← Quay lại trang sách

Chương 3

Dưới uy quyền đầy đòi hỏi của Hoàng thân, Trãi hoàn thành việc học chữ nho từ mùa trăng này qua mùa trăng khác.

Thời gian trôi qua.

Đến năm tám tuổi, Trãi đọc trôi chảy "Kinh thi", đã học Tứ thư và Ngũ kinh, thuộc làu thơ Đường và chứng tỏ có khả năng làm bài bình giảng tư tưởng các nhà văn cổ điển, áp dụng vào những vấn đề đương thời (tức bài Văn sách) cũng như nghị luận về một câu châm ngôn thuận theo những điều giáo huấn của các cổ nhân và học thuyết của các nhà hiền triết (tức bài kinh nghĩa). Ở tuổi này nhiều đứa học trò mới bắt đầu vỡ lòng với những kiến thức sơ đẳng của trẻ con, còn Trãi có trình độ tương đương với một nho sinh. Trí tuệ cậu bén nhạy, thiên tư rõ ràng đến nỗi mọi người từ các cụ già râu bạc của nhà làng, các viên chức và vị tú tài hương sư trong làng cũng quên rằng trước mặt họ chỉ là một cậu bé.

Lĩnh vực hiểu biết của cậu không dừng lại đó. Hoàng thân thường chỉ trích nền giáo dục truyền thống ở chỗ nó quá lý thuyết, trái với nguyên tắc sư phạm và với quan điểm phóng khoáng mà ông đã có nhiều dịp chứng tỏ, ông muốn cho Trãi hiểu lịch sử của dân tộc mình bên cạnh lịch sử nền văn minh của người khác (tức là Trung Hoa) và các môn học thực hành như thiên văn, địa lý, y học, vật lý học và toán học.

Và nếu khi sức khỏe cho phép, ông bổ túc việc giáo dục cậu bé bằng những cuộc đi chơi xa về miền quê. Cuộc du ngoạn kết thúc với việc quan sát một phong cảnh đẹp mà Hoàng thân bắt cậu bé mô tả lại tỉ mỉ, hoặc trong những xóm thôn thuộc lãnh địa của Hoàng thân.

Lúc đầu, Trãi chỉ có những khái niệm rất mơ hồ về sự khác nhau giữa hạng quan quyền với lớp nông dân, Hoàng thân đã làm sáng tỏ những điều đó theo quan điểm thấm nhuần luân lý Khổng giáo của ông. Dưới mọi triều đại, ông đã giải thích cho cậu hiểu, luôn luôn có một khối lớn nông dân nghèo, cần cù và một thiểu số trong đó có gia đình ông, sống nhờ vào sự lao động của lớp người trên. Bản thân ông, Hoàng thân Trần Nguyên Đán, được quyền sở hữu những ruộng lúa, nương dâu trong vùng phụ cận ngôi nhà ông ở Côn Sơn và ngoài ra nhờ hồng ân của Nhà Vua, ông còn được quyền thu thuế trên địa giới để làm bổng lộc. Bởi thế ông thuộc về những người có đặc quyền có nghĩa vụ đối với nông dân, nhất là đối với những người nghèo hèn nhất. Một số đại điền chủ sống trên đất đai của họ và tự mình cày cấy lấy, như thế thật là hợp lý. Nhưng những người khác sở hữu nhiều đất đai quan trọng do vua ban, vẫn sống trong triều và chỉ nghĩ đến việc thỏa mãn dục vọng ti tiện của họ. Họ chiếm đoạt những đất đai màu mỡ nhất ở làng xã, sai nô lệ khai khẩn những diện tích rộng lớn và biến những nông dân tự do thành nông nô. Từ khi ông còn trẻ, ông đã nhận thấy tình hình ở vùng nông thôn càng ngày càng tồi tệ. Sự nghèo đói, trộm cắp xảy ra khắp nơi. Có biết rõ trong gia đình con cái được quý mến ra sao và hạnh phúc mà chúng đem lại là thế nào, người ta mới hiểu được cha mẹ đã bị dồn vào cảnh cùng cực thế nào mới đến nỗi phải đem bán con mình! Ngay cả khi nông dân tránh được hạn hán, mưa lũ, bão tố, quan lại và kẻ cướp thì ai thấu nổi thân phận của họ ra sao khi từ canh năm họ đã vác cuốc ra đồng, suốt ngày phải lội trong bùn dưới ruộng, rồi sau mùa cấy, lại đến mùa gặt?

Như thế, áo dài vắt cao, ông đi dọc theo đường ruộng hoặc vào trong các xóm thôn để đón nhận cốc nước vối và hút một điếu thuốc lào, đồng thời chỉ dạy cho Nguyễn Trãi. Theo cái nguyên tắc xuất phát từ cuộc đời phục vụ công ích lâu dài là nếu như chưa bao giờ biết cảnh bới đất nhặt cỏ, gieo vãi mùa nào, gặt hái mùa nào thì không thể nào hiểu được việc đời, ông quyết tâm dạy cho cậu bé học hỏi để hiểu biết về giới nông dân, trong những giới hạn mà địa vị gia trưởng cho phép. Những lời mà ông nói với đứa cháu ngoại, giống với lời của hoàng đế Minh Hồng Vũ nói với Đông cung Thái tử ở kinh đô của Đế quốc phương Bắc, hầu như từng chữ một:

"Người nông dân làm việc cực nhọc suốt năm, họ không được nghỉ ngơi. Nhà ở chỉ là một túp lều lợp rơm, cửa ngõ bằng cây gai đai lại, quần áo họ bằng vải thô, thức ăn chỉ là rau cháo đạm bạc. Vậy mà mọi chi tiêu thông thường của Nhà nước đều do họ gánh chịu. Con à, dù con ở nơi đâu, khi con ăn con hãy nhớ đến sự cơ cực của người nông dân, con phải yêu sách vừa phải và chi tiêu chừng mực...".

Những lời nói ấy nhiều năm sau sẽ trổ hoa dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi khi nhân danh Nhà vua soạn thảo những huấn dụ cho Đông cung Thái tử của nước Đại Việt.

Cứ như một đứa trẻ nào khác, đi từ tráp bút của nho sinh đến các cuộc du khảo dài qua vùng quê, từ những buổi tối chuyên cần học thiên văn trên đồi đến những buổi học thi ca, lịch sử hay địa lý, hẳn Nguyễn Trãi phải mệt nhoài. Trái lại, nhờ hòa hợp được tinh thần làm việc có phương pháp của cha và tính khí đam mê, kiêu hãnh của mẹ, Trãi dường như biến mỗi khó khăn thành một trò chơi và đương đầu với mỗi thử thách mới như một điều thách đố. Mặc dù ở tuổi cậu, cậu không to lớn, mạnh mẽ và phát triển lắm, cậu vẫn hân hoan đón tiếp ông thầy dạy võ từ đất Nghệ An vào một buổi sáng nọ. Nghệ An vốn là vùng đất giáp ranh với Chiêm Thành, rất nổi tiếng trong nghệ thuật quân sự đến nỗi các Thiên hoàng của Đế quốc Mặt trời mọc (Nhật Bản) không ngần ngại gửi đến đó những kiếm sĩ tài ba nhất để đọ sức với các chiến sĩ đất Nghệ An và học hỏi binh pháp của họ.

