Chương 2
Gia đình Hoàng thân Trần Nguyên Đán vừa mới đến ở Côn Sơn và đoàn tùy tùng lãnh trách nhiệm đưa thư cho Trọng trấn ở kinh đô vừa mới lên đường thì một đêm kia, Hoàng thân mơ thấy một giấc mơ kỳ lạ:
…Ông thấy mình được đưa đến Thăng Long, vào một lễ đường lớn của cung Thiên An. "Làm thế nào mà ta còn dự họp ở đây, ông tự nhủ, ta đã chẳng từ nhiệm và lui về Côn Sơn sao?".
Ông tìm trong đám quần thần một khuôn mặt quen biết và ông phải chú ý đến một ông quan nhất phẩm mặc phẩm phục đỏ thẫm một mình tiến về phía ngai vàng. Ông suýt kêu lên: vị quan lớn ấy chính là Trãi cháu ngoại ông, một Nguyễn Trãi hầu như cũng già và mệt mỏi như ông.
"Một việc như thế có thể có thật không?". Ông rụng rời tự hỏi, đưa mắt nhìn quanh. Mọi người đều nhìn lên bệ ngọc, ở đó thay vì Đức Vua trị vì Trần Phế Đế, có một ông vua tuổi rất trẻ, nhiều lắm là mười sáu tuổi ngồi trên ngai. Lại thêm một màn lừa bịp của Lê Quý Ly, Hoàng thân nghĩ thế khi nhìn thấy cậu thiếu niên xa lạ mặc áo hoàng bào giơ cao một cây gậy lớn bằng nắm tay trơn loáng như vừa được phết bằng một thứ dầu bóng mới tinh.
Không phải là một cây gậy. Vị đại thần vừa mới cất lời thì con rắn, đúng là một con rắn trong bàn tay nhà vua, ngóc đầu và rít lên.
Từ đám quần thần nổi lên một tiếng xì xào chống đối.
Đúng lúc đó, đằng sau trướng gấm xuất hiện một thiếu phụ đẹp tuyệt trần vừa bước đi một cách duyên dáng vừa ngâm những câu thơ mà Hoàng thân chưa từng nghe thấy bao giờ, ông cũng lấy làm thích thú.
Nàng đến cung kính cúi chào vị đại quan thì Đức Vua trẻ tuổi gọi nàng lại gần mình và nắm tay nàng trước mắt mọi người rồi ghì chặt nàng vào lòng một cách khiếm nhã. Khi nhà vua buông nàng ra, con rắn chết cứng rơi xuống chân ngài.
- Phạm thượng, chúng mày đã giết Hoàng thượng! - Triều đình sục sôi thù hận hét lên. - Giết chúng nó! Giết chúng nó đi!
Vị quan giống Nguyễn Trãi và người thiếu phụ lùi lại.
- Các khanh hãy bắt chúng lại!
Đức vua ném thanh gươm xuống đất, đó là cử chỉ tuyên án tử hình.
Thanh gươm rơi, tiếng kim khí va chạm trên nền nhà làm Hoàng thân tỉnh dậy. Ông nhìn xung quanh mình rồi ngả đầu trên chiếu gối bằng sứ. Ông vẫn ở Côn Sơn và đó chỉ là một giấc mơ, như giấc mộng Nam Kha. Sau đó một lát, ông thiu ngủ và giấc mơ lại tiếp tục.
... Người ta đã trói vị đại thần và thiếu phụ xinh đẹp quay lưng vào nhau, lính gác chuẩn bị dẫn họ đi. Hoàng thân rẽ đám quần thần, quỳ gối giập đầu xuống đất xin Đức Vua tha thứ cho họ. Trên khuôn mặt của Nguyễn Trãi không biểu lộ chút hy vọng nào, chỉ có nét nghiêm trọng xót xa mà Hoàng thân đã từng biết.
Vị vua trẻ, con rắn chết trong tay, nhìn ông bằng đôi mắt của một đứa trẻ thích hưởng lạc rồi trả lời Hoàng thân với một nụ cười mỉm khó hiểu.
- Làm thế nào mà ta có thể tha cho họ sống khi mà ý trời từ muôn đời đã định số phận họ? Và làm thế nào mà ông dám liều lĩnh biện hộ cho những kẻ phản bội ấy nếu chính ông không là kẻ phản bội hoàng tộc của ta?
- Nhưng tôi chẳng biết Ngài! - Hoàng thân kêu lên biết chắc mình phải trả giá những lời ấy bằng mạng sống. - Gia tộc của Ngài không phải là gia tộc họ Trần mà tôi đang phục vụ. Vậy chứ gia tộc của Ngài thật ra họ gì? Gia tộc Ngài họ gì? - Hoàng thân thì thầm...
Ông bừng tỉnh dậy. Trời đã rạng sáng. Gà ở quanh vùng cất tiếng gáy, ông đang ở trong phòng.
Những cảm tưởng khuây khỏa đầu tiên đã qua rồi, giấc mơ ấy đè nặng trong lòng Hoàng thân nên ông đi tìm người bạn Atangana để nhờ ông ta giải đoán, vì ông này đã đọc cuốn giải mộng.
Trong gian phòng nhỏ sau chùa, vị ẩn tu đang uống trà buổi sáng.
- Giấc mơ này - nhà sư Atangana đáp - sau khi đã lắng nghe một hồi lâu, chắc chắn ám chỉ đến những biến cố mà cả ông và tôi trong cuộc đời này sẽ không biết tới. Một ông vua sẽ chết trong tuổi thanh xuân và tội lụy sẽ giáng xuống đầu một vài người. Nhưng bậc hiền giả, như lời Đức Thế Tôn, không sợ nguy hiểm, sự sống và chết không làm họ bận tâm, chúng không liên can đến họ. Tốt nhất là chúng ta có thể gieo ít nhiều mầm thiện và gặt hái công trạng trong tương lai. Vậy ông hãy tìm nơi trú ẩn của một con rắn và dâng cho nó những lễ vật để làm nguôi lòng nó. Ông hãy dựng cho nó một cái miếu để con cháu ông duy trì mãi việc cúng nó về sau. Ông bạn Hoàng thân, ông không thể làm gì hơn thế.
Lời của Atangana thấm vào cõi lòng vốn đã xao xuyến của ông hoàng, ông này không dám hỏi thêm nữa. Nhà ẩn tu luôn nhìn thấy xa và thấy đúng. Tuy nhiên ông chỉ nói những gì ông muốn và sau đó ông chìm trong im lặng hoàn toàn đến nỗi ông như không còn có mặt nữa. Cũng lúc đó, Hoàng thân không còn nhìn thấy gì ngoài vùng trắng sáng rộng lớn của bộ râu, nhà sư Atangana như thể đã biến mất đằng sau đó.
