← Quay lại trang sách

Chương 6

Phải đợi mấy ngày sau khi Hoàng đế đã trở về kinh đô, Hoàng thân mới hết dựng tóc gáy lên bên dưới mũ trùm đầu vì tức giận, để nghĩ tới với sự sáng suốt về lời đề nghị kết mối thông gia cùng Lê Quý Ly mà Hoàng đế đưa ra.

Ngay lúc bấy giờ, cuộc giáp mặt giữa hai người trong thư phòng đã cho Hoàng thân hoàn toàn vỡ mộng, niềm hy vọng cuối cùng của ông sụp đổ, thêm vào đó sự tức giận trước cái viễn cảnh một cuộc hôn nhân như thế và sau cùng việc ông bắt buộc phải che giấu những cảm nghĩ đó đã làm cho Hoàng thân mất đi mọi khả năng suy nghĩ. Đến nỗi ít lâu sau chính bà hoàng biết được đề nghị ấy đã nhắc ông nhớ lại những lời của cô hồn. Hoàng thân phải nhớ lại những tiếng "Mộng Dũ" mà con gái họ đã mượn giọng nói của cô hồn để nhắc đến.

- Ông thấy đấy - bà quả quyết - cuộc hôn nhân của Mộng Dũ con trai chúng ta với con bé Ngọc Hoa cũng đã được tiền định như cuộc hôn nhân trước đây của Thái, con gái chúng ta với chàng rể Nguyễn Phi Khanh. Đó là điều nhắn nhủ mà con gái chúng ta gửi đến từ chốn Cửu tuyền. Lời đề nghị của Hoàng thượng xác nhận thêm điều đó. Xin ông hãy bớt giận. Điều được tiên báo phải đến.

Về phần Hoàng thân, ông không tin chắc như thế.

- Điều mà bà không thấy là chuyện "lá thắm chỉ hồng" - ông đáp - có lẽ ẩn chứa một mối nguy hiểm mà con gái chúng ta muốn báo trước. Bà đừng quên con người đã đưa ra đề nghị ấy là ai. Thật là quá quắt, chỉ nghĩ đến người ấy tôi cũng phải xấu hổ đến đỏ mặt!

Sau những lần suy nghĩ và bàn bạc với vợ, Hoàng thân cũng dần dà tìm lại được sự bình thản. Khổ nỗi, cùng lúc, dường như sự tức giận ấy đã thiêu hủy chút sức tàn của ông. Ông cảm thấy sức khỏe suy sụp, những cơn nghẹt thở lại xuất hiện. Anh lang băm tuyên bố rằng quế và cây phụ tử không thể dùng được nên đã chuẩn bị cho ông những vị thuốc chưng cách thủy thêm vào đó nhiều chất mà anh ta giữ bí mật. Môn thuốc đem lại một sự cải thiện nhất thời sau đó và Hoàng thân khỏe lại để điều hành các công việc.

Giờ đây, cơn tức giận của ông không còn là một thân cây che mắt ông không cho ông thấy cả khu rừng, ông trở lại với việc đánh giá chính xác hơn về hoàn cảnh, với sự giúp đỡ của bà hoàng là người có tấm lòng ngay thẳng, và phán đoán thường sáng suốt.

Theo sự phân tích của hai ông bà, rõ ràng là cuộc thăm viếng của hoàng đế Trần Nghệ Tông không chỉ xuất phát từ một tình bạn cố cựu nhưng đúng ra còn nhằm một sứ mạng không có chút gì vô tư. Trần Nguyên Đán không thuộc dòng nội thân trực hệ trong hoàng tộc sao, mà Lê Quý Ly thì chỉ là hàng ngoại thích. Còn gì hơn là làm thế nào để cho Hoàng thân Trần Mộng Dũ kết hôn với một cô con gái của Lê Quý Ly nhờ đó trói buộc Lê Quý Ly vào triều đại nhà Trần? Một mặt, như Hoàng thượng đã khẳng định. Ngài tưởng thưởng cho gia đình Hoàng thân "Một chi hệ danh tiếng của hoàng tộc chúng ta" đối với lòng trung thành phục vụ qua việc giúp Hoàng thân kết thông gia với nhân vật có nhiều quyền lực nhất trong nước và mặt khác, Hoàng thượng cũng tác động trên chính lòng trung thành ấy để rồi sau cùng Hoàng thân chấp thuận cuộc hôn nhân vì quyền lợi Quốc gia. Mặc dù, năm năm gần đây, Hoàng thân tự nhủ, Thái thượng hoàng có suy yếu nhiều, nhưng nhà vua vẫn còn giữ được phần nào tính quỷ quyệt ngày xưa thích thăm dò người khác. Thành ra việc nhà vua làm bộ ngây thơ yêu cầu Lê Quý Ly nắm hết mọi việc trong nước càng minh họa cho Hoàng thân thấy vua Nghệ Tông ít tin tưởng vào quan Thái Sư hơn là việc ông này gắn bó với triều đại. Mặc dù vua Nghệ Tông có vẻ suy yếu, không quyết đoán và giống như một đứa trẻ con già lão, bị Lê Quý Ly hoàn toàn khuất phục, Hoàng thân nghĩ rằng ông vua già ấy mặc dù, hay đúng hơn là, chính vì đã hết lời ca ngợi Lê Quý Ly, không phải là không biết tầm mức của điều nguy hại và đang thử thi hành một biện pháp cứu vãn khẩn cấp nhưng sẽ không đem lại bao nhiêu tác dụng.

- Dĩ nhiên không đem lại hiệu quả gì cho tương lai của triều đại - bà hoàng bác bẻ - nếu như mệnh trời đã hết, nhưng không phải không có hiệu quả cho tương lai của gia đình ông và con cháu ông. Các nguyện vọng của Hoàng thượng là những mệnh lệnh che đậy kín đáo. Ông hãy nghĩ đến Mộng Dũ và những đứa con trai khác của ông đang ở kinh đô. Ông cũng hãy nghĩ đến Trãi. Phu quân yêu quý, ông hãy chấp thuận cuộc hôn nhân ấy đi. Bởi vì theo tuổi của đứa con gái ấy thì số tử vi của chúng tương ứng với nhau.

Đó là ngày mùng năm tháng Ba, như mọi năm, vào thời kỳ này của tiết Thanh minh, thời tiết thanh quang. Cho rằng mình còn nhiều sức khỏe, Hoàng thân đứng ra lo việc quét dọn sạch sẽ phần mộ tổ tiên, ông đắp thêm đất vào vì mùa nước lũ đã cuốn trôi đi, ông không cho ai giúp ông. Ông đã nói những chuyện gì với thế giới của những nấm mồ? Tuy nhiên khi trở về nhà mệt lử, ông đã quyết định: ông chấp thuận.

Lúc đi đường, ông lẩm nhẩm bản kinh Pháp Cú47 và ông tự gán cho chính mình những lời kinh. Là con người, ông đã mê mẩn trong vòng trói buộc của vô minh, bị mộng ảo làm mờ mịt. Trong vô minh và mộng ảo đó, ông đã dựng lên một cái Tôi giả trá, tạo ra một thế giới ảo tưởng của Dục vọng vốn chỉ sinh ra Đau khổ. Nhưng như Đức Phật đã nói, chỉ có thể chấm dứt khổ đau "bằng cách chấm dứt mọi ái dục mà ngươi mang trong mình và cởi bỏ khỏi lòng ngươi những đam mê cuối cùng còn sót lại. Như thế ngươi sẽ sống bên trên các thần linh."