Võ sư là một người có tầm vóc thấp lùn mập mạp, hơi lạ với mớ tóc quăn xung quanh búi tó. Trãi nhớ đến mái tóc xoắn ốc của Đức Phật. Ông ta cũng giống thần hộ pháp diện mạo hung tợn, với lưỡi kiếm trên vai. Từ toàn thân ông ta toát ra như một hào quang đáng ngại của kẻ lúc nào cũng sẵn sàng ra tay đối với ai khiêu khích. Ông vận động thì cơ bắp cuồn cuộn như đàn chuột chạy dưới làn da, bụng ông luôn sôi lên òng ọc, còn xỉa răng thì ông không biết lấy tay che miệng như ông ngoại của Trãi.

Sau những nghi thức chào hỏi, ông thầy dạy võ yêu cầu mang đến một thúng thóc, một thúng cát và cuộc tập luyện bắt đầu.

Với hai bàn tay duỗi thẳng, Trãi phải đâm thủng lớp thóc càng sâu càng tốt. Khi gân cốt của cậu đã cứng cáp, cậu có thể đâm thủng một cây chuối, ông thầy võ nói như thế. Cũng vậy, nhờ tập đá vào một thân cây, bàn chân cậu sẽ chai đi và cậu sẽ không thấy chút đau đớn nào khi đá vào tường. Cứ thế, và cứ thế mãi, Trãi không ngừng tập đá vào cây chuối và thọc bàn tay vào thúng thóc.

Ông thầy võ đổ đầy cát vào hai ống quần túm chặt ở mắt cá và chọn cho cậu một mô đất để cậu tập nhảy mỗi ngày. Thời gian đầu, cậu cảm thấy rất nặng nề nhưng cậu vẫn miệt mài tập luyện, vì khi đã tập luyện thuần thục, cậu sẽ có thể nhảy cao tới mái nhà.

Chỉ được ăn cháo để linh hoạt, và như thế Trãi chịu khép mình vào công phu luyện tập các môn võ, côn quyền cũng như đao kiếm, khi tiến, khi lùi, khi bất động, lúc di chuyển cũng như lúc giao tranh, tất cả đều theo quy pháp riêng cho từng ngón. Và cứ thế cho đến khi gân cốt mỏi nhừ đau đớn như không còn cử động được nữa.

Theo lời khuyên của ông thầy võ, bà hoàng cho làm món thuốc sắc với lá tre để uống và để xông cho cậu bé bớt đau.

- Trời ơi! - bà nói vì không thể che giấu ác cảm đối với ông thầy võ xa lạ có khuôn mặt và cơ thể như sắt đá - vì lý do gì lại dạy thằng nhỏ này học những bài tập hung bạo ấy khi mà văn chương và binh pháp đi theo hai con đường khác nhau?

- Trong những lúc gian nguy - Hoàng thân trả lời khi ông đi ngang qua dưới hàng hiên - binh pháp cho phép người ta bình định và nhờ có văn chương người ta xây dựng hòa bình, chính vì thế mà thực ra chúng vốn hài hòa nhau. Bà có muốn cháu bà giống các văn nhân tài tử yếu đuối như những con ốc sên chỉ cần một cơn gió cũng đủ lật nhào không?

Bà trùm một cái chăn bông lên người cậu bé, giữ mình cậu trên một chậu nước bốc hơi và không buông một lời, xoa bóp đôi vai cậu bé. Trãi ngước lên nhìn bà ngoại và động tác này làm hai mép chăn tuột ra. Trãi vội chụp lại.

- Cháu nhìn coi! - Bà chụp lấy cổ tay của Trãi - Cháu nhìn coi những bàn tay đáng thương của cháu kìa. Ôi trời ơi! Cháu ơi, con người thô bạo ấy sẽ giết cháu mất thôi. Bà sẽ thoa dầu cho cháu. Chờ đấy.

Vẻ nghi ngại, Trãi cố gắng động đậy những ngón tay tê cứng của mình.

- Đưa bàn tay cháu đây và ngồi yên trong lúc bà săn sóc cháu. Chẳng nhẽ cháu tưởng rằng bàn tay của ông thầy dạy võ còn khéo léo lúc cầm bút được sao?

- Nhưng, bà ngoại ơi, cháu mệt nhiều nhưng cháu cũng thích thú nhiều.

- Vậy chớ giã nát tay chân như giã giò và hành hạ thân xác như thế thì vui thú lắm sao?

Rồi bà nhủ thầm: "Có phải chăng chính thằng nhỏ này vào ngày lễ thôi nôi đã vứt bỏ cung tên?".

Nhìn qua cửa sổ, bà thấy ông thầy dạy võ, đang ngồi xổm tay bưng bát cháo húp sồn sột, đôi mắt ông ta híp lại. "Ôi, tay chiến sĩ lừng danh, mi chỉ ra một chiêu thì người ta tan xương nát thịt, nhưng bà, bà sẽ hạ được mi".

Đêm hôm ấy và những đêm kế tiếp, bà trăn trở không yên trên gối.

- Cái gì làm bà bận tâm mà bà cứ thở dài vậy? - Sau cùng Hoàng thân phải hỏi.

- Nếu ông rủ lòng hỏi đến tôi - bà nói - tôi sẽ không giấu giếm những lo lắng trong lòng tôi. Đứa cháu Trãi của chúng ta hầu như cũng mảnh khảnh, yếu ớt như "Kiều Mai" của ông. Dĩ nhiên, tôi hiểu rằng ông tìm cách tập cho nó quen với chiến trận để phòng trước những thử thách sẽ tới với nó trong tương lai. Tuy nhiên có một điều làm tôi bối rối âu lo. Giờ đây nó gầy gò như một con hạc và các bàn tay của nó - ông đã thấy các bàn tay của nó chưa? - chúng sưng vù lên và không thể nắm chặt lại được. Tôi e rằng, nếu cứ tiếp tục như thế, những bàn tay ấy sẽ không bao giờ cầm lại được bút lông.

Tới đây, bà ngưng lại.

- Đấy quả là một sự kiện mới mẻ. - Hoàng thân nói - Bà đừng lo nữa, tôi sẽ xem xét lại vào ngày mai.

- Phu quân yêu quý, ông sẽ thấy rằng tôi đã không nói gì quá đáng, nhưng ông có thể thay đổi được gì chứ?

- Tôi sẽ suy tính, tôi sẽ tính - Hoàng thân nói và tin chắc rằng vợ ông đã suy nghĩ cho ông.

- Tôi cảm ơn ông, vì mỗi hành động và cử chỉ của ông, như tôi biết, đều xuất phát từ ý muốn chuẩn bị cho cái nghiệp nhà văn của Trãi. Thế mà tôi có thể nói với ông rằng ông thầy dạy võ ấy đang đi ngược lại. Vả lại, người ta có thể chờ đợi được gì nơi những người chỉ biết phát triển sức mạnh cơ bắp quá sức con người và thường thì họ dốt đặc cán mai? Thật vậy, tôi đã quan sát, thằng bé ít chú tâm đến việc học cứ lần nào việc luyện tập vũ lực làm nó kiệt sức. Ông không nhận thấy điều đó sao?