Khi đi ngang sân chùa, Hoàng thân gặp Đạo, người thủ từ đang quét lá cây hoa đại mà ông đã cho trồng nhiều năm trước đây.
- Tướng công có thích ngắm những cây mà ngài đã trồng không?
Thật vậy, những cây ấy đã lớn, cành cây cân đối hài hòa, lá rộng và bóng, hoa vàng nhạt tỏa ngát hương trời. Hoàng thân cảm thấy thanh thản, những nét nhăn trên khuôn mặt đã thư giãn, chợt ông nhìn thấy thân cây nổi cuộn lên như con rắn, ông lại sa sầm nét mặt.
- Tốt lắm! Tốt lắm!
Ông vội vã rời chân.
Bà hoàng đang cài chiếc trâm dài bằng bạc lên búi tóc, hộp trang sức mở ra trước mặt bà. Hoàng thân đặt một tay lên vai bà làm bà ngước mắt lên.
- Phu quân sáng nay có khỏe không? Ông đã dùng thang "Bát vị" rồi chứ?
Bà lấy bình trà từ trong cái giỏ nhồi bông để giữ nóng, rót nước mời ông.
Trong lúc đó, Hoàng thân mân mê với vẻ lơ đãng những hộp dầu thoa và hộp phấn, khuôn mặt tư lự. Ông cầm lấy chén trà uống nhưng trái với lệ thường, không một lời khen cái hương vị thanh khiết của trà. Mùi hương này có được là do một bí quyết tinh chế của bà hoàng. Bà đặt một túi trà nhỏ vào một cái hoa sen sắp sửa khép cánh lúc chiều tối và túi trà sẽ được ướp hương suốt đêm.
Tươi cười và niềm nở, bà chờ cho đến lúc ông chịu cất lời. Nếu trong quan hệ hằng ngày, họ phải tuân thủ một thứ cách biệt nào đó theo luân lý Khổng Mạnh, thì hai mươi lăm năm sống chung đã kết hợp họ một cách sâu xa và họ chỉ có một ước nguyện là sẽ còn là vợ chồng bên nhau trong những kiếp sau này.
- Này, chuyện thằng Trãi, về thằng Trãi đó và những lời tiên tri của lão chiêm tinh - Hoàng thân buột miệng hỏi - có thật bà đã kể hết chưa? Bà không giấu giếm điều gì chứ? - Cái nhìn như ra lệnh của người chồng không cho bà hoàng một lối thoát nào cả. Có làm bộ ngạc nhiên hay tức giận cũng vô ích: ông biết bà quá rõ.
- Gia đình mình lúc nào cũng hòa thuận và tin cậy nhau. Nếu tôi đã im lặng về những lời tiên đoán khốc hại, chỉ vì muốn tránh đỡ cho ông thôi, xin ông vui lòng tha thứ cho tôi.
Rồi bà kể lại cho ông nghe việc lão thầy bói đã thấy được sự xung chiếu của hai sao không vào tứ hung tinh giữa những hội tụ huy hoàng nhất. "Sống chết đều do số mệnh", bà hoàng nói tiếp, "ích lợi gì mà ông tự dằn vặt mình và tại sao hôm nay ông mới hỏi tôi?"
Đến đây, Hoàng thân kể lại chi tiết giấc mơ của ông và cuộc nói chuyện buổi sáng với ẩn sĩ Atangana. Họ nắm tay nhau, cùng để cho nỗi đau buồn tràn ngập. Nhưng bà hoàng vốn có tình yêu thương của một phụ nữ mạnh mẽ và can đảm.
- Theo ý hèn mọn của tôi - bà nói với Hoàng thân sau khi họ đã cùng nhau rơi lệ - bởi vì con rắn đã hiện ra với ông dưới bộ mặt giận dữ nên ông cần phải làm cho nó nguôi giận, và theo đúng những lời khuyên bảo khôn ngoan của vị ẩn sĩ bạn ông, về phần đứa bé, từ lúc nó mới sinh ra, Trời đã giao nó cho ông, vậy vai trò của ông là chuẩn bị cho số phận của nó, dù có vĩ đại và đau đớn đến đâu, và tôi sẽ giúp ông với những phương tiện nhỏ mọn của tôi. Tôi e rằng sứ mạng của ông chỉ giới hạn ở đó mà thôi.
Bà hoàng nói lời đúng đắn ấy với sự cương quyết dịu dàng, đã thuyết phục được Hoàng thân và làm tăng lên lòng quý trọng của ông đối với bà.
- Sự thông minh của bà có thể sánh ngang với sự thông minh của phu nhân nước Quắc đời nhà Đường, ở giữa những thăng trầm của thời gian, tôi vui mừng vì lúc nào cũng có thể cậy dựa vào một người vợ như bà.
Nói xong, ông đi ra.
Bây giờ ông biết rằng ông còn phải làm gì, thế là Hoàng thân quyết định không hoãn lại dù một phút dự định của ông. Ông cho gọi bác Phan, ra lệnh cho bác lập tức đi tìm một con rắn đang ở quanh vùng này, và cần đến sự giúp đỡ nào cũng được tự tiện huy động.
- Nhưng bác chớ đụng đến nó - Hoàng thân nói với bác Phan - và bác về báo cho tôi biết ngay.
Người lão bộc ngủ dưới chân giường của Hoàng thân và đã nghe Hoàng thân nói mơ và cựa quậy trong giấc mơ. Bác không chút nghi ngờ và coi đây như một lời nguyện thiêng liêng, quả thật không ai là không biết quyền lực mà loài rắn nắm giữ trên cái sống và cái chết. Trước khi mặt trời lặn, bác trở lại báo tin cho chủ mình việc bác đã tìm ra con rắn.
Con rắn ở cách nhà một khoảng xa dưới chân đồi, một nơi có đất đá sụt lở thành những hình thù kỳ dị nên không lạ gì mà có kẻ đến thắp hương ở đó. Một con rắn chọn nơi đó làm hang ổ, nhiều gia nhân kể cả Đạo, người thủ từ, đều xác nhận điều ấy. Dù sao đi nữa Hoàng thân không muốn để sơ suất một điều gì, ông đích thân đến đó vào lúc hoàng hôn, một cây đèn lồng giấu trong gấu áo và ông chờ đợi.
