Chương 4
Hè qua, thu đến và cùng với mùa thu là lễ giỗ trăm ngày người quá cố. Để cử hành nghi thức tất khốc (Thôi không khóc nữa), cụ Nguyễn theo truyền thống vừa kiêm nhiệm việc dâng cúng, vừa là người chủ tang, dâng một của lễ.
Trước bàn thờ tổ tiên, ông mở tấm vải phủ bài vị, xướng lệnh cho cử ai và mọi người òa khóc. Đối diện với bàn thờ ba lần tưới rượu trên cây samao36, cụ bà đã dâng một mâm cơm thịt và trái cây, ông cụ thả tấm màn xuống che bài vị và để cho linh hồn người chết có thể yên ổn dùng bữa, mọi người đều rút lui.
Xin cho của lễ được chấp nhận! Xin cho linh hồn no nê sống mãi trong bình an và sung sướng! Xin linh hồn bay về trên mái nhà để duy trì sự che chở thường xuyên cho mọi người trong nhà! Xin linh hồn cùng chia vui, sẻ buồn với họ và nhận lời cầu khẩn của họ!
Trong khi lễ giỗ này diễn ra ở làng Nhị Khê, tỉnh Hà Tây, ngày 11 tháng 11 năm Tỵ (1389) đời Trần Thuận Tông, một lễ giỗ khác cũng được tổ chức ở Côn Sơn.
Liền sau đó, không nói với ai một lời nào, Hoàng thân mang tất lụa, hài rơm, đầu quấn khăn sồi, rút lui vào cảnh cô tịch trong động Thanh Hư ở sườn núi và ăn chay ba ngày. Giữa rừng núi, bên những dòng suối, tư tưởng nào đã xâm chiếm ông, chân lý hoặc ảo ảnh nào đã thâm nhập ông? Sau cùng, khi ông trở về với người thân, qua cái nhìn của ông, bà hoàng và đứa cháu ngoại của ông cũng đủ hiểu rằng từ nay cuộc sống của họ bên cạnh ông ở Côn Sơn không giống như trước nữa. Gần cuối đời, khi Nguyễn Trãi tin tưởng rằng có thể thoát khỏi những ma lực âm ỉ đã liên kết lại để tiêu diệt ông, ông cũng đã lui về đất Côn Sơn và hình ảnh của ông ngoại thời kỳ này vẫn còn tồn tại qua năm tháng, hình ảnh của một con người thương tổn tận tâm can. Vết thương đó càng sâu khi bên ngoài của Hoàng thân không có gì thay đổi. Khuôn mặt thanh nhã của ông không nhăn nheo nhiều hơn, tóc của ông không bạc thêm. Duy chỉ ánh mắt của ông mà sự ẩn cư và chay tịnh làm cho nổi bật lên, giờ đây có vẻ xa vắng, như thể khi trút hơi thở cuối cùng, con gái ông, Thị Thái, đã đồng thời thổi tắt ánh mắt của ông.
Cậu Trãi nghĩ rằng sự vật có thể đổi đời. Trước kia ông ngoại cậu cũng như sách vở đã dạy cho cậu điều ấy. Giờ đây bài học đắng cay được học từ chính cuộc sống. Mới đó mà thời gian đã phân cách cậu với tuổi thơ vô tư và cậu đã nuối tiếc tuổi thơ ấy. Cậu những tin rằng thời kỳ hạnh phúc sẽ không bao giờ hết. Trong khi nó đã qua rồi, dường như cậu không biết giữ nó lại, cậu đã thoáng thấy sự hủy hoại và sự đổi mới của thời gian dù chưa định nghĩa những điều ấy một cách rõ ràng. Sáng qua chiều lại, ngày tháng biền biệt trôi qua. Thoi nhật nguyệt đưa mau, mùa đông vừa hết, mùa xuân bắt đầu, và mùa thu tiếp nối mùa hè, các triều đại lần lượt hưng thịnh và suy vong, hoa nở xinh tươi rồi lại héo úa, tóc xanh ngày nào nay đã trắng xóa, các bà mẹ sẽ qua đời, các ông nội, ông ngoại đi xa, con cái sẽ già... Làm thế nào để nắm giữ được thời gian như một dòng nước khi đầy thì tụ lại, như chôn chặt một gốc cây, giữ yên một ngón núi. Nhưng rồi nước cũng vơi đi, cây cũng héo tàn và núi cũng mòn vẹt. Những câu hỏi ấy làm Trãi vô cùng bối rối. Cậu có cảm tưởng đang lần mò trong bóng đêm, trên tay lại không có một ngọn đèn. Làm thế nào giữ lại được những người ta yêu mến, làn hương của bốn mùa, sự hài hòa của xuân sắc? Nhốt mình trong thư phòng, làm bạn với lò hương và bàn viết, suốt ngày cậu đọc Kinh Thi và Kinh Thư, đánh dấu từng câu, tìm lời giải đáp đang run rẩy ủ ấp trong lòng cậu, để một ngày nào đó không xa sẽ giúp cậu chế ngự được thời gian, ghi khắc giữ lại mãi mãi màu xanh của rừng tre Côn Sơn bên dòng suối, cũng như tiếng vượn hú non đoài, trong những câu thơ mạnh mẽ như tiếng trống đồng Đông Sơn.