Hoàng thân không đáp lời ngay, nhưng ông đã hiểu. Trong sự im lặng theo sau đó, ông nghe tiếng ánh lửa bập bùng của những ngọn đèn thắp sáng trong đêm.

- Cần phải tìm một lý do thoái thác - Hoàng thân sau cùng nói tiếp - để trả ông ta về đất Nghệ An mà không làm mất mặt ông ta bởi vì ông ta không có gì đáng chê trách.

Bà hoàng nở một nụ cười chiến thắng trong bóng tối.

- Ô, nếu chỉ có thế, tôi nghĩ chỉ cần cho rằng chúng ta không muốn chứng tỏ mình quá ích kỷ. Thà để Trãi thiếu một ông thầy võ còn hơn để cho đất Nghệ An phải thiếu một trong những đứa con can trường nhất.

Do đó, Trãi sẽ không bao giờ biết nhảy cao tới mái nhà, hoặc dùng tay đâm thủng thân cây chuối. Âu đó cũng là số phận. Nhưng những thằng nhóc trong làng từng bị cậu lôi cuốn và nhìn nhận cậu làm thủ lĩnh lại đến rủ rê mời mọc. Ban đầu cậu làm như không nghe chúng, nhưng đến lúc rồi với cái tuổi lên tám, cậu không thể cưỡng lại mãi cái sức cám dỗ muốn có một tốp quân dưới sự chỉ huy của mình. Sử dụng bút lông, đọc sách cổ điển, vừa ngâm thơ vừa đánh đàn, đó là những thú vui thanh tao. Còn tắm mát trong ao, bắt còng bắt cua, chọc ghẹo các bà già đến rửa rau muống ở ao làng, chơi diều, tập trận tham gia vào các lễ hội ngày mùa là những thú vui khác, nhờ đó cậu cảm thấy mình chưa quá già nua!

Cậu rời Thăng Long theo ông bà ngoại về đây đã ba năm rồi. Vô hình chung, từ nay cậu thuộc về đất Côn Sơn và đất Côn Sơn thuộc về cậu chẳng khác gì cậu đã sinh ra ở nơi đó. Những sợi tơ của tuổi thơ chuyên cần và vô tư được kết dệt một cách êm đềm như thế. Sau này, khi trải qua những tháng năm lạnh giá hay trong những giây phút khó khăn, tuổi thơ ấy luôn luôn hiện về với cậu như nguồn mạch của mọi sự, nơi trú ẩn tuyệt vời, thật là thời vàng son!

Cậu có thể ngờ đâu "Đông Quân" của cậu đã đến hồi tàn tạ?

—★—

Vào năm Mậu Thìn (1388) đời Trần Phế Đế ấy, dường như không có gì có thể tới được chỗ ẩn cư xa xôi êm ả này, thế nhưng những tiếng chiêng của số mệnh sắp sửa vang lên.

Ai cũng biết rằng số mệnh thường tiến tới theo những nẻo đường dưới những bước chân êm ả. Cũng vậy, số mệnh đang tiến về Côn Sơn theo bước chân của một cụ già đạo sĩ nhỏ người, ốm yếu, ít lâu sau ngày lễ cúng Thành hoàng kết thúc.

Ngày hôm trước, gà mái kêu cục tác không ngừng: điềm báo của một biến cố khủng khiếp; nước trong bình thuốc lào trào ra: điềm chẳng lành; một thân cây ở trước nhà khô héo đi chỉ trong một ngày: điềm báo nỗi đau buồn chắc chắn xảy ra.

Khi vị đạo sĩ vào đến sân trước, bác Phan lập tức nhận ra ông. Bác Phan cung kính chào khách và cất lời:

- Cụ là vị đạo sĩ tôn kính mà ông chủ tôi đã gặp ở lữ quán nơi bến đò cách đây ba năm.

Và bác đi báo cho Hoàng thân biết một nhà tu hành có tên là Vô Kỷ yêu cầu được gặp.

Theo sau bác Phan, đạo sĩ "phủ nhận bản ngã" vừa đi vừa hỏi cái tên nào là cái tên phải kiêng nhắc đến, đạo sĩ vào nhà, đi qua một căn phòng lớn có hàng cột gỗ lim, kế đó qua một sân rộng có bể nước và đi vào thư phòng nơi Hoàng thân đang chờ. Sau những lời chào hỏi, họ phân ngôi chủ khách rồi cùng ngồi xuống. Nhìn qua cửa sau, người ta trông thấy những chòm cây và những bụi tre, một dòng suối có chiếc cầu nhỏ bắc ngang: thành cầu sơn son và ở một góc ao, một cậu bé ngồi trên bờ đọc sách.

Bác Phan đem khay trà đến. Vừa nhai trầu, Vô Kỷ vừa nghĩ: "Sau khi đã sống giữa cảnh ô trọc ở kinh đô, đây là một nơi lý thú, ta tính ở lại đây một thời gian".

- Thưa Hoàng thân tôn kính - đạo sĩ nói - chỗ ẩn cư của ngài yên tĩnh và êm ả và cuộc sống của ngài đồng điệu với Trang Tử là người đã dạy rằng muốn kéo dài cuộc sống, phải rời khỏi mọi lo lắng của thế gian để sống hòa hợp với thiên nhiên. Thật vậy, làm thế nào để tránh cho tinh thần khỏi bị hao mòn giữa những nỗi thăng trầm của thế gian đến dồn dập không ngừng?

Sau đó, đạo sĩ cho Hoàng thân biết rằng ông ta trở lại đây sau một thời gian lưu lại ở kinh đô và từ đó ông đã mang về đây những tin tức quan trọng nhất.

- Xin thầy cứ tiếp tục - gần như lạc giọng, Hoàng thân yêu cầu.

- Thưa Hoàng thân tôn kính, phải đây là một sự trùng hợp, vì mỗi lần tương ngộ giữa chúng ta đều xảy ra dưới dấu hiệu của điều hung bạo? Ông còn nhớ lần trước đây không, một ngôi làng đã bị cướp phá và dân làng đã bị tàn sát - Vô Kỷ không lưu ý đến cử chỉ nóng nảy của chủ nhà, ngừng lại một lúc trước khi nhấn mạnh từng chữ một - Lần này, sự hung bạo đã từ trời giáng xuống ngôi cao!

Không còn nói vòng vo nữa, ông đạo sĩ già kể lại một mạch điều ông ta biết và thu gọn lại trong vài câu làm cho Hoàng thân đau đớn và kinh hoàng trong lòng.

Khi biết được đương kim hoàng đế Trần Phế Đế lập mưu để loại trừ y, Lê Quý Ly đã thúc ép Thái Thượng hoàng Trần Nghệ Tông truất phế và kết tội người cháu trai phải xử giáo32. Tất cả những người đồng mưu với Trần Phế Đế và thân quyến của họ đều bị tàn sát. Thái Thượng hoàng đã đưa con trai mình là Trần Thuận Tông lên ngôi và đã gả một người con gái của Lê Quý Ly cho Thuận Tông33. Sự việc là như thế. Tới đây, ông già đạo sĩ bèn đưa ra một ví dụ về Luật phản phục lấy từ sách của Lão Tử:

Hạnh phúc dựa trên đau khổ

Đau khổ ấp ủ hạnh phúc

Đâu là ranh giới của chúng?