Đêm tối ấm áp, một làn gió nhẹ ngát hương hoa đại lượn lờ trên đầu cành tre. Tiếng quốc rỉ rả trên mặt ao ở đằng xa dưới ánh trăng và tiếng suối róc rách trên đồi. Dưới kia về hướng đông vươn lên trên khối màu sẫm của ngôi chùa những đường gờ cong lên như những ngón tay. Bối rối, Hoàng thân hầu như quên rằng tại sao mình lại ở đây, nên ông tìm lại được sự thanh bình, êm ả vẫn thường đến với ông thời thơ ấu, mỗi lúc đêm về…
Một tiếng chân bước nhẹ giống bước chân của Thái, con gái ông khi nàng băng qua khu vườn để đến gặp ông và Phi Khanh, làm ông quay lại và nhìn vào bóng đêm quan sát.
- Ông ngoại ơi, ông ngoại đừng la rầy cháu và cho phép cháu được ở lại đây với ông ngoại.
Giờ phút này, sự có mặt của Trãi dường như lại là một điềm nữa đối với Hoàng thân. Ông không thể nói được gì.
- Ông ngoại! - Cậu bé lại gọi tiếp trong bóng tối.
Giọng nói của cậu không có chút gì sợ hãi thường gặp nơi những đứa trẻ cùng tuổi sợ bóng đêm và những nơi vắng vẻ, nhưng chỉ để dò hỏi: "Ông ngoại!". Trãi lặp lại mà không kêu to, không biểu lộ một sự sợ hãi nào khi bàn tay của Hoàng thân nắm lấy cậu và ôm chặt cậu sát vào mình.
- Cháu im đi! - Hoàng thân vừa nói thì thầm, vừa đưa chiếc đèn lồng ra khỏi một phần ống tay áo, một vùng ánh sáng tỏa ra trên mặt đất.
Trong nháy mắt, một hình thể ngoằn ngoèo lóe sáng trườn đi mất giữa những tảng đá.
- Giờ ta về thôi - Hoàng thân nói.
Ông cầm cái đèn giơ lên để soi đường.
Ngay ngày hôm sau, Hoàng thân cho gọi một ông thợ mộc trong làng và sau không đầy một tuần, trước sự có mặt của nhà sư tay mang gậy sắt, với những người đánh trống và những kẻ mang đồ khí tự và lễ vật cúng đường, ngôi miếu đã được khánh thành trọng thể dưới chân đồi.
Sau khi tắm rửa để thanh tẩy và ăn chay trong ba ngày, Hoàng thân cầm bút viết một văn kiện giải thích lý do của lời nguyền đó, định ngày lễ cúng hàng năm là ngày mười tám tháng bảy - ghi nhớ lại hàng năm ngày ông nằm mộng - và ra lệnh cho các người thừa kế và con cháu ông phải giữ việc cúng kiến, với công thức trọng đại là: "Hãy tôn trọng tuân giữ lời ta".
Khi nghi lễ ấy cho phép xóa bỏ hay làm nhẹ bớt sự cầm cố đang đè nặng trên số phận của đứa cháu ngoại đã kết thúc, Hoàng thân vẫn chưa cảm thấy bình tâm bởi vì ông còn phải lo lắng với vai trò nhà giáo từ nay ông phải tự mình đảm nhiệm lấy. Ông đã trải qua rừng nho biển thánh, đã trình lên chính Đức Vua những lời khuyên, chỉ huy nhiều người trong sự nghiệp lâu dài của ông, tuy nhiên ông cứ băn khoăn trước ước mơ nồng nhiệt muốn tôi luyện tính tình của cậu bé, đem lại cho nó ánh sáng tri thức và chuẩn bị cho nó biết "tố phú quý hành hồ phú quý, tố hoạn nạn hành hồ hoạn nạn".
Một buổi sáng, nghiêng người trên nhà thủy tạ thô sơ, ông ngắm những đóa hoa sen trong ao. Ông nhớ đến hai câu thơ, một của Sử Hy Nhan, một của Đào Sư Tích, cả hai đều khẳng định niềm tin vào con người. Vậy nếu, như Đào Sư Tích đã nghĩ, không phải Trời mà là con người quyết định, nếu không phải điềm triệu nhưng đức hạnh lớn lao mới là quyết định. Vậy thì đức hạnh dựa vào đâu nếu không phải là tình yêu quê hương? Trãi cần có một quê hương của tuổi thơ và đó phải là đất Côn Sơn! Một nơi trú ẩn, đó sẽ là Côn Sơn! Một sức mạnh đầu tiên, đó là niềm vui của con người!
Cùng ngày hôm ấy, bài học đầu tiên có vẻ vui tươi như một cuộc dạo chơi. Hoàng thân dẫn Trãi đi để cậu làm quen với ngọn suối trên sườn đồi sau nhà. Hai ông cháu leo lên con đường nhỏ hẹp đúng vào lúc gió nồm mát mẻ nâng những cành tre như những bàn tay vô hình. Họ bước vào vùng có tàn cây dày đặc đến nỗi họ không còn nhìn rõ phong cảnh dưới chân họ.
Mặc dù đường lên dốc, Hoàng thân nâng áo dài lên, bước đi lòng tràn ngập một niềm hoan hỉ lạ lùng, cái gậy của ông vang lên trên những viên đá lót đường như tiếng chiêng trong một đám rước. Sau nhiều năm sống trong triều đình, xa quê hương, việc dẫn đứa cháu ngoại thăm dòng suối trên đồi, đó phải chăng là một cách tìm lại chính mình, trong những năm tháng của tuổi thơ. Như thế, ông bước đi trên những vết chân của đứa nhỏ là ông ngày xưa trong khi một đứa nhỏ khác theo sau ông, đặt bước chân mình trên bước chân ông. Thỉnh thoảng Hoàng thân dừng lại, hít một mùi hương tưởng chừng như đã quên lãng, vò trong tay một lá cây đưa lên mũi ngửi hoặc dang đôi tay như thể tiếp nhận ngọn đồi trực tiếp từ tay Đức Phật ngay trong giây phút ấy. Bất chợt, ông thấy tất cả đã xa rồi, xa rồi những đinh phủ ở kinh đô với những hàng cột và những con rồng, những tượng các tiên ông và kỳ lân leo lên để tấn công, xa rồi Cấm Thành, xa rồi những ông quan mặc áo gấm, ngựa xe võng lọng, xa rồi những cuộc đua thuyền trên Hồ Tây, xa rồi những du thuyền và những đám rước ngự giá với những tên kép hát đi trước mở đường.
- Chúng ta gần đến nơi rồi - ông nói.
Quả vậy, Trãi cũng đã nghe tiếng nước chảy êm nhẹ và du dương lẫn trong tiếng gió thổi qua rừng tre. Lối đi ngoằn ngoèo, gần như vắt ngang trên sườn đồi, đụng vào một tảng đá lớn nằm nghiêng.
- Cháu coi chừng trượt ngã - Hoàng thân nói.
