Bộ râu trắng tinh dài đến thắt lưng. Một tay ông cầm đuốc, còn tay kia cầm chiếc gậy phía trên chạm trổ một đầu rắn. Dáng người cao của ông lão nghiêng về phía Hoàng thân, một nụ cười để lộ hàm răng trắng của người nước ngoài. Người ta hẳn phải nói rằng đấy không phải là một người nhưng là một vị thần hiện đến.
- Đây là Trãi, cháu ngoại tôi - Hoàng thân nói - Cháu đến sống với chúng tôi ở đây.
Nhiều năm sẽ trôi qua, nhưng không bao giờ Trãi quên được giây phút đầu tiên mà ông lão Atangana đã thu hút cậu bằng cái nhìn của lão trong đêm nóng bỏng ấy.
[←29]
Một tiền bằng 60 đồng
[←30]
13-15 giờ chiều
[←31]
A-la-hán: bậc tu tài sắp sửa đạt đến giai đoạn giải thoát và nhập Niết bàn.