Thế gian không có chuẩn mực

Bởi cái bình thường có thể thành cái bất thường

Và cái thiện có thể biến đổi thành điều quái gở.

"Ông già lắm lời quá!" Hoàng thân bực tức tự nhủ, ông muốn biết rõ hơn. Ông già đạo sĩ vừa mới kể xong, Hoàng thân vỗ tay:

- Giờ thì bác đem chút rượu của kinh đô lên - Hoàng thân nói với bác Phan đang ở trên bậc cửa chờ lệnh ông. - Đây là chút rượu tẩy trần mời thầy để thầy lại sức sau cuộc hành trình mệt nhọc.

Giống như khi ở lữ quán ven sông, Vô Kỷ uống một hơi cạn ly rượu như con trâu khát nước.

- Ngon quá - đạo sĩ nói.

Hoàng thân đích thân rót thêm cho đạo sĩ.

- Xin thầy tiếp tục lại câu chuyện lúc nãy.

- Suốt thời gian tôi ở kinh đô - đạo sĩ nói sau khi đã cạn chén - tôi trú ngụ ở chùa Thăng Nghiêm. Ở đấy, tôi có dịp gặp nhiều vị quan lớn, đã nghe họ kể và bình luận những biến cố ở trong cung.

Theo lời họ, ngày mùng một tháng tám âm lịch năm Mậu Thìn (1388), bề ngoài không có gì cho người ta đoán ra rằng một làn sóng khủng bố tràn qua kinh thành. Lúc ấy, Đức Vua trị vì mặc hoàng bào, chuẩn bị rời Tử Cấm thành để dự họp với quần thần thì quan Thái giám chuyển cho ngài một mảnh giấy báo cho biết rằng Người - tức là Thái thượng hoàng - không muốn Đức Vua rời khỏi phòng mình. Khi đọc mảnh giấy ấy, dường như Đức Vua trị vì đã ngã sấp trên long sàng một lúc lâu. Kế đó bàn tay run lập cập, ngài soạn một vài bức thư, ký tên đóng ấn. Khi ra khỏi tiên phòng, mọi cửa đều bị chặn lại. Vào giờ Thân34, chiếu chỉ truất phế Trần Phế Đế do chính Thái thượng hoàng thảo ra theo đúng những hình thức gọi là hợp pháp, và lập Trần Thuận Tông, một hoàng tử trẻ mà không một ai biết đến, được tiết lộ ra ngoài. Khi chiếu chỉ được Thượng thư Bộ Lễ công bố trong tiếng chiêng, trống vang rền trước mặt quần thần đủ mặt chín phẩm các cấp được triệu tập vội vàng, chiếu chỉ đã làm cho mọi người ngạc nhiên và một số người kinh hoàng. Mặt mọi người không cắt ra giọt máu, tái xám lại như màu đất. Một ông hầu tước trẻ, mà người ta biết rõ là người tâm phúc của Hoàng đế bị truất phế, vãi cả đái và đánh rắm liên tục, miệng ấp a ấp úng. Mọi người đều hỏi nhau về sự việc nhưng không một ai dám trả lời: Thái thượng hoàng sẽ tống khứ Trần Phế Đế về tận một thiền viện xa xôi nào đó, hay... Trong nháy mắt, được thoát chết hay phải tiêu vong, mọi sự được quyết định trước khi chiều xuống. Xung quanh Tử Cấm thành và cổng Thiên Đức hướng về phía Hồ Tây, lính ngự vệ đã tăng lên gấp ba lần.

Vô Kỷ uống một ngụm rượu, đôi con ngươi rực lên, nói tiếp:

- Trước giờ Dậu ít lâu, dưới sự hướng dẫn của các quan đặc phái, binh lính của Thiên Tử đã tràn vào các phòng mà các hoạn quan đã bỏ đi. Băng qua màn trướng của cửu cung, quân ngự vệ đã xông vào phòng vua lúc vị vua bị truất phế đang ngồi trên võng đào bên trên một cái giường khảm vàng. Dường như chỉ có sự hối hả mới giúp y đủ can đảm để thi hành điều mà Thái thượng hoàng đang chờ đợi. Người cầm đầu bọn lính vội vã dâng lên cho nhà vua bị truất phế một cái mâm trên để một lưỡi dao, một bầu thuốc độc và một dải lụa. Trong khi đó, nhìn thấy bọn lính xông vào, các phi tần núp sau màn trướng kêu thét lên. Một hoạn quan vì không kịp chạy trốn đã núp lại gần đó về sau đã kể lại cho một quan hoạn khác của bà Hoàng Thái hậu rằng sau khi đã hết sức bình tĩnh điều đình với bọn lính để cho các bà vợ vua đang sợ mất hồn được đi ra, Trần Phế Đế đã nói:

- Ta sẵn sàng nhận cái chết mà Thái thượng hoàng đã định cho ta. Mệnh Trời đã chống lại ta. Cổ ta đây.

Đức Vua bị truất phế tự tay quấn dải lụa xung quanh cổ mình. Ông hoạn quan không thể nhìn thấy gì thêm nữa mà chỉ nghe thấy tiếng khò khè của một người đang nghẹt thở từ từ đến lúc không còn thể chịu đựng nổi dồn lại thành một tiếng nấc xé lòng và sau cùng là im lặng. Cái võng trống không vẫn còn đu đưa trên chiếc long sàng khi bọn lính đã mang cái xác đi. Không rõ đi đâu?

Nghe kể tới đây, những dòng nước mắt lặng lẽ chảy giàn giụa trên khuôn mặt của Hoàng thân.

- Tại sao? Tại sao? - Ông lặp lại - tại sao tỏ ra tàn ác đến như vậy?

Về những người đồng mưu với Trần Phế Đế, quan Tể tướng Lê Quý Ly từ mấy ngày nay đã biết rõ danh tính của họ... Như thế, Hoàng thân chua chát suy nghĩ, Thái thượng hoàng đã phong Lê Quý Ly vào chức vụ Bình Chương Sự tức là Tể tướng, một chức vụ chỉ dành riêng cho các Hoàng thân mang dòng máu hoàng tộc và không một người đồng mưu nào với Trần Phế Đế thoát chết, kẻ bị chém, người bị đâm chết cùng với gia đình họ.

- Nhưng xin Hoàng thân đừng lo lắng - Vô Kỷ nói - không một con trai nào của Hoàng thân hoặc con rể đang tòng sự tại Bộ Lễ hoặc tại Đô Sát Viện bị dính líu vào vụ này.

- Thầy làm tôi yên lòng. - Hoàng thân nói - Xin thầy thứ lỗi cho sự xúc động của tôi. Tất cả những điều ấy thật đáng thương! Ông Vua khốn khổ ấy đôi khi cũng đã chịu nghe những lời can gián của tôi - Nhớ đến cái chết của người, Hoàng thân cảm thấy ngột ngạt - Nào, thầy và tôi ra vườn đi dạo đi.