Với những bước đi thận trọng, họ leo xuống dọc theo tảng đá phẳng. Thấp hơn, dòng suối tuôn xuống nhẹ nhàng vào một vũng nước mà dòng suối đã đào trước khi tuôn đổ trên những viên đá tròn như trứng rùa, rồi len lỏi giữa những đám cỏ. Trãi đã xắn ống quần, đứng giữa suối, cố giữ trong lòng hai bàn tay dòng nước không thể nắm bắt được và cười vang.
Nhìn đứa cháu làm như thế, Hoàng thân cảm động nhớ lại chính ông ngày xưa cũng chạy nhảy, vọt từ hòn đá cuội này sang hòn đá cuội khác.
- Ông ngoại ơi! - Cậu bé giống như một sơn thần nhỏ tuổi - nước mát ơi là mát. Ông uống thử mà xem.
Ông hoàng mỉm cười từ chối. Cái nhìn của ông hướng về cậu bé đang vốc nước bằng hai bàn tay chụm lại, rồi từ từ hướng lên bầu trời đã ngả sang màu tím của buổi hoàng hôn, và cuối cùng nhìn xuống cánh rừng tre màu xanh và thấp hơn nữa là cánh đồng mà ông hoàn toàn thấy rõ từ trên cao.
Dưới chân đồi, ông nhận ra cái mái ba tầng lợp ngói của ngôi chùa. Đúng lúc đó, nhà sư người Ấn Độ Atangana băng qua sân sau lát đá với những bước chân dài trong dãy nhà phụ của Hoàng thân, một đứa tớ gái đang ngồi xổm nhặt rau, và xa hơn về hướng đông, bên kia rừng thông các bà thợ gặt đội nón lá đang gặt lúa mùa tháng tám. Thỉnh thoảng, gió đưa vọng lên một vài khúc ca của họ. Lưỡi liềm cầm tay, họ cúi người tiến dần lên, rồi lại vươn thẳng ném những bó lúa vào một chiếc thuyền nan thường theo sau đám thợ gặt khi ruộng có nhiều nước. Trên bờ đê, những con trâu sau một ngày kéo cày, đang lững thững, một vài con với đứa mục đồng vắt vẻo trên lưng. Đằng xa, phía bên kia ao hoa súng, đây đó những mái nhà trong làng nhô lên sau những lũy tre xanh và bụi chuối.
- Trãi! - Hoàng thân giúp cậu bé leo lên tảng đá bên cạnh mình - Trãi, về nước Đại Việt chúng ta cháu chỉ mới biết kinh đô và nhất là Cấm thành. Cháu hãy nhìn những mảnh ruộng đầy thợ gặt, những người câu cá trong đám cỏ cao rậm, ngôi làng sau lũy tre xanh và những ngôi mộ lẻ loi giữa các cánh đồng. Quê hương Việt của chúng ta đang ở dưới tầm mắt cháu, trong ngôi làng ấy, trong cây cỏ, đất đai, ao hồ, trong những con người đang lao động ấy. Cháu ạ, cháu hãy nhớ rằng - Hoàng thân nói với một giọng cảm động - khi cháu bưng một bát cơm đầy, cháu đừng bao giờ quên rằng những hạt gạo ấy quả là: "Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần" cháu ạ. - Ông âu yếm siết vai cậu bé - Sau này, dù cháu có là một ông quan vinh hiển hay bị khốn khổ sỉ nhục, cháu hãy luôn luôn hướng tâm hồn về ngọn núi cũ chốn quê xưa. Con đường của kẻ quyền thế đôi khi thường lắm nỗi thăng trầm, cháu hãy biết rằng tốt hơn hết là vui với tùng cúc ở chốn quê xưa. Cháu có hiểu không cháu?
- Vâng, thưa ông, cháu hiểu. - Trãi đáp, mặt nhìn về hướng hoàng hôn đang từ từ trải bức màn đêm trên cánh đồng.
Âm thanh dài và đơn điệu của tiếng chiêng báo hiệu ngày sắp tàn.
Mặc dù Trãi thích trở lại dòng suối để lội bì bõm, cậu cũng đã đến tuổi biết rằng có khía cạnh vui thú nhưng cũng có khía cạnh quan trọng hơn: đó là bổn phận. Vì thế cậu kính cẩn nghe những lời của ông ngoại cậu dù không phải đã hiểu hết hoàn toàn.
Là một người làm vườn giỏi, Hoàng thân vững lòng chờ đợi ở thời gian. Cũng như dòng nước đi theo những lối ngầm chậm chạp dưới đất để một ngày nào vọt lên mặt đất, như hạt giống cũng kiên nhẫn nẩy mầm để thành cây, biết bao ngày tháng tiếp nối trôi qua trước khi tới mùa gặt, trước khi kiến thức đạt được thắng lợi trong các kỳ thi, tài năng thể hiện dưới ngòi bút và trước khi Nguyễn Trãi bay trở về Côn Sơn trên đôi cánh của ước mơ?
Còn bây giờ thì Trãi cần tìm hiểu để biết rõ về quê mình hơn.
Sau những năm tháng chỉ biết có cánh đồng rộng lớn của châu thổ sông Nhị Hà, những mái nhà màu nâu của kinh đô chồng chất thẳng hàng, và những ngọn núi thực ra chỉ là những ngôi đền dựng lên trên những mô đất nhân tạo và những đường đắp duy nhất là các con đê, cậu sẽ khám phá vùng trung du với những ngọn đồi chập chùng, những tảng đá phủ rêu êm ả như những chiếc giường, những cây thông từng từng lớp lớp như trèo cao lên núi và những con đường quanh co xoắn ốc như ruột dê.
Nếu cậu không thả diều, hay đánh đu, tìm cách thoát khỏi đứa tớ gái lẽo đẽo theo hầu cậu, cậu chạy vào làng nghe tiếng thoi đưa dặt dìu trên khung cửi.
- Chào chú em!
Các cô gái vui vẻ đưa thoi. Họ xinh đẹp và vui vẻ, mái tóc và hàng mi xinh đẹp như hoa đượm mùi bông vải. Hoặc cậu đi dạo chơi chỗ này, chỗ nọ như ở nhà bác Phó, làm đồ gốm giữa những chồng chén bát, những chum vại, những chiếc tiểu sành để cải táng có lỗ ở xung quanh để như lời bác Phó nói: "Cho các vong linh giữ gìn xương cốt đi qua lại dễ dàng".