Bằng việc kết thông gia với Lý Quý Ly, ông xua đuổi ra khỏi lòng mình ác ý, lòng tham lam, giận dữ và thù hận. Cuối cùng thì trong cuộc đời này phải chăng Lê Quý Ly chính là nghiệp dĩ của ông? Nhưng cho đến nay con người của Lê Quý Ly ám ảnh ông ít hơn là cái quyền lực vô hạn mà ông ta nắm giữ, cái quyền hạn mà nếu vào tay Hoàng thân Trần Nguyên Đán hẳn sẽ được sử dụng tốt hơn nhiều. Nếu Trời muốn điều ấy thì ông sẽ là một Trần Thủ Độ với năng lực kiến tạo và là một Lý Thánh Tông với lòng thương xót nỗi khổ của nhân dân, mà điều này mới là điều duy nhất đáng kể đối với một người cầm quyền. Từ nay, Hoàng thân cảm thấy ông đã đụng đến ranh giới nơi mà những ước mơ của ông bị đẩy lùi về một thời dĩ vãng đã qua rồi! Để mãi mãi chôn vùi tất cả ở đất Thăng Long, nơi mà những âm mưu đã được toan tính và sẽ còn tiếp tục được toan tính bởi những con người đầy ắp dục vọng, khao khát quyền hành và đắm chìm trong ảo tưởng khủng khiếp của đời sống. Cuộc sống ấy chỉ là một cơn hấp hối đau đớn kéo dài. Tuy nhiên nếu con đường mà ông theo là con đường Đạo thì ông cũng tin chắc rằng ông khác với Atangana bạn ông. Ông vẫn chưa thoát khỏi kiếp luân hồi. Trong một kiếp sống mới, ông còn phải vượt qua bốn chặng đường48 cuối cùng mà vượt qua được, đến đây Hoàng thân lẩm nhẩm: "ngươi sẽ tới chỗ đủ sức chiến thắng khát vọng sống trên cõi đời này, khát vọng muốn lên đến cõi Thiện, chiến thắng các mê lầm và lòng kiêu mạn của ngươi nghĩ mình đã tiến xa trên con đường thánh thiện, ngươi sẽ rất gần Niết Bàn."

Trong những ngày sau đó, ông thu xếp các công việc. Một sứ giả mang thư phóng ngựa gấp đến trạm, mang theo một bức thư cho Thái thượng hoàng. Trong thư kẻ bề tôi tận tụy là Hoàng thân Trần Nguyên Đán khiêm cung xin Hoàng thượng sau khi đoái thương quan tâm đến đề nghị ấy, xin vui lòng báo cho Hoàng thân Lê Quý Ly biết sự chấp thuận của hạ thần. Cùng lúc, ông cũng báo tin cho con trai út, Hoàng thân Mộng Dũ, biết ông đã chọn ai làm vợ cho chàng.

Hoàng thân phải mất năm tuần mới nhận được thư hồi đáp của Hoàng đế, vì trong thời gian ấy Ngài đã rời khỏi điện Bảo Hòa để trở về kinh đô. Trong bức thư này nhà vua bày tỏ sự hài lòng bằng việc ban cấp cho gia đình Hoàng thân những đất đai thế tập.

Sau đó, Hoàng thân viết thư cho người con trai trưởng ở Thăng Long lúc ấy là bí thư thứ ba Giám sát viện để ông này thay mặt Hoàng thân sắp xếp và chuẩn bị sẵn sàng hôn lễ. Như phái những người mai mối mang các lễ vật truyền thống đến nhà Hoàng thân Lê Quý Ly để cầu hôn con gái họ Lê và định ngày lành, giờ tốt để tổ chức hôn lễ, v.v... Về việc này, Hoàng thân gửi kèm theo bức thư một món tiền cả trăm lạng để trả công cho người mai mối và mua sắm đồ nữ trang bằng vàng, bạc, ngọc thạch, ngọc trai, gấm vóc và thực phẩm cho gia đình cô dâu. Tóm lại, Hoàng thân giao cho con ông được tự do quyết định với tư cách là trưởng nam.

—★—

Xen kẽ với các cơn bệnh là những thời kỳ bình phục nhưng sức khỏe của Hoàng thân vẫn tốt cho đến ngày cử hành hôn lễ của Mộng Dũ, ngày mùng Chín tháng Tám, và sau đó ít lâu ngày cậu trúng cử trong kỳ thi. Rồi mùa mưa lại đến, đất đai ngập nước, cây cối nổi trên mặt nước như tấm gương chìm khuất trong đám sương mù màu xám và từng hàng người nông dân gồng gánh mang đất đến cứu những đoạn đê bị sụt lỡ, Hoàng thân ngã bệnh và không bình phục được nữa.

Hơi thở của ông bị tức nghẹn, mặt ông bị sung huyết và ông phải ngồi mỗi khi khó thở. Bà hoàng và Trãi thay nhau ngồi ở đầu giường, nài nỉ ông uống thuốc nhưng ông từ chối.

- Tôi đã sống hết đời tôi rồi.

Ông quay đầu trước chén thuốc mà những bàn tay ân cần đưa cho ông.

Van khóc, năn nỉ, khuyên bảo, tất cả đều vô hiệu.

Giống như cơn mưa mà gió mùa đem tới chảy trên mái nhà, sự sống của Hoàng thân, từng giọt một, mỗi ngày một cạn dần. Sống hay chết không còn làm Hoàng thân quan tâm nữa.

Nghe bà hoàng kêu gào: "Tại sao ông lại từ chối, làm cho lòng tôi tan nát?", ông chỉ còn biết mỉm cười độ lượng như một người đi xa và đã đi xa rồi, đồng thời lại thấy vui vui tự hỏi người ta làm thế nào mà giữ mình lại được nhỉ? Bởi vì suốt bao năm sống chung, Hoàng thân đã biết cách hiểu rõ vợ ông nên ông cố làm cho bà nản lòng.

- Một đời người có thể kéo dài trăm năm. Nhưng rồi cuối cùng cũng phải chấm dứt nó bằng cái chết.

Có nói cũng vô ích. Nếu bà không thể cứu chồng bà với sự đồng ý của ông thì bà sẽ chạy chữa cho ông mặc dù ông không muốn. Và bất cứ biện pháp nào cũng tốt cả! Vì bà Tý bảo đảm rằng người ta có thể trị cơn khó thở bằng cách đốt một miếng ván quan tài đã mục dưới giường người bệnh, bà đặt mua một tấm ván như thế, chính tay bà đốt và xông khói cho Hoàng thân cho đến lúc tấm ván cháy hết, trong khi ông nhìn bà làm mà lắc đầu. Bà cho gọi gấp những người trong gia đình ở xa về. Bà yêu cầu các con bà đang giữ những chức vụ cao ở kinh đô xin nghỉ phép đặc biệt và cùng vợ con họ trở về Côn Sơn chỉ với mục đích là ép buộc cha ruột, cha chồng và ông của họ phải uống thuốc. Khi tất cả mọi người tụ họp trong phòng của người bệnh, bà hoàng ra dấu cho người con trai trưởng dâng thuốc cho Hoàng thân:

- Thưa cha, các con của cha đã về. Cha nên uống thuốc này. Lẽ nào cha lại muốn làm con cháu của cha khổ tâm đến thế sao?

Các cô con dâu trong đó có Ngọc Hoa mà Hoàng đế Nghệ Tông không quá lời khi ngợi khen sắc đẹp của nàng, đều tỏ cử chỉ ân cần và nài nỉ ông uống thuốc.