Cậu bé say mê thiên tài Đỗ Phủ ấy, làm thế nào đoán được rằng mọi thế kỷ còn đang thai nghén trong thời gian sẽ không vùi lấp nó dưới lớp bụi dày và mỗi thế kỷ theo một cách khác nhau sẽ tôn vinh ngôi sao sáng chói. Cậu bé tự nhủ khi nhìn lên đồi, cây cối, ngôi nhà gần chùa, mọi vật vẫn giống vậy nhưng không vật nào vẫn còn giống vậy.
Mỗi ngày trôi qua chỉ củng cố thêm điều bà hoàng và cậu bé đã linh cảm khi Hoàng thân từ động Thanh Hư trở về. Hoàng thân tiếp tục những buổi dạy học thật lâu trong thư phòng. Giờ đây buổi học mang một chiều kích mới. Bà hoàng ở phòng kế bên, thích theo dõi các bài học, trước tiên bà chỉ thấy trong những yêu sách gần như bệnh hoạn của chồng mà Trãi thường phải hứng chịu, một tính cáu gắt bởi thần kinh của ông bị dao động mạnh. Sau đó, bà mới biết rằng chỉ vì ông quá nhiệt tình. Lòng nhiệt tình tôn trọng lời nguyện thành kính, lời nguyện của ông hoàng đã hứa làm trọn ý muốn sau cùng của con gái. Vì thế bà không can thiệp và cố gắng một cách rất kín đáo khỏi tầm mắt của mọi người làm cho cậu bé quen những cơn cáu kỉnh của ông ngoại cậu bằng cách tăng thêm sự dịu dàng với cậu mà không cho ai trông thấy. Như thế bà đã tạo ra giữa bà và cháu một sự đồng tình có thể so sánh với sự đồng tình đã liên kết bà với Thị Thái vào thời kỳ hạnh phúc khi gia đình còn sống ở kinh đô.
Trãi chưa bao giờ phàn nàn. Nếu có thổ lộ gì với bà hoàng thì đó sẽ là chuyện cậu thích sự nghiêm khắc quá đáng hơn sự xa vắng lạ lùng mà Hoàng thân thường hay biểu lộ. Ông thường bất thần quên đi điều đã làm ông say mê một khắc trước đó, dừng lại nửa chừng đang lúc hùng hồn biện luận, khựng lại những cử chỉ, nín thở nghe ngóng một vật gì đó hay một ai đó mà Trãi không hề nghe thấy, đứng trân người trong một nỗi chờ đợi đau đớn. Chỉ cần một tiếng sột soạt trong cành lá khi trời lặng gió, một tiếng vang trầm từ những tảng đá đằng xa, một sự náo động trong bóng tối... Cùng với thời gian trôi qua, những sự xa vắng chiếm đoạt Hoàng thân càng trở nên thường xảy ra hơn. Chẳng mấy chốc không ai mà không biết Hoàng thân sống trong thế giới vô hình nhiều hơn trong thế giới của kẻ sống.