Khi chiều xuống trên rừng thông, cậu ngồi trên bậc tam cấp ngôi chùa, lắng nghe ông ngoại và sư cụ Atangana vừa đàm đạo vừa uống trà. Sư cụ Atangana uống rất nhiều trà. Hoàng thân thích nói rằng sư cụ giống tổ Bồ Đề Đạt Ma, mà trong các thiền viện ở Đại Việt tạc tượng với sắc diện một vị sư nghiêm khắc, có bộ râu cằm rậm, mắt sắc bén, hoàn toàn giống như đôi mắt của cụ Atangana. Một lần nọ, Trãi thắc mắc với ông ngoại tại sao vị ẩn tu bạn ông lại uống nhiều nước trà đến thế.
- Đó là vì những lông mi của Bồ Đề Đạt Ma - ông đáp, rồi khi nhận thấy sự tức giận của cậu bé, ông tiếp - không, ngoại không chế giễu đâu cháu ạ, truyền thuyết kể lại rằng để chống lại giấc ngủ cản trở việc thiền định. Bồ Đề Đạt Ma đã cắt lông mi ngài. Lông mi rơi xuống đất thành những lá chè. Từ ngày đó các nhà sư uống trà để khỏi ngủ quên trong giờ tọa thiền.
Atangana hết sức trung thành với cổ tục ấy.
Trong bóng tối, tiếng hai người đàm đạo êm dịu và cậu bé lắng nghe họ như lắng nghe dòng suối trên đồi cao hay tiếng vi vu của gió trong đám lau sậy.
Từ thiền viện xa xôi, cụ Atangana đã đến Côn Sơn tìm Hoàng thân sau kỳ an cư kiết hạ, chả là ba năm về trước, cụ đã ước hẹn với Hoàng thân khi ông còn ở Thăng Long: cụ không thể ở lại lâu ngày. Chẳng bao lâu nữa, cụ sẽ xuôi về vùng núi Thanh Hóa và sống đời ẩn sĩ trong một lều cỏ theo ý nguyện của mình. Ngồi trên chiếu, trước bình trà mà bác Phan đã rót đầy bốn lần, hai người vẫn chưa nghĩ đến phút chia tay.
Vì cả hai im lặng một lúc lâu trong một cuộc đối thoại không lời, Trãi say sưa vặt lá một cành để làm thành một thanh gươm, ngước mắt lên nhìn họ. Từ ngày sống với ông ngoại, cậu đã mau lẹ khép mình vào thứ kỷ luật này là biết coi trọng sự im lặng của ông cụ. Những ngọn đèn thắp bằng nhựa thông đặt ở nơi này và nơi kia soi sáng khuôn mặt thanh thản của họ.
- Trong những đêm êm dịu như vầy - sau cùng Hoàng thân nói - làm thế nào mà ta lại không ngâm những câu thơ của sư Huyền Quang:
Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha
Sơn vũ tiêu nhiên chuẩm lục la
Dĩ hỷ thành thiền tâm nhất phiến
Cùng thanh tức tức thuỳ đa
(Sơn Vũ)
(Gió thu khuya khoắt thoảng hiên ngoài
Quạnh quẽ nhà non lấy suối gai
Thôi đã theo Thiền lòng lặng tắt
Nỉ non tiếng dế vẫn vì ai?)
Tiếng lá xào xạc hòa với những lời ngâm du dương dần dần lặng tắt.
- Tĩnh lặng biết bao - một lúc sau Hoàng thân lại nói - Nhờ có sự tĩnh lặng ấy mà từ nay ta mới biết rằng mình đang ở đất Côn Sơn, xa những tiếng ồn ào và sự rối loạn ô trọc của Triều đình. Là một ông quan, lẽ ra ta phải cảm thấy mình bị tước đoạt. Trái lại giờ đây ta say sưa như con chim thoát khỏi lồng. Bạn Atangana của tôi, ông đã đi qua nhiều xứ sở và là một vị A-la-hán31, vậy theo ông chân lý ở chỗ nào, ở Thăng Long hay ở Côn Sơn?
Cụ Atangana nhìn Hoàng thân bằng đôi đồng tử sáng như tấm gương phẳng lặng.
- Chân lý không ở Thăng Long cũng không ở Côn Sơn - sau cùng vị ẩn sĩ nói - Nó ở trong lòng ông và ở chỗ nào mà ông chấm dứt sự vô minh về bản thân mình. Nhưng, trách nhiệm của ông với tư cách một vị đại thần vẫn còn ở rất gần bên ông nên ông chưa thể buông bỏ hoàn toàn và chuyên tâm thiền định. Nếu ông vì tình bạn cho phép tôi so sánh, thì cuộc sống ở Thăng Long của ông giống như những cuộc sống trong các tiền kiếp của ông. Tâm hồn ông vẫn chưa thoát khỏi chúng. Ông không hề biết điều ông tìm kiếm và do đó ông không hề biết ông là gì, bởi vì ông không biết điều gì đã che khuất không cho phép ông nhận ra được chính mình ông. Hoàng thân ạ, hãy bắt đầu chiêm ngắm vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảnh cô tịch của đất Côn Sơn mà giải trừ hậu quả của những hành vi kiếp trước. Ông hãy dùng trực giác để hiểu thấu Đạo một cách trực tiếp ông biết đấy, đó là giáo huấn căn bản của Thiền học.
Sự im lặng trở lại xung quanh họ nhưng không phải ở giữa họ. Tiếng dế kêu trong những câu thơ của Huyền Quang lúc nãy, vẫn còn rỉ rả đâu đây trong bụi cỏ dưới màn đêm.
Hoàng thân ngẩng đầu lên nhớ lại lần đầu tiên ông tiếp xúc với phương pháp "Công án" đã nhiều năm về trước. Khi ông hỏi Phật tính là gì, lúc đó sư Atangana đã đáp lại bằng một câu trả lời kỳ cục: "Cây đa trong vườn". Ông cần phải được đáp lại bằng đôi ba câu trả lời lạ lùng không ăn nhập gì với câu hỏi được đưa ra trước khi hiểu rằng đó là phương pháp các thiền sư thường dùng để đưa trí tuệ của người đệ tử đi đến chỗ xoá bỏ hết mọi thứ tư biện do bên ngoài đưa đến và tập họ quen dần với sự trầm tư tự phát và hồn nhiên, đưa tới phút đốn ngộ. Đôi khi thiền sư có thể đánh đệ tử hoặc la hét, chỉ trỏ một đồ vật để tạo nên một sự đột khởi. Hoàng thân cầm lấy ấm trà như một cái máy vô hồn và rót đầy những cái bát.
- Tôi cảm thấy tư tưởng của ông đã dẫn ông rời xa khỏi nơi đây rất xa. - Cụ Atangana nói.
- Với thầy thì rất xa.