Ông nhìn hết mọi người thật lâu, từ người nọ sang người kia: các con trai ông chưa kịp thay y phục đi đường và rửa mặt. Họ quỳ gối chờ đợi thành một vòng xung quanh giường, các con gái và con rể tái xanh sau một cuộc hành trình dài, các đứa cháu quấn quýt bên chân mẹ chúng, rụt rè mút ngón tay, các bà vợ của ông mắt đỏ hoe. Còn Trãi, thằng Trãi của ông mặc đồ tang bên cạnh bà hoàng mệt lử vì những đêm thức trắng. Phan và Tý đứng đằng xa khóc lóc. Mọi người chờ đợi.

Hoàng thân đẩy xa chén thuốc mà người con trai trưởng đưa cho ông.

- Này các con ta, các con sẽ được ngợi khen vì lòng thành khẩn của các con. Nhưng đồng hồ đang nhỏ những giọt cuối cùng. Các con đừng than vãn và nuối tiếc gì. Trong tình hình hiện tại của đất nước, các con nên biết rằng cha coi cái chết như một ân huệ Trời ban. Có nên yêu cầu cha sống tiếp để chịu đựng bất hạnh sa cơ không?

Nói đã hết hơi, ông ngã vật trên gối dựa.

Các con ông, đưa mắt nhìn nhau dò hỏi, nghiêng người chào ông và rút lui vào gian phòng bên cạnh.

Còn lại một mình, bà hoàng òa khóc:

- Phu quân yêu quý, tại sao lại tuyệt vọng như thế? Nếu ông không thể sống vì đất nước quê hương, ông không thể ráng sống thêm chút nữa vì tôi và các con sao?

Những giọt nước mắt của bà to như hạt đậu rơi xuống trên bàn tay trắng muốt của Hoàng thân.

Ngày hôm sau, các người con trai Hoàng thân bàn bạc với nhau.

- Tôi e rằng - người con trai trưởng cau mày nói - phụ thân kính yêu của chúng ta trong lúc này không còn đủ sáng suốt. Bổn phận của chúng ta là thuyết phục cha chịu để cho người nhà chạy chữa. Nếu chúng ta làm cho cha lấy lại đôi chút sức lực, có lẽ lúc đó cha sẽ cảm thấy thích sống. Sao chúng ta lại cứ đứng khoanh tay mà không thử làm một cái gì đi?

Tất cả tán thành.

- Anh Cả, anh đề nghị điều gì nào?

Người anh cả nhìn họ không trả lời. Trường hợp khó khăn nhất mà anh phải giải quyết trong phần việc của quan ngự sử bỗng nhiên đối với anh có vẻ như một trò chơi trẻ con so với vấn đề của cha anh, con người mà ngày xưa không ai có thể làm gì nổi, giờ đây lại quyết định để cho mình chết đi vì những lý do hoàn toàn anh không hiểu nổi. Ông ta không ngừng giật bộ râu mới mọc ở tuổi ba mươi lăm của anh.

- Anh Cả à, còn ai hơn chúng ta, tất cả chúng ta đều muốn hành động nhưng không một ai trong chúng ta biết làm gì kể cả anh - Mộng Dũ nóng nảy nói - Nếu mẹ đã năn nỉ hết lời và dùng đủ mưu mẹo, nếu chúng ta đã về đây và đã cùng nhau cố nài cha uống thuốc nhưng không thắng được sự cương quyết của cha thì chúng ta còn nhờ phương thế nào để hy vọng thành công?

- Mặc dù ý kiến này không phù hợp với truyền thống đã chỉ định, anh Cả của chúng ta có toàn quyền quyết định trong công việc của gia đình - anh Hai đề nghị với sự rào đón tỉ mỉ của một ông quan Tham Tri Bộ lễ - Chúng ta có thể thử nhờ đứa cháu của chúng ta là thằng Trãi can thiệp làm thay đổi ý định của cha được không? Thằng nhỏ này hứa hẹn một sự nghiệp lớn lao, người ta nói nó đã có một kiến thức quảng bác và sự thông minh sáng chói, hơn thế nữa, người mẹ quá cố của nó là con gái cưng của cha. Thằng bé này làm sứ giả thì tốt nhất vì nó là học trò của cha và lúc nào cũng yêu mến cha!

- Thằng bé này - anh Ba phản đối - gặp cha và nói chuyện với cha hàng ngày, làm sao mà không nghĩ rằng nó đã nhiều lần thử làm cha đổi ý?

- Tôi không chắc điều đó đâu - Mộng Dũ nói. - Hôm qua tôi đã quan sát nó, nó chẳng có được một cử chỉ, một lời nói nào. Nó chỉ ngồi ngó ông ngoại nó, mặt sa sầm không phải vì đau khổ mà vì tức giận.

- Này em út, chính mắt em thấy như vậy à? - anh Cả nói - Tại sao không gọi thằng Trãi và bảo nó xem.

Họ vẫn còn nhớ đến thằng nhỏ có mớ tóc bù xù lúc nào cũng níu theo sau áo ông hoàng. Từ ngày hôm qua, họ cảm thấy khó mà tìm lại hình ảnh dịu dàng của tuổi thơ ấy, mới cách đây vài năm, nơi cậu thiếu niên gầy và cao để tang mẹ một cách dữ dằn, đôi lông mày giao nhau, khuôn mặt đẹp cân đối và đôi bàn tay thon mảnh chứng tỏ rằng đây là một thiếu niên khác thường. Nếu cái nhìn sâu sắc của nó không chứa đựng một nỗi u sầu khôn tả thì hẳn họ sẽ không nhận ra con trai cả của em gái họ là Thị Thái.

Nguyễn Trãi dừng lại ở ngưỡng cửa phòng khách và định quỳ gối khi thấy các bác và chú của mình đang họp bàn, nhưng họ đã miễn lễ cho cậu và cho phép cậu bước vào. Khi cậu biết người ta chờ đợi gì ở cậu, cậu im lặng một lúc lâu. Các chú các bác cậu đã cau mày khó chịu, sau cùng cậu quyết định nói:

- Các bác, các chú - cậu nói - đã có lòng độ lượng muốn quên kinh nghiệm còn non nớt của cháu. Bằng cách nào cháu có thể hy vọng thành công trong công việc mà với tài năng và tình thương mến, các bác, các chú không thành công được? Người ta thường nói rằng đời người giống như đóa hoa trên cành, sinh ra, lớn lên rồi tới ngày đã định héo tàn và không ai có thể thay đổi quá trình ấy. Cho dù các bác, các chú có thuyết phục ông ngoại chịu để cho người ta chữa trị, đem lại cho thể xác ông ngoại thêm một mùa xuân ngắn ngủi thì tâm hồn của ông cũng giống như chiếc lá cuối cùng run rẩy trong cơn gió bấc.

Mộng Dũ chỉ tay vào cậu như kết tội. Ông thừa hưởng tính dễ nổi giận của Thị Thái, chị ông.

- Này cháu, có phải chú đã nghe cháu nói cháu thản nhiên chấp nhận ông ngoại chết không đấy? Lòng hiếu thảo của cháu ở đâu?

- Các em hãy để cho nó nói hết đã - anh Cả chen vào. - Nói đi, Trãi!

Trước cơn thịnh nộ của người lớn, cậu bé như tê dại đi, xương hàm cậu cúp lại. Một sức mạnh lạ lùng, kỳ quặc làm ánh mắt bực tức của cậu cháy bỏng.

- Nói đi cháu - anh Cả lặp lại - nói thoải mái đi!

- "Những biến cố sắp đến trùm cái bóng của nó tới trước", kinh Dịch đã nói như thế. Cái bóng ấy đã phủ lên ông ngoại. Ông đã nói với cháu là ông biết rằng nước Đại Việt sẽ gặp những giai đoạn đau thương mà ông không muốn nhìn thấy. Các chú, các bác có dám giữ ông lại mặc dù ông không muốn không?