Họ đi qua cửa sau. Vô Kỷ bước đi loạng choạng kéo vạt áo lên làm quạt. Họ đi im lặng dọc theo con đường nở hoa dẫn đến lầu thủy tạ và chiếc vọng lâu nhỏ đón gió mùa hè.

- Dân chúng đất Thăng Long - Hoàng thân chợt hỏi - đã đón nhận cái tin đó như thế nào?

Đạo sĩ khạc đờm vào một bụi hoa.

- Theo những gì tôi đã thấy và nghe được thì họ đón nhận với thái độ hoàn toàn dửng dưng. Buổi chiều ấy, họ đã đi ngủ dưới một triều vua, ngày hôm sau họ thức dậy dưới một triều vua khác. Chỉ có thế thôi.

Đạo sĩ ngọ nguậy hai bàn tay như người ta thường làm trò chọc cười con nít.

Chỉ có thế thôi, Hoàng thân tự nhủ. Tuy nhiên trong câu chuyện kể lộn xộn của đạo sĩ Vô Kỷ, có những điểm ông không nắm hết được. Chẳng lẽ Lê Quý Ly đã táo tợn đến thế sao? Thế mà, Trần Nghệ Tông, với sự lãnh đạm hoàn toàn của tuổi già đã truất phế rồi khép vào tội chết đứa con của anh mình, người bà con ruột thịt chỉ để làm vừa lòng quan Tể Tướng của mình! Đúng lúc đó, Hoàng thân nhìn thấy đứa cháu ngoại đang đọc sách ở bờ hồ và lòng ông cảm thấy xót xa. Lê Quý Ly tại sao lại không đi tới cùng dự định của hắn để thiết lập một triều đại mới khi trở ngại cuối cùng đã bị loại bỏ? Hắn còn chần chờ chưa nắm lấy quyền hành mà trong thực tế đã thuộc về hắn, với mục đích gì? Bất chợt ông đã tìm ra lời giải đáp làm ông giật nảy mình. Nhưng trong lúc này, ông không muốn suy nghĩ thêm nữa.

Khi đến vọng lâu hóng mát mùa hè, Vô Kỷ tỏ vẻ rất dễ chịu được ngồi xuống.

Cậu Trãi, tay vẫn cầm sách, đến chào vị khách của ông ngoại cậu.

- Có phải đây là cậu bé dạo nọ đã theo ngài trở về Côn Sơn không? - Vô Kỷ hỏi trong khi vẫn quạt mát bằng vạt áo dài đã phai màu - Tôi chỉ hơi nhận ra cậu bé.

- Ngay con gái cưng của tôi, mẹ nó cũng sẽ khó mà nhận ra được nó.

- Vậy cậu đang đọc cuốn sách gì đó?

Trãi kính cẩn đưa quyển sách "Trung Dung" cho Vô Kỷ.

- Trong các sách cổ điển - đạo sĩ nói - luôn luôn có những câu thích hợp với nhịp lục bát của dân ca. Trong cuốn sách này, cháu biết câu nào không?

Đạo sĩ nháy mắt với Hoàng thân như đùa cợt bởi vì rõ ràng ông không chờ đợi câu trả lời của cậu bé còn quá nhỏ.

Nước, có lúc không chứa đầy một thìa nhỏ.

Nhưng có lúc, lại nuốt chửng kình ngư.

Trãi trả lời không chút do dự.

- Tôi hết lòng ngợi khen cậu! - Vô Kỷ kêu to, sự ngạc nhiên làm vẻ mặt ông ngộ nghĩnh trong khi Hoàng thân mỉm cười một cách tế nhị.

- Lời ngợi khen của thầy không hẳn là thích đáng. - Hoàng thân nói khi cậu bé đã rút lui - Mặc dù nó không thiếu tài năng và tâm hồn, nhưng nó còn quá nhỏ. Phải làm cho nó bớt đi lòng kiêu ngạo. Nếu cứ mỗi lần nó trả lời đúng, người ta hết lời khen nó thì sau cùng nó sẽ tưởng mình đã là một thiên tài, như thế chỉ bất lợi cho nó.

Họ cùng ngồi ngắm hoàng hôn trên mặt hồ, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng mình. Mặt nước lăn tăn dưới làn gió mát nhẹ. Mặt trời đã lặn nên Vô Kỷ ra vẻ muốn cáo từ, lúc đó Hoàng thân mời đạo sĩ ở lại nhà ông cho tới khi nào ông đi nơi khác, đạo sĩ nhận lời ngay lập tức.

Đêm đã bước vào canh tư. Ngồi trong chiếc võng dưới hành lang, Hoàng thân không tài nào ngủ được. Ông đang suy nghĩ đến một triều đại mới, một lần nữa bắt đầu bằng một vụ tàn sát. Những biến cố mới đây ở trong cung vua làm ông nhớ lại tấn bi kịch có nhiều điểm tương tự một trăm sáu mươi năm trước đây, đã chủ yếu tạo nên việc thiết lập triều đại nhà Trần. Vào thời kỳ đó, quan Tể tướng Trần Thủ Độ đã chôn sống tất cả những người họ Lý trong hoàng tộc và ra lệnh cho dân chúng mang họ Lý phải đổi ra họ Nguyễn để người dân không còn hy vọng gì vào nhà Lý và các thế hệ tiếp theo sẽ không còn nhớ đến nhà Lý nữa. Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc! Thủ Độ đã nói như thế trước khi trừ khử hậu duệ cuối cùng của nhà Lý. Chắc chắn Lê Quý Ly đã nhớ đến câu nói của Trần Thủ Độ khi bắt Đức Vua bị truất phế phải chết. Dù Thủ Độ có tàn ác và theo Sử ký biên niên sự tàn ác ấy "vượt qua những giới hạn của Luật tự nhiên", Thủ Độ cũng đã đem lại thanh bình cho đất nước, tạo ra một đội quân và chính quyền khá mạnh và đoàn kết để cùng toàn dân chống lại cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ. Chuộc lại những tội ác của mình, với tư cách là Quốc sư, ông không chỉ tạo nên sự thành công của riêng mình mà làm cho nhà Trần và cả nước Đại Việt được hùng mạnh. Với Lê Quý Ly khi nhà Minh bên Trung quốc dấy động can qua, sự việc có xảy ra như thế được không?

Cảm thấy mình đang lên cơn sốt, Hoàng thân nhận ra rằng ông còn cách xa Atangana, bạn ông trên con đường đạt Đạo nhiều lắm. Rồi có bao giờ ông đạt Đạo được không?

- Này Hoàng thân, ban đêm ông là thi sĩ, còn ban ngày, ông là người của triều đình! - Cụ ẩn sĩ nói khi bắt gặp ông đang viết những bức thư dài gửi về triều đình.

- Atangana, ông bạn lầm rồi, Thái thượng hoàng và tôi chỉ trao đổi câu chuyện văn chương.