- Để trở lại vấn đề của ông - cụ Atangana nói sau khi đã hớp một ngụm trà - đấy là vấn đề của một người ở trong nước này bị giằng co giữa trách nhiệm gánh vác việc chung, nghĩa vụ đối với người khác và ước muốn sống cuộc đời cô tịch.
- Vì dao động giữa những niềm vui của cuộc sống ẩn dật thanh khiết với bổn phận phục vụ nhân dân - Hoàng thân mỉm cười nói thêm. - Suốt mấy năm qua, tôi quên rằng thầy đã đi đến chỗ hiểu rõ cả hai chúng ta.
Họ đã từng gặp nhau cũng ở đất Côn Sơn. Cụ Atangana nhớ lại khuôn mặt thanh tú của Hoàng thân và ngay từ phút đầu vẻ phúc hậu trẻ trung của ông ta đã làm cụ chú ý. Hoàng thân nhớ lại chàng thanh niên khổng lồ khuôn mặt còn như đang chìm trong cơn ác mộng, và hễ mở miệng là kể toàn những câu chuyện về cảnh tàn sát giết chóc. Thuở ấy, cụ Atangana đã nghĩ rằng mình đang tiếp chuyện với một nhà quý tộc trẻ tuổi xuất thân hoàng tộc, sống buông mình trong cảnh xa hoa và nhàn rỗi. Còn Hoàng thân đã nghĩ rằng đấy là một nhà thần bí nào đó mà đầu óc đã thác loạn trên con đường chạy trốn qua Chân Lạp, Chiêm Thành và sau cùng là Đại Việt để thoát khỏi cảnh xương rơi máu đổ trong đất nước ông ta.
- Tôi là một con người đã trải qua những điều khủng khiếp kinh hoàng. - Atangana nói - Tại đất nước này, tôi đã tìm thấy nơi trú ẩn, ở đó người ta có thể tùy thích theo tín ngưỡng nào cũng được.
Hoàng thân còn nhớ sự ngạc nhiên của bạn ông khi mới đến nước Đại Việt và khám phá rằng dù toàn dân là Phật tử, họ cũng thờ Trời, thờ cúng tổ tiên, các thần linh, Khổng Tử, Lão Tử và những kiểu thờ phụng khác. Cùng một lúc họ có thể đi chùa, ăn chay, dùng cá chép để cúng ông Táo, dâng của lễ cho Bà Bổn Mạng hay cầu khẩn "Tây Vương Mẫu".
- Thật vậy - Hoàng thân nói với một nụ cười hóm hỉnh - chùa chiền chúng tôi đưa ra một hình ảnh hùng hồn về sự đa dạng phong phú của các thần linh mà chúng tôi thờ phụng. Có lẽ điều đó là do ở đáy lòng chúng tôi, chúng tôi luôn luôn sẵn sàng tiếp nhận những điều thuộc mọi tôn giáo có thể đem lại hạnh phúc trong cuộc sống thường ngày đời này và sự cứu rỗi ở đời sau.
Dưới ánh đèn chập chờn, nụ cười của họ rung động như thể nụ cười ấy là những mặt nạ mà đằng sau vẫn là khuôn mặt nghiêm nghị của hai người.
- Rốt cuộc - Hoàng thân nói tiếp - mỗi người chúng tôi thích nghi các tín điều và nghi thức tôn giáo của mình với những xác tín cá nhân và địa vị trong gia đình hay xã hội của mình.
- Lòng khoan dung là ở chỗ đó - cụ Atangana nói.
Đối với Trãi, đấy là một từ mới. Cậu đang ngồi dưới gốc cây vung thanh kiếm gỗ tả xung hữu đột giữa một bọn cướp. Cậu sẽ hỏi ông ngoại nghĩa của từ khoan dung khi nào có cơ hội.
- Quả thật - Hoàng thân nói - nằm giữa Ấn Độ mà thầy nói là thần bí và Đế quốc phương Bắc mà cốt lõi của nó là siêu hình sâu sắc, người Việt chúng tôi khác hẳn, chúng tôi đã vươn đến chỗ thưởng thức sự chừng mực. Ngay từ đầu, chúng tôi đã gặp được những nhà sư Ấn Độ trên đường sang Trung Hoa và ngược lại gặp những khách hành hương từ Quảng Đông sang Ấn Độ, và chúng tôi đã chắt lọc lấy những điểm cốt yếu và thích nghi vào bối cảnh đất nước chúng tôi. Chúng tôi đón tiếp mọi người và mọi ý tưởng đến nhà mình. Chỉ có một điều mà chúng tôi không dung thứ là chúng tôi không thể ngồi yên để cho người ta xâm lấn quê hương chúng tôi. Bài học này, chúng tôi học được nhờ Đế quốc phương Bắc. Một bài học dài mười thế kỷ!
Dưới kia, trong làng, tiếng trống đã điểm canh ba. Một người tớ gái xuất hiện dưới hàng hiên và đưa mắt tìm Trãi. Trãi đang ngồi kế ông ngoại, ra dấu cho người tớ gái đi chỗ khác.
- Cháu không buồn ngủ sao?
- Ông ngoại ơi, cháu xin phép ông cho cháu ngồi lại đây, cháu sẽ im lặng như tờ, cháu hứa với ông điều đó. Cháu cũng xin phép Tôn Sư.
- Nào, thôi được - Hoàng thân nói.
Mãi lâu sau khi cậu bé đã ngủ, họ còn tiếp tục đàm đạo, và thỉnh thoảng cuộc đàm đạo chỉ hơi bị quấy rầy bởi tiếng vượn hú lẻ loi.
—★—Người ta bước vào mùa khô, gió đông mát mẻ thổi đến và hoa cúc bắt đầu trổ bông. Mỗi buổi sáng, Hoàng thân đi ngắm hoa cúc, ngẫu hứng theo những lối đi qua chiếc cầu nhỏ bên dưới cá lội tung tăng.
Dù ở đất Côn Sơn, ông không quên ăn mừng ngày Tết Trùng Dương, Hoàng thân hái hoa thù du rồi leo lên đồi, có Trãi đi theo, và ông uống một vài chung rượu cúc. Tập tục ấy, bắt đầu có từ đời Nhà Hán. Một người tên là Hoàn Canh bằng cách đó đã xua đuổi những điều bất hạnh lớn có cơ sẽ giáng xuống gia đình ông vào ngày mùng chín tháng chín theo lời chỉ dẫn của thầy ông là người nắm được những bí quyết pháp thuật.
- Chỉ có chó gà trong nhà Hoàn Canh chết hết. - Hoàng thân nói - Chính vì thế, để kỷ niệm ngày ấy, người ta hái hoa thù du, rồi leo lên những đỉnh cao và uống rượu hoa cúc để trừ giải vận hạn chẳng lành.