- Sao mày dửng dưng với cái chết của ông mày vậy? - Mộng Dũ tức giận lấy các anh mình làm chứng.

Mọi người lắc đầu ra dấu đồng tình. Anh Hai vốn luôn chấp hành đúng mọi nghi lễ cảm thấy lòng dạ nóng ran khi nghe cậu bé dạy đời và hối tiếc sáng kiến tồi tệ của mình. May thay, người anh Cả đem lại sự bình tĩnh:

- Chúng ta đã yêu cầu cháu nó cho ý kiến, nó đã tự do phát biểu. Chúng ta thật vô duyên khi giờ đây lại quở trách sự thẳng thắn của cháu nó. Mặc dù anh không hiểu biết cũng không chia sẻ quan điểm của nó, nhưng sẽ công minh hơn - ông quay về phía đứa em út Mộng Dũ nói tiếp - khi chúng ta nói về Trãi, đến lòng kính trọng ý muốn của cha là thầy nó và không phải là sự dửng dưng lạnh nhạt - ông đặt bàn tay trên vai Trãi với một cử chỉ âu yếm và bảo vệ như bàn tay của Hoàng thân, cha ông - Tuy nhiên, tôi yêu cầu nó cố gắng thực hiện phương pháp cuối cùng với niềm xác quyết thắm thiết mà nó có khả năng có được. Cháu của bác, cháu có muốn vâng lời ta không?

Trãi ngước mắt về ông với cái nhìn thật trang trọng.

- Bác Cả ạ, cháu của bác sẽ vâng lời bác - cậu nói.

Cậu cúi đầu kính cẩn và rút lui.

—★—

Đối với Hoàng thân, đốt hương trong ngôi nhà yên tĩnh luôn luôn là thú thanh tao những lúc làm thơ và suy ngẫm. Làn hương thơm dịu quyện xung quanh Trãi ngay khi cậu bước vào phòng ông ngoại cậu. Có một lúc, cậu có ảo giác trở lại thời kỳ hạnh phúc khi Hoàng thân không có ý nghĩ ông phải chết. Nhưng từ nay, lư hương có chạm trổ chim phượng hoàng đã lạnh tanh. Từ khi Hoàng thân ngã bệnh, bà hoàng đưa các đồ thờ ra bên ngoài phòng gần hai bức bình phong bằng gỗ hé mở đủ để Hoàng thân hít thở mà không bị khói làm cho khó chịu. Ở một góc xa xa, bà đặt một lò than để sưởi vì trời đã cuối đông.

- Cả cháu nữa, đến lượt cháu cũng quấy rầy và cầu xin ông uống thuốc, Hoàng thân quở trách cậu bé ngay khi cậu đến quỳ bên cạnh ông.

Cậu bé mỉm cười phủ nhận lời ông.

Cậu buồn bã lắc đầu. Nước da của Hoàng thân càng thêm xanh xao, đầu sóng mũi ông bị móp vào và tím ngắt, hậu quả do chứng bệnh gây ra, những sợi râu cằm dài nay đã bạc trắng và hơi thở bị nghẽn lại làm ông vô cùng mệt nhọc.

- Ông ngoại ơi - Trãi nói với giọng rõ ràng trách móc - tại sao ông lại bỏ cháu? Chẳng nhẽ ông không còn yêu cháu sao? Ông không còn yêu đất Côn Sơn sao? Tại sao lại bỏ cháu một mình?

Hoàng thân quay nhìn đứa cháu, khuôn mặt ông có vẻ bình tĩnh và thanh thản như mặt nước hồ thu.

- Trước hết - ông nói với giọng yếu ớt nhưng cương quyết - cháu sẽ không ở một mình. Bổn phận làm con và làm anh Cả đang chờ cháu ở Nhị Khê. Cha cháu là một nhà nho uyên thâm và là một nhà giáo dục xuất sắc sẽ giúp cháu hoàn tất việc học. - ông lấy lại hơi thật lâu - Cháu cần có một người thầy nghiêm khắc và biết đòi hỏi nhiều. Ông đã quá rộng lượng với cháu. Nước Đại Việt ta đang hấp hối chỉ vì chúng ta nhu nhược, bỏ bê những nguyên tắc, không chịu từ bỏ thứ gì, bất tài, nhỏ nhen - Ông để rơi đôi bàn tay trắng nuốt của ông xuống chăn. - Chúng ta để cho mọi việc ra sao thì ra. Chúng ta đã thỏa mãn với những điều phù phiếm chứ không phải điều cốt yếu. Những con người có tài bị gạt bỏ khi đất nước đáng lẽ phải được cai trị tốt hơn. - Ông ngừng nói một lúc lâu - "Tác giả của Kinh Thi lấy làm tiếc không thể không nói, còn Đức Khổng Tử nói rằng ông lấy làm tiếc không thể đi ở ẩn được". Khi thấy những lời khuyên của mình không được thi hành, Đức Khổng Tử lui về và viết Kinh Xuân Thu. Về phần ông, ông còn làm gì được - Hoàng thân nói tiếp trong một hơi - nếu không chết theo cùng một lúc với sự suy vong của đất nước..

Trãi bám chặt lấy một bàn tay của Hoàng thân.

- Nhưng, thưa ông, ông còn biết bao nhiêu điều để dạy cho đứa học trò của ông. Biết bao nhiêu câu hỏi vẫn chưa được trả lời vì cháu còn quá trẻ.

- Cháu Trãi - Hoàng thân nhướng cặp lông mày lên và nói - đây là lúc thuận tiện. Có câu hỏi nào mà ông không trả lời cho cháu?

- Ông ngoại ơi, ông ngoại không thể chờ cho cháu lớn thêm chút nữa sao? Cháu xin ngoại mà.

- Đừng phí thời gian cháu Trãi ạ. Cháu cứ hỏi đi.

- Thưa ông ngoại, người ta chẳng nói rằng nếu một hiền giả lên ngôi thì vũ trụ sẽ được hài hòa. Ngoại đã hứa sẽ nói với cháu điều đó, ngoại có nhớ không? Thật ra sự hài hòa là gì? - Cậu bất đắc dĩ phải hỏi.

- Câu hỏi này quả thật là mênh mông! Nói với cháu thế nào nhỉ? Sự hài hòa mà cháu nói là sự hài hòa xã hội có được nhờ uy phong của các bậc hiền nhân tạo nên sự quân bình hoàn hảo giữa Âm và Dương, và đem lại Thái bình. Nhưng sự hài hòa phải chăng cũng có trong chiếc thuyền đang lướt sóng trên những con giao long tiến về Côn Sơn đó sao? Trong những cuộc dạo chơi tìm tòi kiến thức của chúng ta? Trong vẻ đẹp của buổi hoàng hôn trên mặt hồ với tiếng ca và tiếng đàn cầm của cháu? Sau này cháu sẽ cảm thấy sự hài hòa trong vẻ cân đối của một bài thơ, của một bản nhạc hay của đường nét trong một chữ viết đẹp. Vì thế cháu phải làm việc nhiều hơn nữa để củng cố tài năng của cháu. Thời gian gần đây ông cháu mình đã quá sao nhãng! - Ông chờ cho hơi thở dịu lại trong khi Trãi bối rối cúi đầu - Còn câu hỏi thứ hai của cháu?

- Thưa ông ngoại, Đức Khổng Tử nói về con người quân tử trong sách Luận Ngữ: "Đó là người không giảng dạy điều phải làm nếu chưa làm được điều mình thuyết giáo". Định nghĩa này có thể có mối liên hệ với lòng nhân thứ không?