Từ cuộc thăm viếng của Vô Kỷ, bà hoàng nhận thấy rằng chồng bà đã dần dần lơ là việc viết những bức thư dài cho Thái thượng hoàng già nua, những bức thư mà qua đó Hoàng thân còn cố duy trì một ảnh hưởng nào đó với triều đình. Không lo lắng bận tâm quá mức, bà đã cho rằng lý do của sự cam chịu ấy là vì Hoàng thân thất vọng khi lão đạo sĩ tiết lộ những điều bí mật trong triều, rồi tiếp theo là nỗi buồn phiền và sau cùng vì quy luật tự nhiên đã làm cho vũ trụ của một con người già nua phải thu hẹp lại. Giờ đây, bà hoảng hốt vì bên cạnh bà chỉ là một bóng ma của người bạn trăm năm mà bà đã từng biết rõ. Sáng chiều, bà cầu khẩn Đức Phật, nhờ sư ông trong chùa tụng kinh, van vái con rắn trong miếu để cho một biến cố nào đó đưa chồng bà trở lại mặt đất giữa những người thân cho đến giây phút mà số phận đã tiền định.
Bà tin rằng Trời đã nghe lời bà. Ít lâu sau ngày Tết năm mới, năm con Ngựa (1390) ấy đã được khánh thành bằng một chiến thắng oai hùng của tướng Trần Khát Chân đánh thắng quân Chàm vào ngày hai mươi ba tháng giêng. Trong trận thủy chiến đã nổ ra trên sông Hải Triều, tỉnh Thái Bình, vua Chàm Chế Bồng Nga đã tử trận và đội quân của họ Chế đã bỏ chạy. Bà đã yêu cầu hội đồng hương chức trong làng nhận lời làm cái việc đến thông báo tin thắng trận cho Hoàng thân một cách long trọng. Tươi cười nhưng hững hờ, Hoàng thân tiếp đón họ trên ngưỡng cửa, đưa tay nâng họ lên từng người một và cho dọn rượu cùng thức ăn lên mời họ.
- Ôi! Đâu có được! Cụ lớn thật là mất công hạ cố! - Bọn chức dịch nói thế rồi ăn, uống, nhai nuốt, ợ hơi, khạc nhổ, ca hát thoải mái rồi ra về. Không có chút gì cải thiện và bà hoàng lại tiếp tục cầu Trời khấn Phật.
Sức khỏe của Hoàng thân suy sụp khi dương khí của mùa xuân tràn lan khắp nơi, cỏ ở ao hồ xanh tốt và hoa đào nở rộ. Thỉnh thoảng ông ngất xỉu, như linh hồn đã lìa xác. Gọi hồn rất lâu ông mới tỉnh lại. Dù không chịu bỏ các buổi dạy học, ông phải bỏ các cuộc đi chơi xa băng qua cánh đồng rất có bổ ích cho cậu Trãi. Dù sao ông cũng phải rút ngắn các buổi học. Điều này làm Hoàng thân buồn rầu đến nỗi ông chiều theo ý bà hoàng vợ ông năn nỉ để cho gọi một tay lang băm ở Côn Sơn.
- Bác hãy nói cho tôi biết, chủ bác đau làm sao - tên lang băm nói với bác Phan - rồi tôi sẽ cho thuốc đúng bệnh.
Tên lang băm ấy thuộc loại thầy thuốc cho rằng chẳng cần gặp con bệnh. Nhưng ông ta nhầm, không ngờ rằng người lão bộc muốn kiên trì mời cho bằng được, ông ta thế nào cũng phải tới nhà bệnh nhân, rồi lão sẽ đưa ông về sau khi chẩn bệnh. Đến mức hắn ngồi xổm ở góc nhà, nhất quyết cứ ngồi chờ, đến bao giờ cũng được.
Hoàng thân đã nhượng bộ lời nài nỉ của vợ ông và các bà thiếp đến tiếp lời, một phần vì ông muốn bảo vệ sự hòa hợp giữa vợ chồng, một phần vì ông đã nghe nói về tài phù thủy của tên lang băm, chứ chẳng phải vì muốn để cho hắn chữa ông khỏi bệnh.
- Người ấy chẳng biết bắt mạch. - ông nói với bà hoàng - Anh ta chỉ biết thượng bài hạ sách. Tôi chờ đợi gì ở một anh thầy thuốc chỉ lấy một quyển sách làm thầy mình?