- Sao ông ngoại không thể làm như thế để khỏi mất công cho người cất miếu? - Trãi nói.
- Câu chuyện của Hoàn Canh - Hoàng thân mỉm cười đáp - khác với việc gia đình chúng ta. Con không thấy như thế sao?
- Dân làng có ăn Tết Trùng Dương không ngoại? - Cậu bé hỏi.
- Không, dĩ nhiên là không, chỉ có các quan trong triều đình, các thương nhân giàu có và những ngoại kiều sang trọng từ phương Bắc xuống mới ăn tết này.
Và ông giải thích cho cậu bé biết có rất nhiều văn nhân mừng lễ thưởng ngoạn hoa cúc trong mùa này như thế nào. Họ đốt đèn trong những lùm cây, dọn rượu ra và làm thơ để chào đón mùa thu.
Một buổi sáng Hoàng thân đang ngắm hoa, thì cụ Atangana đến báo tin cụ sắp ra đi. Cụ từ chối bữa tiệc tiễn chân do Hoàng thân đề nghị, trái lại cụ chấp nhận một quà tặng cho thiền viện của cụ khi cụ trở về sau thời kỳ ẩn cư.
- Giờ đây thầy ra đi, tôi buồn biết mấy! - Hoàng thân nói với cụ. - Chúng ta đã quen nhau từ thời còn trẻ tuổi, gắn bó nhau với bao tình cảm sâu xa và cùng chung một quan niệm nhân sinh. Tôi còn biết uống trà, đàm đạo và trầm tư với ai được như với thầy trong nơi ẩn dật hẻo lánh này?
Có phải đó là khói hương chăng? Cụ Atangana ở giữa những đóa hoa cúc hồng, hơn bao giờ hết giống như một Tiên ông trên bàn thờ trong một ngày lễ.
- Ông bạn Hoàng thân ơi - cụ nói - trong cuộc hành trình của tôi, mỗi lần tôi gặp một phong cảnh đẹp, làm sao tôi lại không nghĩ đến ông.
Cầm cây gậy có chạm trổ đầu rắn và một bọc nhỏ hành lý không chút tương xứng với vóc người cao quý của cụ, cụ chuẩn bị lên đường. Bà hoàng chạy theo, tay mang đầy những món đồ.
- Thưa tôn sư, mùa đông sắp đến, thầy lại đi về miền núi. Tôi đã may cho thầy quần áo ấm nhưng không biết thầy có vừa lòng không.
Đó là hai cái áo khoác nhồi bông giữa hai lớp lụa đen. Cụ Atangana mặc một cái vào người nhân vì buổi sáng trời lạnh. Cái áo vừa khít. Cái thứ hai được xếp vào một cái giỏ mà Hoàng thân đề nghị xách giùm cho bạn ông suốt đoạn đường đưa tiễn.
Trãi sắp sửa theo chân họ nhưng bà hoàng ra hiệu ngăn cậu lại:
- Cháu hãy để cho hai người bạn già chia tay nhau. Không chắc các ngài còn gặp lại nhau.
Cậu bé nhìn họ đi xa dần dưới hàng cây, có vẻ phật ý.
- Cháu mới là người bạn thân nhất của ông ngoại! - Cậu nói lớn tiếng. Cậu giơ chân đá mạnh vào một viên đá làm nó lăn đi.
Bà ngoại cậu phải bật cười khi bước vào tận nhà trong.
- Các người có nghe thấy cái thằng nỡm kiêu ngạo này không!
Bà đầy tớ già Tý đi ra suối giặt đồ.
Trãi nhìn bà ta một cách nghiêm khắc làm bà vội vàng lỉnh đi, lúc đó cậu đang tự hỏi bà ngoại cậu muốn nói gì khi bà bảo "không chắc họ còn gặp lại nhau".
- Cậu bé này thật là kỳ lạ - bà tớ già lẩm nhẩm - Cậu ta có đôi mắt nhìn của một người đã qua bảy tiền kiếp của mình!
Khi Hoàng thân trở về đến nhà, ông mệt lả như ông đã đi bộ qua nhiều dặm đường. Ông thở hổn hển, mặt ông đỏ gay như hoa dâm bụt, và vạt áo dài của ông lấm đầy bụi bặm. Không dám đến gần ông, Trãi lo lắng nhìn ông đi qua. Ông bị chứng hạ hỏa mà từ ngày trở về Côn Sơn chưa hề tái phát. Sự ra đi của cụ Atangana đã gây ra cuộc khủng hoảng này làm ông trở nên đờ đẫn suốt một ngày liền.
Ngày hôm sau, dường như ông trở lại bình thường.
* * *
Hoàng thân mài thật lâu thỏi mực với một ít nước trong cái nghiên đá đóng cặn: Trãi từ ít lâu nay đã tập viết trên một mảnh gỗ theo dõi từng động tác của ông ngoại. Khi thì cậu nhìn mực đen hơn những đêm đen tối nhất, khi thì cậu nhìn mảnh giấy Tàu làm bằng vỏ cây dâu tằm còn trắng tinh chưa một nét chữ. Lòng cậu cảm thấy hồi hộp một niềm hứng khởi: lần đầu tiên, cậu sắp tập viết bằng bút lông.
Cậu vẫn thường nhìn qua vai ông ngoại, xem ông nắn nót từng nét chữ. Đã bao lần, cậu nghiêng mình trên vẻ huyền ảo của những trang giấy. Cậu cũng vậy, cậu sắp học viết những chữ nho khi thì đầy vẻ uy nghi như cây cao nổi bật trên nền trời, khi thì lưu loát như nước chảy giữa những tảng đá, khi thì tế nhị và duyên dáng như một cành hoa. Cậu cũng vậy, cậu sẽ viết đầy các trang giấy từ trên xuống dưới, từ phải qua trái. Các trang giấy ấy sẽ in hình những ngọn núi vút lên, những đoàn quân chạy trên bình nguyên, hàng hàng lớp lớp, những thần tiên từ trời xuống và lên trời trên các con rùa vàng, hình những con phượng hoàng đang bay, những con rắn đang đánh nhau, những vũ nữ múa gươm, những bầu trời mùa thu có lá vàng bay, những cơn gió thổi qua ruộng lúa mới cấy và những điều bí ẩn lướt qua dưới ánh sáng trăng. Cậu cũng vậy, cậu sẽ phiêu lưu trong thế giới đầy những điều kỳ diệu mà ông ngoại cậu nắm giữ ở đầu ngọn bút lông.