Đúng lúc đó, Hoàng thân thấy lại khuôn mặt của nhà sư Atangana. Không phải khuôn mặt nồng nàn và xuất thần trong tuổi già và minh triết mà là khuôn mặt bị giày vò trong lần gặp gỡ đầu tiên của hai người.

- Cháu biết chứ, lòng nhân thứ chính là chỗ đó! Đức Khổng Tử còn nói: "Trong những việc thế gian, người quân tử không có thái độ phủ nhận hay chấp nhận cứng ngắc. Trung dung là mẫu mực của người ấy". Cũng thế, trong các mối quan hệ với người khác, trước khi phê phán, cháu phải luôn luôn tự hỏi chính cháu đã làm hết sức mình chưa, đã chân thành và đã có thể có quyền phán xét được chưa. Sau cùng, cháu phải noi theo Đạo mà Đức Phật đã vạch ra. Đạo ấy là Pháp duy nhất dẫn con người đến giải thoát nhưng những con đường đưa đến Pháp thì rất nhiều. Cháu hãy tôn trọng mọi con đường ấy!

Người bệnh cầm bàn tay cậu đưa lên môi. Nguyên khí của ông phập phồng trong lồng ngực như con chim bị nhốt vỗ cánh lên rồi rơi xuống.

- Điều tệ nhất trong cái chết đang đến này - ông thì thào - là nó được cảm thấy qua hơi thở tắt dần.

- Ông ngoại ơi - Trãi nói - cháu đã làm mệt ông, cháu xin lui ra.

- Hãy ở lại - Hoàng thân thì thầm mà đôi mắt vẫn nhắm - Cháu còn một câu hỏi cuối cùng phải không?

Trãi mãi chăm nhìn vào lồng ngực của Hoàng thân, theo dõi những cố gắng của con chim bên trong lồng ngực, tung cánh lên, sắp sửa bay, nhưng thình lình rơi xuống lại. Cậu không dám nói.

- Thế nào? - Hoàng thân hỏi rất nhỏ.

- Một ngày nọ, ông ngoại đã nói với cháu về sức nặng của cái chết. Người ta nhận biết cái chết đang đè nặng lên mình qua những dấu hiệu nào?

Hoàng thân mở mắt ra, nắm lấy tay của cháu ông trong bàn tay mình.

- Cháu ạ, cháu sẽ đo lường sức nặng của cái chết nơi một con người bằng nỗi đau khổ mà dân đen sẽ phải chịu đựng…

Bởi lẽ những người nghèo khó ấy qua cả cuộc đời khốn khổ, cháu thấy đó, nếu họ còn có nước mắt để khóc ai thì họ đã khóc hết rồi, cuộc sống của con người ấy quả là nặng như núi Thái Sơn. Ngay sau đó, Hoàng thân nói tiếp thật thấp đến nỗi cậu bé phải ghé sát vào đôi môi ông, "bóng tối chốn tuyền đài" ông sắp đi gặp tổ tiên... Lúc nào cháu cũng phải hành động để mẹ cháu và ta tự hào về cháu. Hãy hướng dẫn cuộc đời cháu...

Yêu điều thiện... Yêu hòa bình... Đức nhân ái... Cháu sẽ trở lại Côn Sơn, lúc đó ông không còn ở đây nữa nhưng cháu sẽ đến hương khói nơi ngôi miếu, cháu... các con của cháu... và sau cháu là đến lượt các con của cháu. Phải không nào?

- Vâng, thưa ông ngoại - Trãi nói giọng nghẹn ngào.

Cậu vẫn còn lặp lại "Vâng, thưa ông ngoại" khi cậu đã ra tới dòng suối trên đồi cao. Thình lình cậu dừng lại, xem mình đang ở chỗ nào rồi thổn thức run rẩy, ngã khuỵu xuống mặt đất đấm nắm tay vào tảng đá bàn mà cậu và Hoàng thân thường hay ngồi mỗi lúc hoàng hôn xuống.

* * *

Những người con của Hoàng thân trong cơn xúc cảm sâu xa, vẫn còn tìm cách buộc ông phải chữa bệnh. Vào đầu tháng mười một, Hoàng thân lại từ chối luôn cả ăn uống. Lập tức căn bệnh trở nên tồi tệ. Nhiều lần ông đã ói ra máu.

Trong đêm mười bốn, người vợ cả canh thức ở đầu giường Hoàng thân. Những ngọn đèn thắp sáng đặt ở nhiều nơi. Đằng sau bức bình phong mở rộng trước cửa ra vào, bỗng Hoàng thân thấy tiến tới hai vị đại quan mà không hề cho người báo trước, họ đội mũ, mang đại lễ phục, cầm một quyển sổ. Ông lấy ngón tay chỉ họ cho bà hoàng.

- Phu quân ơi, bình tĩnh lại đi, chỉ có chúng ta thôi - bà nói và lấy quạt, quạt mát vầng trán ông.

Tuy nhiên hai viên chức đã tới gần và theo đúng lễ nghi đưa cho ông quyển sách trong đó có ghi một danh sách dài những tên người, tất cả đều được đánh dấu son.

Hoàng thân còn kịp đọc thấy trong sách tên của Trần Quang Khải, con trai thứ hai của Hoàng đế Trần Thái Tông làm Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh Vương, người đã từng đánh thắng tướng Mông Cổ Toa Đô và là tằng tổ của Hoàng Thân; tên của Đạo Tài, tổ của ông thi đậu Bảng Nhãn năm mười bốn tuổi; tên của cha ông Vân Bích phong chức Nhập nội Thái bảo... Tên cuối cùng được đánh dấu đỏ thắm là tên ông.

Bên cạnh cái tên ghi rõ tuổi thọ của ông, sáu mươi lăm tuổi cũng như giờ, ngày, tháng, năm của những biến cố quan trọng trong cuộc đời ông như việc ông được phong chức quan Tư Đồ tháng chạp năm 1370; việc ông tha thứ cho Nguyễn Phi Khanh và bằng lòng cuộc hôn nhân ngày mười bốn, tháng ba năm Canh Thân đời Trần Phế Đế (1380), ít lâu sau ngày sinh của Nguyễn Trãi; việc ông về ở ẩn vào tháng Bảy năm ất Sửu (1385); ngày con gái ông Thị Thái chết tức ngày mùng một tháng tám năm Kỷ Tỵ (1389). Ngày cuối cùng ghi trong sách là ngày mười bốn tháng mười một năm Canh Ngọ (1390).

Ông muốn trả cuốn sách lại cho hai quan chức nhưng họ đã biến mất còn bàn tay ông trống không.

Tuy nhiên, Hoàng thân hiểu rằng điều ông vừa đọc chính là trát đòi ông hôm ấy phải ra trình diện tại âm phủ và hai người mang trát là hai vị quan trông nom sổ sách sinh tử của nhà Trời. Ông chờ trời sáng, khi bình minh ló dạng, ông đánh thức vợ dậy, lúc ấy bà đang thiu thiu ngủ:

- Phu nhân thân yêu, đêm qua người ta đã báo cho tôi biết rằng tôi đã tới hạn. Ngày hôm nay là ngày tôi ra đi. Bà đừng khóc nữa. Lời hẹn non thề biển với bà tôi đã giữ tròn. Tôi cảm ơn duyên số tốt đẹp đã gắn bó hai ta, đã liên kết hai ta trong nghĩa trúc mai, trong tình sắt cầm hòa hợp. Chúng mình sẽ còn tái hợp trong kiếp khác. Bây giờ bà hãy mặc cho tôi áo tang, cho gọi các con tôi và mời nhà sư đến.