Có ích gì khi tiết lộ cho một người bạn sự yếu đuối hay điên rồ rằng mình vẫn hy vọng? Hy vọng hành động. Atangana thực ra vẫn là một kẻ lưu vong. Trúc Lâm mới thật là quê hương lý tưởng. Nơi ẩn náu ấy sẽ từ từ tách Atangana khỏi mọi vật, mọi việc, mọi người và với chính ông để đưa ông tiến về bến giác đến cõi vô vi. "Chính trong sự vô vi", Atangana đã quả quyết khi trích dẫn Đạo Đức Kinh, "mà người ta chinh phục được vũ trụ, người nào muốn hành động không thể chinh phục được vũ trụ". Về phần mình, Hoàng thân đã thiết lập một mối quan hệ khác với thần linh bởi vì cuộc đời phục vụ quốc gia của ông quả thật còn quá gần ông nên không thể rời bỏ hoàn toàn. Ông không xa lạ với tĩnh lặng, sự cô tịch, sự xóa bỏ mình. Chẳng phải vì những điều ấy mà ông đã về Côn Sơn ở ẩn đó sao? Tuy nhiên ông không thể từ chối việc giúp Trời thực hành đạo nghĩa trên mặt đất này và dùng ảnh hưởng của mình, dù chỉ là khiêm tốn, để tìm sự cứu nguy không phải cho bản thân nhưng để cứu giúp muôn dân. Khổ nỗi, kinh nghiệm đã dạy cho ông biết rằng rất ít người được thỏa chí bình sinh trước khi ra đi khỏi cuộc đời này. Tuy nhiên, giữa đêm khuya lòng ông hoàn toàn hướng về đất Thăng Long và Hoàng cung, nơi một ông vua già cũng không ngủ được.

—★—

Như để chuộc lại cái lỗi đã mang đến một đám mây u buồn trên cuộc sống ẩn dật của Hoàng thân mà sẽ còn nối tiếp bởi những đám mây u buồn hơn nữa, Vô Kỷ trong mấy ngày ở Côn Sơn không có mối bận tâm nào ngoài việc làm cho chủ nhà được khuây khỏa. Khuôn mặt của đạo sĩ hơi man dại, dáng đi cùng phong cách kỳ quặc che giấu một con người có văn hóa cao, điều mà Hoàng thân đã đoán ra được khi trông thấy đạo sĩ lần đầu tiên. Ngoài kiến thức rộng rãi, đạo sĩ còn tích lũy một số đáng kể những câu chuyện thần kỳ, những giai thoại, những câu chuyện ngồi lê đôi mách, những điều bí mật quốc gia, tóm lại là mọi điều bí mật. Thế cho nên, ông ta vừa là một tay phiêu bạt giang hồ thường đến dưới gốc đa đầu làng ngồi kể chuyện, vừa là một nhà viết sử biên niên chín chắn từng cầm bút ngồi ở sử quán trong nhiều năm, là một thị thần biết rõ những việc trong triều đình, và là nhà viết thời luận có khả năng về các tập tục ở xã thôn. Ngoài ra, ông ta có tật lải nhải lung tung về Đạo, làm cho người ta thường coi ông như một lão già gàn dở, lại còn cái tật hay gãi và khạc nhổ bất cứ lúc nào, làm cho câu chuyện hay mấy cũng khiến cho những người ngồi nghe phải bực mình.

Chỉ mới một ngày thôi mà mọi người đã quen thấy đạo sĩ có mặt ở mọi chỗ trong nhà, kể cả những nơi bất ngờ nhất. Người ta thấy đạo sĩ ở cuối vườn đang chỉ chỏ bác Phan cách làm vườn vì bàn tay ông biết làm nhiều việc, hoặc thấy đạo sĩ đứng cạnh bếp lò kể câu chuyện cảm động về con voi của Trần Hưng Đạo cho đứa tớ gái tên Đào, có khi đạo sĩ leo lên mái nhà để sửa lại các tấm ngói. Nhìn vị đạo sĩ ốm đói, có dáng vẻ thanh thoát dường như đã xa rời mọi sự thăng trầm của trần thế, bà hoàng phải bật cười khi có thể kể lại rằng hôm trước Vô Kỷ đã dạy người ấy cách sắp xếp các cụm hoa, một vài công thức để chăm lo chậu cảnh hoặc khi Vô Kỷ kể lại cho bà phần kết cục của câu chuyện cô gái tự tử được cứu sống mà Hoàng thân đã cho tiền mua quan tài cho mẹ cô cách đây ba năm.

- Bà có nhớ cô thôn nữ Kiều Oanh mà đức ông chồng bà đã cho vớt lên không?

- Tôi tưởng rằng - bà mỉm cười trả lời đạo sĩ - cần phải nhớ đến những ơn huệ mà ta nhận được và quên đi những ơn huệ mà ta ban phát.

- Dĩ nhiên! Dĩ nhiên! - Vô Kỷ rót nước trà vào trong ống điếu theo thói quen của lão khi không có sẵn nước ở gần. - Cô ấy đã lấy anh Phụng là người đã cứu sống cô ấy ở làng Ngọc Kiệu làm chồng. Trời đã cho họ một đứa con trai - Rồi trở lại cái việc ghép cây, lão dặn dò:

- Phải biết chọn những nhánh chiết non có rễ giống như vuốt mèo bám vào đất, nếu không, người ta có thể cho rằng cây mới được cấy lại thẳng đứng mà như thế phải loại bỏ nó - Và bởi vì những cây này nhắc lão nhớ đến những cây khác trong ký ức đầy ắp các câu chuyện nên lão nói:

- Bà có biết rằng cây cối cũng làm loạn không?

Bà hoàng cười thoải mái.

- Thưa lệnh bà, bà cứ cười đi! Điều đó không ngăn cản các cây con như cây cau, cây vải, mít, long nhãn mà triều đình nhà Minh đòi ta phải triều cống đều chết rũ trước khi tới Trung Hoa! Phạm Đinh, ông quan Thượng thư coi việc canh nông nhận trách nhiệm chuyên chở những cây con đó, cho rằng chúng không chịu nổi cái lạnh của nước Tàu.

Anh chàng tếu thật, và cứ như thế, mọi thứ chuyện làm cho cả nhà phải vui vẻ.

Nhờ có Vô Kỷ, Hoàng thân mãn nguyện khi biết bức thư ông gửi Tổng trấn Thăng Long đã có kết quả, binh lính của triều đình được gửi đến để bắt bọn cướp, nhưng ông thất vọng khi biết rằng bọn cướp nhanh như thỏ đã trốn thoát. Chỉ có điều an ủi ông là từ đó, bọn cướp không còn xuất hiện lại trong vùng. Đạo sĩ biết được điều ấy khi nào? Bằng cách nào? Bởi ai? Đạo sĩ biết được, thế thôi. Hoặc giả đạo sĩ đã đẩy nghệ thuật bịa đặt đi thật xa, hoặc giả ông lão là một tay gián điệp tài ba. Những chi tiết của cuộc hành quân, số binh sĩ tham gia, chiến lược của họ, vị trí của quân cướp lúc bị tấn công, tất cả đều có vẻ những chứng từ xác thực. Vả chăng xác thực như tất cả mọi chuyện mà lão kể lại.

Phải tin rằng, bà hoàng vừa nói nhỏ với Hoàng thân, vừa đưa mắt nhìn khắp xung quanh, cái bề ngoài của một đạo sĩ chỉ là một trong vô số bộ mặt mà các thần linh khoác vào, mà thần linh thì ở khắp nơi, thấy mọi sự, nghe mọi sự, đùa giỡn với những người sống vẫn cả tin như hai ông bà mà thôi.