Thay vì thực sự hiểu biết y khoa, thầy lang băm ấy lại biết nhìn thấu qua tâm hồn. Trái với lệ thường là cho toa với liều lượng nhỏ cam thảo để trị ho, hạt cây mã đề và cây ông lãi của Tàu để lợi tiểu v.v... hắn khám bệnh bốn lần mà không chịu cho thuốc xức, không xoa bóp và châm cứu. Mặt tỉnh bơ hắn lái câu chuyện về Lão Tử và Thần Độc Cước37 bởi vì mọi thầy phù thủy giỏi đều có cúng bái. Hoàng thân không phải không biết điều này và thầy lang băm chẳng cần phải tìm người của mình bên ngoài tỉnh. Từng bước một, hắn làm ra vẻ vô tình tiết lộ việc hắn tự hào có một cô hồn38 trong số bà con của hắn, đã từng đem lại bình an cho nhiều gia đình trong vùng.
- Vậy thì ông mời cô ta tới - Hoàng thân vội vã nói, thầy lang băm biết rằng hắn đã "bắt mạch" đúng.
Cô hồn nói trên là một phụ nữ còn đẹp, hơn thế nữa, rất trẻ, vú cao, đúng như câu tục ngữ:
"Gà già khéo lớp thành non.
Gái già khéo ướp gái tơ mất chồng"
Mụ đã nổi danh nhờ miệng mồm khéo đưa đẩy. Nhiều linh hồn đã nhập vào ả, đã khóc với nước mắt ả, đã nói với âm thanh của ả và đã xuất ra khỏi ả để ả rã rời như một cây đàn tì bà mệt nhoài vì đã được tấu quá nhiều.
Hoàng thân thấy ả có vẻ phù hợp với người phụ nữ gọi hồn mà ông chờ đợi, trong khi các bà thiếp thì thầm với nhau rằng ả có thể đòi tiền nhiều vì đã nổi tiếng.
- Không phải thế đâu! - một người thiếp nói - Người ta đã chẳng bảo ả đã già rồi mà còn mặc yếm của thiếu nữ sao? Các chị coi cái yếm bị chật quá kìa.
Và một người thiếp khác đáp:
- Các chị có thấy chị Cả của chúng mình nhìn ả như thế nào không?
Họ lấy ngón tay bụm miệng cười khúc khích dưới con mắt giận dữ của bà hoàng.
Người thị nữ già Tý, người đã ru Thị Thái lúc còn thơ ấu, đem dâng trầu và một món tiền vì bà được xem là người cảm ứng bén nhạy.
Ngay khi cô hồn vời gọi nữ thần Di và thần Chiêu, tiếng nói Thị Thái nhận ra được rõ ràng vọt ra từ miệng ả. Điều này làm bà già Tý kêu thét lên và Hoàng thân muốn xỉu. Tiếng nói không vì thế cảm động hơn. Nó nhất mực cho rằng mình không đáng để người khác làm khổ với những sự khóc than mà ở bên kia cõi chết sẽ là mưa là gió. Khi nàng chỉ mặc áo khoác ngắn bằng mây đỏ và đội mũ cánh phụng. Tất cả những câu hỏi mà cử tọa đặt ra cho "hồn" về cha mẹ, anh chị, chồng con, cô hồn đều trả lời rất chính xác và mỗi câu trả lời đúng, Hoàng thân đều có thưởng. Chỉ có một lần "hồn" nói nhầm và đương nhiên số tiền bị bớt lại.
Hoàng thân cho rằng ông không thể hài lòng với chỉ một lễ gọi hồn. Ả cô hồn ấy đã tỏ ra có tài năng nên ông cho mời ả thêm nhiều lần nữa. Ông đuổi những người tò mò trong nhà, bảo các bà thiếp đứng ra sợ làm phân tâm người ngồi đồng.