Khi các người con bước vào phòng, thấy cha họ mặc lại áo dài gấm, một mảnh lụa trắng đặt trên ngực, họ hiểu ngay và òa lên khóc. Hoàng thân ra dấu bảo họ đến gần. Họ ghé tai vào miệng của người sắp chết, họ lắng nghe và ghi chép những lời trối trăn:

"Nam mô A Di Đà Phật". Ông sư vừa nói vừa đặt dấu ấn của Phật giáo trên đôi mắt của người chết và di chuyển dấu ấn về phía bên trái của lồng ngực. "Nam mô A Di Đà Phật!", và ông sư tụng bài kinh quá vãng49:

"Đối với một người suốt đời tuân thủ chặt chẽ giới luật, có khó khăn gì khi đến cõi Phật? Một cố gắng nhỏ nhất đủ đưa người ấy đến đỉnh núi Bửu Đà! Om! Linh hồn này không ai biết từ đâu sắp trèo lên con đường Tam Thánh".

Hoàng thân lúc đó đang nằm nghiêng bên mặt và dường như chìm đắm trong suy tưởng, không co quắp, không cựa quậy đến nỗi không một ai trong nhà có thể nói chính xác ông đi vào chốn Cửu Tuyền lúc nào.

Chính bà hoàng là người đầu tiên nhận thấy ông đã chết thật rồi.

- Ôi phu quân - bà thì thào - không lâu nữa, tôi sẽ theo ông.

Bà rút lui để cho con trai Cả là người được chỉ định làm chủ tang và nhường chỗ cho các nghi lễ được tuân thủ.

Mặc dù con cháu tụ tập đông đủ, mọi người im thin thít suốt thời gian người con cả thắt Hồn Bạch50 bằng mảnh lụa trắng đã nhận hơi thở cuối cùng. Người ta chỉ nghe thấy tiếng lụa sột soạt. Một lúc sau, thi thể được đặt trên một chiếc chiếu trên mặt đất để chỉ rằng ông từ đất mà đến, nay lại trở về với đất. Khi người chủ tang nhận từ tay mẹ mình cái áo dài mà cha mình đã mặc, ông ta leo lên mái nhà gọi hồn người quá cố quay về với xác để nhập quan. Sau cùng, khi mọi người ở trong phòng lễ tang nghe tiếng người chủ tế hướng về cõi u Minh gọi to ba lần: "Hỡi ba hồn, bảy vía của cha tôi ơi, ở nơi đâu hãy trở về để được tẩm liệm!" lúc ấy, mọi người mới tha hồ gào khóc.

—★—

Ngày rước xác đi chôn, rất nhiều người đã tụ tập trên đường để theo sau quan tài đến nỗi ai cũng cho rằng việc đi thăm của vua vừa qua cũng không lôi cuốn được nhiều người hơn. Quả thật đây là một gia đình lớn mà con cháu mãi mãi là vinh dự cho cả làng, không ai nghi ngờ việc một con người có tiếng tăm và địa vị như Hoàng thân lại không được chôn cất linh đình.

Nếu một số người đến từ những thôn ở xa xôi để xem cảnh tượng đám tang thì nhiều nông dân ở Côn Sơn và ở vùng gần đấy nhớ tới lòng nhân từ của Hoàng thân đối với họ như đã tặng họ phẩm vật, hay can thiệp giúp họ với hội đồng hương chức, đã có mặt để bày tỏ lòng biết ơn với người quá cố. Trong số những người này, Kiều Oanh đã vượt nhiều dặm đường đến đây từ làng Ngọc Kiệu. Cô mệt nhoài, mái tóc đẹp khuất dưới một lớp bùn mỏng hoen ố, bên nách bồng theo đứa con nhỏ.

Ngày hôm kia, có một khách giang hồ tức là một trong những người thỉnh thoảng đến kể những câu chuyện dưới cây đa trong làng, đã báo tin rằng một người trong gia đình hoàng tộc có tên là Trần Nguyên Đán, ở làng Côn Sơn đã về với tổ tiên. Lập tức, cô quyết định:

- Em phải đi - cô nói với Phụng, chồng cô và giao cho chàng việc chăm sóc người cha mù lòa - em đi để bày tỏ lòng tôn kính của mình với vị quan ấy bằng tất cả lòng thành kính. May mà anh đã xuất ngũ, anh có thể ở lại đây, em sẽ không vắng nhà lâu.

Và nàng đã ra đi bất chấp bị chọc ghẹo dọc đường, con nàng là sự bảo vệ duy nhất mà nàng có. Lúc này đây, thằng bé nằm ngủ, chiếc nón lá úp lên người, dưới chân nàng. Dù mệt đứt hơi vì đã bế nó suốt dọc đường, nàng hài lòng vì đã đến nơi đúng lúc. Ngồi bên cạnh những người đàn bà khác, nàng chờ đợi đám tang đi qua, nàng nghĩ đến làng quê của mình khi thấy một đám đông người ăn mặc rách rưới đang chen chúc bên đường với những lễ vật nghèo nàn.

- Này cô! - một bà lão miệng nhai trầu đỏ loét cất tiếng gọi - cô không phải người trong làng rồi!

- Không, bà ạ - Kiều Oanh trả lời - cháu từ làng Ngọc Kiệu đến viếng ân nhân của cháu. Không có người, cháu đã làm mồi cho cá và mẹ cháu đã không được chôn cất tử tế. Cháu đã đi bộ suốt đêm với con trai cháu.

- Mời cô uống! - Bà lão đưa nước đựng trong gáo dừa cho cô - Đây là nước từ nguồn suối ở làng này, cô sẽ không tìm được ở đâu nước uống tốt hơn.

Kiều Oanh cho thằng bé đang nói bập bẹ uống nước, rồi nàng uống và cảm ơn bà lão. Giờ đây, các phụ nữ quay đầu về phía ngôi nhà của Hoàng thân. Nàng cũng làm theo họ. Nhưng chưa có tiếng một nhạc cụ nào nổi lên báo hiệu người ta sắp đưa xác.

Vào lúc đó, quan tài còn nằm trong Từ đường nơi thờ cúng tổ tiên. Người ta vừa mới rước y phục và mũ Hoàng thân mặc khi vào chầu vua để trừ tà. Sau cùng, khi con cháu quỳ gối xuống xung quanh quan tài, người chủ lễ đọc:

- Xin phép Ngài được đặt quan tài lên đòn và Hồn Bạch lên xe tang để rước ngài về với tổ tiên!

Lúc các người nhà đòn nâng chiếc quan tài quý giá lên, nhà sư liền đọc bài kinh đưa xác:

Con chào ngũ Vương của ngũ phương: Táo quân, Thổ thần, Vân thân, Vũ thần, Thuỷ thần! Con chào Thanh long, Bạch hổ, Xích tước và Binh Hắc. Con xin báo Hoàng thân Trần Nguyên Đán đã từ trần và nơi đặt mộ phần đã định. Thầy Địa lý đã chọn một nơi yên tĩnh, đông hướng về địa giới của Thanh long, tây hướng về địa giới địa Bạch hổ, nam hướng về địa giới của Xích tước, bắc hướng về địa gia của Hắc binh, bên trên đụng tới trời, bên dưới đụng tới nước ngầm, làm nơi cho chúng con đào một cái huyệt sẽ là nơi ở cuối cùng của người quá cố. Như thế linh hồn người ấy an nghỉ ngàn thu, con cháu người ấy sẽ phát đạt, các con trai của người quá cố sẽ biết ơn và sẽ dâng hương cho các ngài.

Vì người quá cố đã rời bỏ bóng tối để đi đến ánh sáng, nên khi khiêng quan tài, đầu người chết đưa ra trước, người ta đặt quan tài trên đòn khiêng, cột lại chắc chắn và đặt lên đó một nhà mồ thật đẹp. Người ta tưới rượu và cuộc đưa xác bắt đầu khởi hành.