Tuy nhiên không có gì đáng tiếc xảy ra suốt thời gian đạo sĩ ở với Hoàng thân. Mặc dù vai trò đầu tiên của lão là người mang đến những tin buồn, Hoàng thân vẫn giữ được một kỷ niệm đầy hứng thú vì lão là biểu tượng cho một thời kỳ yên ổn, không lo nghĩ. Người ta chưa biết đến điều bất hạnh sắp bất ngờ giáng xuống ở đây và đang đến gần.

Những buổi chiều dài, lão cùng Hoàng thân đàm đạo dưới những hàng cây. Có những lúc lão vui chơi với cậu Trãi, cùng với cậu ngâm nga những vần thơ với một giọng ngâm sảng khoái, thế rồi lão lại biến đi như khi đã đến và không ai biết lão có còn trở lại hay không?

—★—

Cùng ngày ấy, đúng một năm sau, cái chết đến với mẹ Trãi vào cái tuổi trẻ đẹp, tươi tắn đầy những sự dịu dàng. Đối với mọi người, cái chết ấy như tiếng sét nổ giữa bầu trời xanh biếc.

Lúc đó gần đến canh ba mưa xối xả trên mái nhà, Hoàng thân đang ngồi đọc Lão Tử dưới ánh đèn thì có người cầm đuốc đến gõ cửa. Đó là những người canh tuần trong làng. Họ đã dẫn đến một người đàn ông mệt nhọc. Người này vừa cởi chiếc tơi lá còn nhỏ nước, vừa giải thích rằng ông ta từ làng Nhị Khê đến để mang cho thái ấp của Hoàng thân Trần Nguyên Đán một tin vô cùng nghiêm trọng. Bác Phan cho các người canh tuần một ít tiền rồi để họ ra về, sau đó dẫn người đưa tin vào phòng ngoài.

Hoàng thân vừa mới đọc xong câu thứ hai của bài thơ mà đạo sĩ Vô Kỷ có lần nhắc đến: Bất hạnh được ấp ủ bên dưới hạnh phúc, thì bác Phan vào báo cho Hoàng thân biết có người đem tin từ làng Nhị Khê đến. Cuốn sách rời khỏi tay ông và mắt ông mờ đi. Lấy lại bình tĩnh, Hoàng thân bước thẳng và đường bệ đi qua trước mặt bác Phan đang đứng chờ.

Vừa trông thấy Hoàng thân, người đưa tin quỳ gối và phủ phục.

- Ngàn thu vĩnh quyến, thương tiếc không cùng! - anh ta nói và báo tin cho Hoàng thân biết Thị Thái - người con gái yêu quý nhất của ông, ngày mùng một tháng tám năm Kỷ Tỵ (1389) đã về với tổ tiên sau khi sinh ra đời đứa con trai thứ năm.

Hoàng thân không nói một lời, không làm một cử chỉ, khuôn mặt ông tái mét và ông ngã vật xuống trong phòng, trong khi đó bà hoàng chạy vội tới rú lên một tiếng kêu tuyệt vọng.

Cả nhà đều được cấp báo, từ các phòng trong sân trước, sân sau, thê thiếp và tôi tớ chạy ào tới.

Người ta vội vàng đổ nước nóng vào miệng ông để ông hồi tỉnh. Khi ông đã tỉnh lại, người ta chuyển ông vào phòng, vợ ông khóc lóc thảm thiết ở đầu giường. Cậu Trãi, cháu ngoại ông, úp mặt vào chăn nức nở. Nước mắt giàn giụa như mưa trên đôi má của Hoàng thân suốt ba ngày không dứt. Nước mắt chảy đầm đìa xuống chiếc áo tang sổ gấu và ông lặng lẽ khóc cho đến cạn lòng. Và từ đó không bao giờ người ta còn thấy ông khóc nữa. Ngực ông bị nung nấu, xâu xé bởi một ngọn lửa vô hình.

Bấy giờ, ông đứng dậy và cho gọi người đưa tin vào.

Anh này vừa ăn xong món mì xào thịt gà, vội vã lấy nón lá úp lên cái bát và theo bác Phan vào phòng ngoài.

Hoàng thân muốn biết con gái ông đã vượt qua ngưỡng cửa sự chết như thế nào và nghi thức an táng có thực hiện đầy đủ không. Bà hoàng mặc áo sô gai, đầu quấn khăn tết bằng dây chuối, ngồi bên cạnh chồng, nước mắt chảy đầm đìa như suối.

- Tất cả - người đưa tin quả quyết - đều được hoàn tất theo đúng nghi thức.

Trong sự im lặng chỉ bị ngắt quãng bởi tiếng nức nở của bà hoàng, anh ta kể lại câu chuyện đau buồn xảy ra dưới mái nhà họ Nguyễn, cái ngày mà một linh hồn đã bước vào cuộc đời và một linh hồn khác từ bỏ cuộc đời.

... Khi bà mụ đã dùng hết mọi cách để chặn đứng cơn băng huyết sau lúc Thái sanh con mà không được, các phụ nữ trong nhà đã chuyển Thị Thái vào trong gian nhà giữa, đầu quay về hướng Đông. Trong những lời nàng nói sau cùng, nàng nhắc đến cha mẹ nàng trước tiên, nàng dịu dàng than thở đã không làm tròn chữ hiếu với cha mẹ và không đợi họ chết trước để nàng lo việc hương khói. Nói xong, nước mắt nàng giàn giụa…

Nghe những lời nói ấy, bà hoàng càng thêm nức nở. Người đưa tin kính cẩn chờ cho bà nguôi đã.

…Rồi thì - anh ta nói tiếp - nàng nói lời vĩnh biệt với cha mẹ chồng, bày tỏ lòng biết ơn và dặn dò chồng nàng đừng làm cha mẹ nàng đau khổ thêm mà đòi ông bà giao Trãi lại bởi vì chính các ngài rất muốn nhận trách nhiệm lo cho Trãi. Và cuối cùng, nàng nghĩ đến đứa con trai ở xa với hy vọng rằng nó sẽ giữ mãi kỷ niệm về nàng và thành đạt không sai sót số phận của một kẻ nam nhi để cho dù ở bên kia thế giới nàng cũng được vinh dự: Như thế, nàng nói thêm, dù nàng có chết đi, thân xác nàng sẽ không bị hủy hoại!.

…Trong lúc người chủ trì việc tang lễ thì thầm bên tai cái tên Thụy mà theo đó từ nay nàng sẽ tự nhận ra mình, nàng đã mỉm cười và nụ cười ấy vẫn cứ giữ nguyên trên khuôn mặt đúng vào lúc nàng bước sang bên kia thế giới, trong khi nhà sư đang đọc bài kinh "Hơi thở cuối cùng" và chồng nàng còn cố gọi nàng bằng những lời kêu gào làm cảm động cả Trời Đất…

Bà hoàng lại bắt đầu khóc nức nở. Người đưa tin cũng chùi nước mắt vào tay áo trước khi kể tiếp.