Điều ấy làm cho bà hoàng rất bực bội vì ngay từ đầu của cái trò ấy bà đã thấy ả con buôn các hồn người chết có điệu bộ lẳng lơ của một ả từng ở chốn lầu xanh. Dù thế nào đi nữa, bà không để lộ ra điều gì vì sợ các bà vợ khác chế giễu. Vì thế một lúc nào đó, dù bà có chia sẻ tư tưởng của Hoàng thân chăng nữa thì bà lập tức yên tâm. Bởi vì trong nỗi ám ảnh đau đớn muốn liên lạc với con gái, ông hoàng không hề chú ý đến cặp vú của ả cô hồn bày ra như trên một chiếc mâm, hai núm vú đen thẫm và cứng nhô ra như khiêu khích dưới mảnh yếm quá mỏng. Lòng ông bị xâu xé bởi một cuộc chiến đấu lạ lùng giữa một người cha với ước muốn buông trôi theo điều mê tín để tìm an ủi và một nhà nho với ý muốn trung thành với các nguyên tắc của mình. Nhưng ông đã bị mê hoặc, bị rơi vào cạm bẫy khó gỡ của những kỷ niệm. Cả những đồ vật thường ngày nhất, đơn sơ nhất cũng giăng bẫy ông: Thái trong hơi nước trà nóng, trong vị nửa chua nửa chát của miếng trầu, Thái trong ánh sáng dịu của ngọn đèn, trong nét chữ thanh tao, trong bức mành lay nhẹ, sự tươi mát của khóm hoa, tiếng kêu lách cách của đồ sứ...
Lần thứ năm cũng là lần cuối cùng, hồn rất lâu mới hiện về. Hoàng thân nghĩ rằng có lẽ hồn bị mọi người mà ông đã bắt phải đứng xa làm trở ngại. Sau cùng hồn nói.
- Mộng Dũ! Mộng Dũ! - Hồn nói bằng giọng nói mạnh mẽ và quả quyết của cô hồn và chỉ có thế.
Đó là tên của người con trai út của ông đang theo đuổi học hành tại trường Quốc Tử Giám ở kinh đô Thăng Long. Chẳng biết ông hoàng có nghe rõ không! Tên ấy có ý nghĩa gì đặc biệt đối với đứa con gái đã mất của ông mà nàng phải nhắc đến. Làm thế nào ở tận vùng quê hẻo lánh, ả lại có thể biết tên húy của đứa con trai còn đang đi học ấy? Đấy chẳng phải là thêm một chứng cớ về tài năng của ả? Có phải Thái muốn báo trước một nguy hiểm nào đó đang đe dọa Mộng Dũ? Ông đã cho gọi một bà đồng với hy vọng để phá bỏ sự im lặng không thể chịu nổi giữa ông và con gái, thế mà ông chỉ nhận được những câu hỏi mà để trả lời ông càng kiệt sức.
Từ đầu cho tới lúc đó, bà hoàng chịu đựng các buổi gọi hồn, đối diện với cô hồn để ông hoàng có thể tìm được nguồn an ủi. Nhưng giờ đây, khi bà thấy rằng không những ông bị ả mê hoặc, mà cứ mỗi tiết lộ mới lại trở thành một nguyên do mới giày vò ông, bà không còn kiên nhẫn được nữa.
Nhân lúc ông gần gũi thân mật với bà, lúc đến phòng bà uống trà trong giờ giải lao buổi sáng:
- Trời ơi! - Bà kêu to cho hả cơn tức giận, giơ hai tay lên trời. - Loạn rồi! Loạn rồi! - Bà đi qua đi lại trong căn phòng. - Như thế thì đầu óc thằng bé cũng loạn mất! Phúc cho những đứa cháu nào nương nhờ được sự khôn ngoan của ông bà chúng. Tôi, tôi chỉ là một người vụng về và đó do lỗi của tôi, Trãi rồi ra cũng chẳng được trò trống gì!
Hoàng thân hiểu ra, ông uống tách trà, khen hương sen ướp trà thanh khiết và đến tìm Trái trong thư phòng. Cậu bé đang cố gắng suy tư để làm một bài văn nghị luận có tám khổ. Hoàng thân cầm bút lông chấm bài viết của Trãi và giải thích cho cậu biết về phản đề, phép loại suy, cái thực, cái vô thực, cái nghịch lý, cái không nghịch lý, phép nói lửng, nói nửa vời để soạn cho đúng một bài văn nghị luận có tám khổ. Từ lâu nay chưa bao giờ Hoàng thân dạy học với sự kiên nhẫn và hiệu quả như thế. Buổi học chấm dứt, Trãi yêu cầu Hoàng thân cho cậu một đề tài nghị luận mới để ngày mai cậu sẽ đưa cho ông xem.
- Tốt lắm! Tốt lắm! Cháu ạ - Hoàng thân nói - điều này chứng tỏ cháu ham học và chuyên cần. - Ông liền ra đề - Cháu hãy suy nghĩ và cứ dành đủ thì giờ mà làm.