"Ngày mà ta dạy cho cháu ngoại chữ nho đầu tiên sẽ là một ngày trọng đại", Hoàng thân tự nhủ khi hòa nước vào nghiên mực. Những lời của bà hoàng về sứ mạng của ông vẫn còn vang vọng bên tai ông. Dù rằng ông cảm thấy xúc động, ông vẫn nhớ lại việc học tập của chính ông do một ông thầy đảm nhận, ông thầy ấy lúc nào cũng có trong tầm tay mình một cây gậy làm từ cây đinh tán và những cành cây có gai để khắc sâu vào học trò kiến thức và lòng tôn kính. Vẫn tiếp tục mài mực, ông nghĩ rằng lòng khoan hồng của người ông phải nhường bước cho sự nghiêm khắc của một người thầy bởi lẽ ta không chỉ đào tạo một đứa cháu mang dòng máu của ta mà một bậc danh nho cho tương lai. Phải dạy cho nó chữ nào trước tiên? Dĩ nhiên là một chữ với những nét đơn giản. Thói thường, người ta dạy cho trẻ chữ Thiên và chữ Địa trước tiên. Trong khi ông còn do dự, thì chính ông chú quá cố mà bài vị từ nay được đưa vào nhà thờ tự của tổ tiên đã gợi ý cho ông. "Tình yêu hòa bình. Tình yêu điều thiện. Nhân đức thương người" là những lời của ông nói về Nguyễn Trãi. Vậy thì phải bắt đầu với chữ Nhân và sự chọn lựa này làm cho tâm hồn ông tràn ngập trong một luồng ánh sáng êm ả.
- "Khi người ta đã nhìn thấy một vật, người ta biết nó. Khi người ta học một điều, người ta hiểu nó". - Hoàng thân dẫn lời của Mạnh Tử với vẻ trang nghiêm - Cháu Trãi, hãy nhìn đây và học đi!
Trong ống bút, Hoàng thân để qua một bên những cây bút lông dùng để viết chữ đại tự cho các câu đối, ông chọn một cây bút lông nhỏ, ngọn làm bằng lông dê vuốt nhọn như một thanh gươm. Ông chấm đầu bút vào mực sền sệt.
- Ngay đầu ngọn bút - ông dặn dò cậu bé - cần thường xuyên làm cho mực thấm đều và mài thêm mực. Cháu phải luôn luôn giữ cho cây bút đứng thẳng. Như thế này...
Ông liên kết lời nói với động tác, cầm bút lông thật thẳng đưa tay nhấc lên trong một động tác duy nhất của cánh tay, vạch chữ "Nhân" lên tờ giấy trắng hút mực.
- Giờ đây tới phiên cháu!
Nhìn cách Trãi cầm bút giữa ngón cái và ngón trỏ với một cử chỉ không hề run rẩy, Hoàng thân tưởng như mình đã lui lại năm năm về trước khi người ta thử Trãi trong dịp lễ thôi nôi. Trong nháy mắt, ông thấy lại phòng tiếp tân trong ngôi nhà ở Thăng Long, những bình cắm những cành đào nở hoa, khuôn mặt nhăn nheo của người ông chú và bàn tay quả quyết và tự tin của cậu bé.
Giống như cậu đã trông thấy ông ngoại cậu làm, đến lượt cậu Trãi nhúng đầy ngọn bút trong mực và không tựa tay trên giấy, cậu vạch lên những nét theo mẫu chữ tráng lệ.
- Ông ơi, chữ này có nghĩa gì?
- Cháu không thấy cháu vừa vạch hai chân của một người đang đi sao? Do đó chữ này tượng trưng cho con người và nếu không có con người, cũng không có chữ này. Bởi vì tất cả những gì hình thành trên mặt đất này và dưới bầu trời này đều do con người mà ra. Con người sinh ra, trở thành đứa nhỏ như cháu, sống cuộc đời trưởng thành, bước vào tuổi già và chết đi rồi lại tái sinh.
- Ông ạ - Trãi nói như không tin vào tai mình - có phải một ngày kia, cháu sẽ già như ông và một ngày kia, cháu sẽ chết như ông?
Hoàng thân đan hai bàn tay ông trong tay áo.
- Đấy là quá trình tự nhiên của những vật hữu hình - ông nói - Nhưng nếu đối với một số người, cái chết nhẹ tựa lông hồng, thì đối với một số người khác, cái chết nặng hơn một ngọn núi. Cháu phải sống đời mình và hành động sao cho cái chết của cháu có sức nặng, nặng nhất.
Một làn gió nhẹ vô tình nâng bức sáo lên, sự yên tĩnh mênh mông tràn ngập căn nhà, chỉ bị đứt quãng bởi tiếng chuông chùa. Dường như không có gì có thể xâm nhập vào chỗ ẩn cư thanh tĩnh này. Cậu bé, tay vẫn luôn cầm bút, cúi đầu xuống thật sâu, rồi sau một lúc im lặng thích hợp:
- Ông ngoại ơi, ngoại cho phép cháu được tiếp tục tập viết chứ?
- Không những ông cho phép mà còn ra lệnh nữa. Cháu phải biết rằng cháu còn phải mất nhiều năm nữa mới làm chủ hoàn toàn được cây bút.
Khi Hoàng thân thấy Nguyễn Trãi viết từ chữ trên xuống chữ dưới, từ cột nọ qua cột kia, nét chữ đĩnh đạc với sự khéo léo của người biết điều hòa nỗ lực của mình, ông cảm thấy thán phục chen lẫn khó chịu âm thầm. Tuy nhiên ông phải giữ thái độ nghiêm khắc và sẵn sàng phê bình cậu học trò về cách viết phải làm sao cho mực vừa đủ quánh lại hoặc phải viết với tất cả sức lực của thân thể.
- Cháu Trãi, cháu hãy nhớ rằng viết chữ nho vừa là sự luyện tập thân thể, vừa là sự hoàn thiện tinh thần.
Mỗi lần viết xong một trang đầy chữ, cậu lại đưa người ra xa để phán đoán công việc của mình. Những nét chữ trên giấy đều gây nên một ấn tượng về sức mạnh vì những nét kéo xuống dài ra một cách đặc biệt với nét đá lên ở cuối, thường gặp nơi những con người ngạo nghễ trong chiến đấu.
- Thôi, không viết chữ chỉ một người mà thôi, cháu sẽ viết chữ chỉ về cả một dân tộc. - Hoàng thân nói, cố gắng che giấu sự mãn nguyện.
Rồi ông dạy cho cháu chữ "Dân"
Sau chữ "Dân" là đến chữ "Thiên" và "Địa" kế đó đến các chữ khác, từ đơn giản đến phức tạp.
[←32]
Treo cổ, xiết cổ chết
[←33]
Trần Thuận Tông (1388-1398)