... Vì lúc đó không có mặt đứa con trai đầu lòng, nên Bảo, em kế của Trãi, vì Bảo còn nhỏ nên một người láng giềng giúp nó leo lên mái nhà để gọi hồn người chết. Tới lúc làm lễ phạn hàm, người chủ tế quỳ gối nói "Xin phép được dâng cơm". Cụ Nguyễn với tư cách là chủ tang đã từ chối nắm gạo và đồng chinh sáng chói mà người ta đưa cho ông "Con dâu chúng ta là con gái đại gia, ông tuyên bố, vậy nên nhà ta sẽ chôn nó theo đúng địa vị của nó!". Thay vì gạo và đồng chinh, ông nhét vào miệng người phụ nữ mới qua đời ba hạt hổ phách và chín hột ngọc trai dành riêng cho người quyền quý, còn về khăn liệm lớn nhỏ bằng vải thô cũng như tấm vải phủ mặt, ông ra lệnh cho thay bằng một mảnh lụa lộng lẫy. Sau khi đã tắm người chết bằng nước thơm nấu với gỗ đại bàng, người ta mặc vào những áo quần đẹp đẽ nhất và đội khăn trắng dành cho những người chết khi họ có cha mẹ còn sống rồi người ta đặt người phụ nữ vừa qua đời trong một chiếc quan tài đẹp nhất mà chưa bao giờ những tay thợ mộc làng Nhị Khê đã làm ra, quan tài bằng gỗ quý sơn son thếp vàng. Trên quan tài người ta đặt bảy ngọn đuốc cháy sáng còn ở bên mặt của quan tài, theo thông lệ của những gia đình giàu có, người ta đặt một chiếc "linh sàng" sau bức màn gấm. Không ai trong ngôi làng này có thể quên được một đám ma to như thế. Khổ nổi, khi giữ đúng nghi thức như thế, gia đình họ Nguyễn phải mắc nợ nhiều năm. - người đưa tin nói - Khi người nhà đã xõa mái tóc họ xuống và mặc áo trắng vào, tang lễ chính thức công bố. Tin buồn đã lan truyền khắp làng. Những nho sinh của thầy Bảng Nhãn, vốn biết tài năng và nhan sắc của vợ thầy, không thể không đau buồn, họ mang hương, vàng, lễ vật đến thật đông để cúng người quá cố. Họ đông đến nỗi xếp thành một hàng dài như bất tận. Chưa bao giờ người ta đốt hương nhiều và tưới rượu nhiều như thế!

Đang im lặng trong đau đớn, thình lình Hoàng thân hỏi người đưa tin về mộ huyệt và thế đất, người đưa tin trả lời:

- Hiện nay chỉ là một nấm mồ tạm để còn chờ ngày tang lễ. "Thầy Địa lý" sẽ chọn một thế đất phúc địa và ngày tháng tốt. Gia đình họ Nguyễn giao cho tôi nói với ngài rằng họ Nguyễn sẽ làm đủ mọi nghi thức hợp lệ để phu nhân lệnh ái được an nghỉ và các con của người ấy sẽ được hưởng mọi điều phúc lộc. Về phần kẻ tôi tớ hèn hạ của ngài - anh ta cúi người nói thêm - tôi đã tình nguyện đến đây với mục đích trả món nợ nghĩa ân với ông Bảng Nhãn. Giờ đây sứ mạng đau thương của tôi đã hoàn thành, tôi xin Tướng công khả kính cho tôi được phép lui gót trở về.

Khi người đưa tin lui gót tin chắc rằng anh ta có thể trở về ngày hôm sau, Hoàng thân quay về phía bà hoàng và đặt đôi tay ông trên đôi tay bà một hồi lâu, đắm chìm trong nỗi đau buồn.

- Phu quân kính yêu, dường như ông đã kiệt sức vì đã ba ngày rồi ông không ăn uống. Ông đừng thêm vào nỗi đau làm tôi đứt ruột này nếu đến lượt ông lại ngã bệnh.

Bà ép ông phải vào phòng và bắt ông nuốt một vài muỗng canh.

- Trãi đâu nhỉ! - Hoàng thân bật dậy trên gối hỏi - Ngay cả trong tình cảnh này, có phải chúng ta sẽ không quên rằng con gái mình - nói đến tên con gái, giọng ông nghẹn lại - đã giao phó nó cho mình?

- Thằng bé rất đau khổ - bà hoàng nói - nó đem nỗi đau của nó lên đồi cao, nhưng sáng nay, khi vừa thấy nó đi khỏi, tôi đã cho người đi theo. Vậy ông chớ lo lắng, chúng ta sẽ giữ lời hứa với "Kiều Mai" của chúng ta.

Bà đến ngồi ở đầu giường và dù họ nói chuyện hay im lặng, căn phòng dường như đầy rẫy sự hiện diện của Thị Thái.

Người đưa tin ra đi vào ngày hôm sau, mang theo một bức thư dài của Hoàng thân gửi cho người con rể và một số tiền hai mươi lạng bạc để đền bù cho gia đình họ Nguyễn. Đeo túi trên vai, anh ta sắp biến mất sau rặng cây thì Trãi đã bắt kịp và giữ anh lại: Một cảm xúc quá mãnh liệt đối với tâm hồn trẻ thơ đã thúc đẩy cậu tiến tới. Khi đến gần người đưa tin, cậu nén lòng mình lại.

- Chú ạ, cho phép cháu đi với chú tới chân cầu nhé?

Người đưa tin mỉm cười đồng ý. Trong phong cách của thằng bé này có chút duyên dáng nhắc anh ta nhớ đến bà vợ của thầy Bảng Nhãn, anh ta cảm thấy đầy lòng thương cảm. Họ cùng đi bên nhau, im lặng.

- Giờ đây - Trãi nói - cháu phải để chú đi tiếp một mình. Trước khi chia tay, cháu xin chú chuyển đến người cha thân yêu của cháu sự tôn kính thắm thiết của đứa con trai cả. Xin chú cũng nói với cha cháu - cái nhìn nghiêm trang của cậu tan ra thành những dòng lệ - chú hãy nói rằng kỷ niệm về dòng suối mát Khải Phong35 ghi khắc sâu xa trong lòng cháu.

Nói xong cậu bé quay mình và thẳng bước.

- Dòng suối mát Khải Phong... dòng suối mát Khải Phong, Khải Phong - người đưa tin lặp lại cho khỏi quên.

Chắc chắn thầy Bảng Nhãn sẽ biết được những lời ấy có nghĩa là gì. Dù mới tám chín tuổi là cùng, phải chăng cậu bé này đã là đứa con trai xứng đáng của cha cậu? Đúng lúc đó, anh nghe một tiếng thở dài bên tai mình. Anh giật mình quay lại. Đằng xa ngọn gió nồm đã nâng vạt áo của ai trong rừng tre.

- Của cha cậu, và của mẹ cậu - anh ta vội vàng nói thêm và bước nhanh hơn.

[←34]

Giờ Thân: từ 15 giờ đến 17 giờ

[←35]

Khải Phong bài thơ thử 32 trong Kinh Thi, ám chỉ đến tình mẫu tử

[←36]

Cây Samao: một bó rơm rộng chừng một tấc, chia ra làm ba nhánh thành hình bàn chân.

[←37]

Ông tổ của các thầy phù thuỷ được thờ nhiều nhất ở xóm Đông Ngạc, tỉnh Hà Đông