Vào đúng lúc ấy, đôi mắt vốn u buồn của Trãi sáng rỡ lên và Hoàng thân cảm thấy trong lòng khuây khỏa.
Khi cậu bé đi khỏi với bước đi vui vẻ mặc dù cậu đang mặc đồ tang chế, Hoàng thân như nhìn lại Trãi cô đơn và buồn nản trong mấy tuần qua, đang ẩn náu ở tận cuối vườn với một cuốn sách trên tay, và Hoàng thân tự trách mình một cách chua xót.
Ở đầu kia hàng hiên, bà hoàng đang nhẹ nhàng sắp xếp những trái Phật thủ39 vào giỏ bà định đem lên chùa cúng. Ngọn gió mát mùa xuân đưa mùi thơm dịu của chúng đến tận Hoàng thân từng đợt một. Hai mắt lim dim, ông hít thật sâu. Ông đã muốn thu mình lại, dựng các bình phong để chặn các cửa lại và bây giờ các bức bình phong dần dần được cất đi, các cánh cửa được mở ra và nhận ra rằng ở bên ngoài cửa một cậu bé vẫn luôn đứng đợi ông, âm thầm nhắc ông nhớ đến bổn phận. Lồng ngực ông vỡ ra thành một cơn mưa nước mắt và chưa bao giờ ông đã khóc như thế. Dòng suối lệ ấy đã cuốn trôi hết mọi mộng mơ đen tối, mọi ám ảnh, ảo tưởng và khi nó trôi đi rồi, trong con người ông, mọi vật đều trở lại ổn định.
Sau cùng khi mọi việc đáng ra phải trở lại nề nếp, thì cái biến cố mà bà hoàng đã từ lâu chờ đợi và cầu nguyện mong mỏi để đưa chồng bà trở về thực tại đang xảy ra. Ít ra là bà tin như vậy.
Biến cố ấy có hình thức một cuộn giấy tròn cất kỹ trong một ống tre màu trắng được sứ giả đem đến trên lưng ngựa phủ bụi đường, dừng chân một buổi chiều dưới hàng cây trước nhà.
Đó là một bức thư của Thái thượng hoàng Trần Nghệ Tông gửi cho Hoàng thân Trần Nguyên Đán. Trên đường đến cung điện Bảo Hòa ở trên đỉnh núi Lan Kha40, Đức Thượng hoàng đã quyết định rẽ về Côn Sơn để thăm Hoàng thân. Hoàng đế đã biết cái tang không thể nào khuây khỏa nổi và lo lắng cho sức khỏe của Hoàng thân: "Căn bệnh của khanh, ngài viết, phải được chữa trị ngay lập tức".
Một con phượng hoàng đáp xuống mái nhà cũng không gây ra sự kinh ngạc lớn lao như thế. Chỉ một mình Hoàng thân là giữ được bình tĩnh. Ông cho gọi cả nhà lên và yêu cầu mỗi người đem hết lòng hoàn thành nhiệm vụ của mình và giữ mình, tránh gây ra điều gì có thể đụng chạm đến danh dự và hơn thế nữa, tính mạng của vị thượng khách sẽ đến ở dưới mái nhà ông. Về việc chuẩn bị nhà cửa, tiếp tân và yến tiệc sau khi Hoàng đế tới, ông quay về phía bà hoàng:
- Phu nhân quý mến, tôi sẽ nói với bà bằng chính những lời mà Đức Vua đã nói với sứ giả đặc biệt của Ngài lúc sứ giả khởi hành: "Những việc trong hoàng cung, chính ta gánh vác, còn những việc ngoài hoàng cung, ta giao cho ngươi gánh vác".
[←38]
Trung gian để gọi hồn
[←39]
Phật thủ (tay Phật): một loại trái cây thuộc họ cam quýt, quả có nhiều khía trông như bàn tay nắm. Cùi ăn được.
[←40]
Núi Lan Kha, tỉnh Bắc Ninh ở phía Bắc Thăng Long.
[←41]
Hương Cành; một làng nổi tiếng làm nghề sành sứ.
[←42]
Phường Tàng Kiêm, ở kinh đô Thăng Long nổi tiếng về nghề làm áo giáp và vũ khí.