Khi thấy xuất hiện họ ông "Phương tướng" dưới vòm cây dẫn đầu đám rước theo tập tục, trợn tròn con mắt dữ tợn và múa may vũ khí, đám đông đứng lên và yên lặng như tờ. Kiều Oanh bế con lên, ôm chặt vào lòng, lòng nàng quặn thắt vì đau buồn.

- Đang đưa xác phải không? - Một người mù hỏi, ông ta đã dùng gậy lần mò tới đây.

- Này chú, dẫn đầu đám táng là những ông thần, ăn vận như những kép hát với vũ khí lóe sáng trong ánh nắng - một bác thợ xẻ nói lại với người mù.

- Người thật à? Thông thường là những người bằng đồ mã chứ?

- Đối với chúng ta thì vậy, chú ạ. Nhưng đối với các Hoàng thân, những ông thần phải là người thật. Họ đến rồi kìa. Hãy tránh lối đi ở giữa nào.

- Dạ! Dạ! - Người mù vểnh tai mỉm cười - Giờ thì tôi đang nghe tiếng trống.

Đằng sau những "Ông hộ pháp" giương giáo và khiên để xua đuổi ma quỷ, hai người khiêng một cỗ trống đại treo dưới đòn tre đánh nhịp cho đám rước bằng từng tiếng chậm rãi và tiếng chiêng trịnh trọng đáp lại. Dưới những hàng thông, hàng cờ hiệu dằng dặc liên tiếp hiện ra bay phất phới trong gió sớm.

Tấm phướn danh dự tiến tới trước, giăng ra trên vải lụa trắng bốn chữ đại tự "Vân ám thảo sơn" có hai lồng đèn đi kèm hai bên, bên phướn ghi rõ những chức vụ và phẩm trật của người quá cố cũng như tước hiệu mà Hoàng đế đã sắc phong. Ngay sau bàn thờ tỏa hương với mâm quả là tấm "minh tinh" màu đỏ51 mang tên họ người quá cố, tuổi tác, nơi sinh quán, địa vị xã hội và tên thụy, theo sau có nhiều trướng liễn bằng lụa thêu trắng vàng hay tím bày tỏ nỗi đau buồn luyến tiếc.

Ngoài các vị trong hội đồng kỳ lão, ông Tú Tài, ông giáo hay ông lang băm, không một ai trong những người đưa đám hiểu nghĩa được những hàng chữ nho viết trên các cờ phướn, các câu đối nhưng mọi người nhìn chúng đi qua với niềm tôn kính sâu xa và sự dốt nát lại càng làm tăng thêm vẻ huyền bí của chúng.

Đi đầu, tiếng trống vang lên làm nhức nhối.

Đám tang giống như con rắn, khi thì giãn ra, khi thì dồn lại. Đám đông bị thôi miên, khi thì tránh ra nhường chỗ cho các ông sư đi thành hai hàng đang tụng điếu văn cho người quá cố, khi thì dồn sát họ lại. Trong khi ấy, ở mỗi bước các ni cô tụng kinh đi qua, giấy tiền và vàng hồ tung bay, gọi là để xua đuổi ma quỷ đè nặng trên quan tài và làm cho quan tài nhẹ hơn khi di chuyển....

Tiếng trống vẫn vang lên, giờ đây bị át đi phần nào bởi tiếng nhạc chát chúa tới gần.

- Nhà táng gần đến rồi - người mù nói - lấy bàn tay sờ soạng theo hướng của bác thợ xẻ. Tôi đã nghe tiếng nhạc.

Thật vậy, một nhóm các nhạc công đang tiến tới, họ chơi sáo đàn nhị, đàn nguyệt, nảo bạt và chiêng nghe rất buồn thảm. Họ đi trước chiếc linh xa có hình dáng một chiếc long đình nhỏ, theo sau có một đám người khóc mướn và đoàn người đưa ma.

- Có phải Cổ Đại Dư đang đi qua không? - Người mù hỏi.

- Chưa!

Bác thợ xẻ nhìn thấy diễu qua thành hàng đôi những bàn hương án, trên đó người ta bày bộ áo mũ đại triều, những đồ thờ, tán lọng và các cây nến bằng sáp ong mà các nhà giàu có thường dùng.

- Cổ Đại Dư đây rồi.

Đằng sau trống và chiêng là nhà táng xuất hiện dưới hàng cây do mười hai người khiêng. Xuyên qua nhà táng làm bằng gỗ thếp vàng như một ngôi chùa lộng lẫy, người ta thấy quan tài và bài vị. Trước quan tài, người chủ tang đi giật lùi đầu đội mũ chuối, tóc để xõa, chống gậy trúc vừa đi vừa khóc.

Lúc đó nhà táng khiêng cao đi ngang qua mặt Kiều Oanh. Nàng cảm thấy nước mắt mình trào ra: "Con nguyện sẽ trung thành với các con cháu của ngài cho dù cho phải thịt nát xương tan", nàng lẩm nhẩm khi quan tài đi ngang qua. Theo sau là các con trai, con rể của người quá cố mặc áo vải thô, thắt lưng bằng dây thừng. Có một lúc, đôi mắt mờ lệ của Kiều Oanh bắt gặp ánh mắt đen và nghiêm khắc sau lớp vải xô trắng của một người cháu. Trong đôi mắt sâu lạ thường đang nhìn thẳng vào nàng, người thiếu phụ trẻ nhìn thấy một ánh sáng giống như tia sáng mặt trăng quét trên mặt hồ đen tối. Không hiểu sao, nàng biết rằng đó là dấu hiệu biện minh rằng việc nàng đã đi bộ suốt đêm để được đến mà khóc bên con đường cậu bé đang đi là một việc làm chính đáng. Lễ vật của nàng đã được chấp nhận. "A Di Đà Phật", nàng thầm thì tụng niệm.

Nàng không nhận ra bà hoàng và các bà vợ trang điểm sang trọng trước đây khi anh Phụng kéo nàng ra khỏi mặt nước, vì hôm nay họ đội khăn tang và áo tang sổ gấu, đi chân đất theo sau quan tài.

Khi bạn bè và thân quyến của người chết đã tiếp nối đi qua, cả làng, dẫn đầu là các hương chức nối đuôi vào đây đến nỗi một đám rước thật dài bắt đầu cuốn lượn giữa những ruộng lúa dưới hàng cờ phướn tung bay.

Dẫn đầu xa phía trước, tiếng trống như một trái tim chậm chạp và u trầm mãi vang lên.

Thỉnh thoảng, nhạc lâm khốc vang lên thảm thiết hòa với tiếng khóc của những người khóc mướn, các con gái và con dâu gào lên lăn lộn trên mặt đất, rồi lại vào hàng đi tiếp. Hoặc có lúc người con cả phủ phục xuống, nằm dài ra để cho quan tài đi qua trên người trước khi đứng dậy và lấy hai tay đẩy lui quan tài như ngăn cản không cho mang đi. Dưới con mắt của tất cả mọi người đó là bằng chứng của lòng hiếu thảo! Nơi chôn cất khá xa, người ta đã chuẩn bị lễ tế điện Trung đồ và đặt một hương án có che lá bên cạnh đường, chưng treo đèn và những tấm biển xếp đặt một cách mỹ thuật, chờ đám tang đến.

- Đây là - người chấp lễ quỳ gối gần chiếc linh xa khấn vái - những món quà mời ngài đến nhận, xin ngài bước vào nhà nghỉ ngơi một lát.

Bấy giờ người ta chuyển Hồn Bạch đến nơi đã được chuẩn bị và chủ tang đến quỳ gối để dâng cúng.

- Người này mà chúng tôi gặp ở giữa đường có những lễ vật xin được dâng lên vì lòng quý mến ngài.

Kế đó ông ta đứng ở hướng Đông, đầu quay về hướng Nghi lễ kết thúc, "Hồn Bạch " được rước về xe tang và cuộc đưa xác lại tiếp tục.

Sau cùng, khoảng giữa trưa đám tang đến nơi mộ huyệt mà thầy địa lý đã chọn. Rõ ràng là nếu ông ta quan tâm đến những ảnh hưởng huyền bí của tinh tú và các thần linh của đất, ông cũng quan tâm đến việc khám phá một cảnh quan, làm sao cho, hơn cả ngôi mộ lộng lẫy, cảnh quan ấy tượng trưng được cuộc sống và phong nghi của người quá cố. Không xa nơi ấy, ngọn đồi kia sẽ là cái gối để người quá cố có thể gối đầu, phiến đá phẳng và rộng kia là tráp bút của nhà nho, cái cây cao và thẳng ấy là bút lông, và cái ao kia là nghiên mực.

Bà con và thân quyến bị vẻ đẹp của cảnh quan lôi cuốn và nhận thấy như thế là rất tốt. Lẫn vào trong đám đông, Kiều Oanh cố gắng nhận rõ dưới cái phương du màu trắng, những đường nét của bà hoàng. Vô ích. Dù có đứng ở chỗ nào để nhìn bà, nàng chỉ thấy một cái bóng cứng đờ trong bộ đồ tang trắng.

Các vị "Phương tường" múa vũ khí đập vào bốn góc ngôi mộ, những người phụ việc đang rối rít hạ quan tài ở đầu dây thừng. Một cách nhẹ nhàng, quan tài đong đưa chầm chậm như chiếc thuyền buồm. Thân xác Hoàng thân từ từ biến mất khỏi tầm mắt của mọi người, bước vào chốn suối vàng.

Chính lúc đó, một cái gì ấm áp thấm nhẹ vào lưng của mọi người. Một số người vặn vẹo ngỡ rằng côn trùng đang bò trên mình họ. Trời đổ mưa.

"Đấy xem đấy! Trời cũng phải khóc!" dân làng Côn Sơn đều nghĩ thế. Nhiều người còn nói to, cho họ, cho những người lân cận để giải thích những giọt nước mắt thình lình trào ra lai láng từ mí mắt họ.

Trong khi Trời và người tiếp tục khóc, thì thầy địa lý sử dụng chiếc la bàn, điều chỉnh cẩn thận phương hướng trước khi kéo lá cờ "minh tinh" lên từ trên quan tài đem đi đốt.

Huyệt lấp được một nửa, người ta bày đồ cúng để tạ ơn Thổ thần, đốt hương và tưới rượu.

Này đây ngôi mộ đã lấp, nhà sư đọc, hai bên có hai ông Hổ và ông Long trung thành canh giữ. Phía trước là núi sừng sững như một bàn thờ. Chúng ta hãy hướng tinh thần của chúng ta về nẻo lý trí và đức hạnh. Xin cho phép tôi thêm vào nấm mộ này một ít hạt cát vàng.

Sư ông ném một nắm đất lên trên mộ và đọc tiếp:

Trời thiên về hướng Tây Bắc. Đất thiên về hướng Đông Nam. Người xuất gia cô độc ném cát vào nơi thiếu cát, trên nấm mồ mới đắp. Được bồi đắp như thế, nấm mồ sẽ tồn tại suốt ngàn năm, bất hoại như ngọn núi.

Đến lúc phải thiết lập Thần chủ vị cho người quá cố.

Chính lúc hỏa thiêu hồn bạch là lúc thay tấm lụa hồn bạch bằng bài vị. Người ta nhận thấy rằng chưa ai được chỉ định để viết thêm cho đầy đủ nét bút cuối cùng trên bài vị.

Về phía thân quyến, mọi người có vẻ lúng túng, còn các nhà sư thì chờ đợi. Ông Tú tài bước ra tự đề nghị mình nhưng một ông già nhỏ người, đội áo mũ đạo sĩ, rẽ đám đông đến thêm vào bài vị một dấu chấm và một vạch thẳng còn đang thiếu. Đó là đạo sĩ Vô Kỷ.

Bà hoàng, Trãi và các tôi tớ chưa hết kinh ngạc thì đạo sĩ đã biến mất!

Bài vị đặt trên linh xa trước tấm "hồn bạch", chủ tế dâng hương, rượu và gạo rồi đọc một bài tán mời hồn vui lòng từ âm phủ lên ngụ trong bài vị.

Lúc đó, gia đình của Hoàng thân quay mặt về ngôi mộ quỳ lạy bốn lần và sau khi huyệt mộ được lấp xong, lễ thành phần đã hoàn tất và những tiếng khóc cuối cùng chấm dứt, họ lên đường trở về nhà theo sau bài vị.

Trong lúc linh hồn của Hoàng thân quay về với bàn thờ tổ tiên có thân bằng quyến thuộc đi theo thì một số lớn người giúp việc tang vẫn còn ở lại xung quanh ngôi mộ.

Mưa tiếp tục rơi nhưng phải nói rằng lễ an táng họ vừa tham dự đã đoàn kết họ lại, đã nối họ lại bằng một sợi dây vô hình, mà không ai dám cắt đứt với con người từ nay an nghỉ dưới phiến đá cẩm thạch.

—★—

Còn có lễ "ngũ tế"52, việc viếng mộ ba ngày liên tiếp để đem thuốc lào và trầu cho người quá cố. Nhờ những lễ nghi này mà Trãi và cha cậu, Nguyễn Phi Khanh, đã đến dự tang lễ, dời chuyến đi về làng Nhị Khê chậm lại vài hôm.

Cậu bé đã dùng những ngày chóng qua như sương mù buổi sáng trên mặt ao hồ, đề nói lời giã từ cảm động với vùng núi quê hương và với tất cả những năm tháng mà cậu đã sống hạnh phúc ở đây.

Thời gian ấy không còn nữa, nhưng con đường ven đồi vẫn còn giữ lại dấu vết những bước chân và cây gậy của Hoàng thân, dòng suối trên kia còn giữ lại hình bóng khuôn mặt ông, thư phòng còn vọng lại tiếng nói của ông và chính bàn tay thanh mảnh của ông đã mở cuốn sách này ở đây, đặt cây bút lông xuống ở chỗ kia.

Hương thơm các mùa đã qua còn bồng bềnh mãi trong không gian.

Kỷ niệm đau đớn của những vầng trăng quá khứ sẽ còn mãi.

Trước cửa lớn và cửa sổ vẫn còn những tấm màn xinh xắn của bà hoàng từ cuộc thăm viếng của Đức Thái Thượng hoàng. Vẫn còn đó những bài học của ông thầy dạy võ, các dấu vết của những đòn đánh vào cây dừa, những cuộc đàm đạo kéo dài với cụ Atangana, dầu đèn còn vương vãi trên đất cát của rừng thông và ở sân trong một bụi cây nào đó, cây kiếm gỗ vẫn còn nằm đó, cây kiếm gỗ mà cậu dùng để chém quân cướp biển khi cậu còn bé.

Ngoài thế giới hữu hình đó, còn có vũ trụ của các âm thanh, các mùi vị và cảm xúc đã hoàn toàn ràng buộc cậu vào mảnh đất Côn Sơn.

"Côn Sơn!" rừng tre rung rinh xa mút mắt, đồi núi trập trùng, chuông chùa gióng dã.

"Côn Sơn!" tiếng chày giã gạo liên hồi không dứt.

Mùi ngai ngái của thân lúa bị cắt là tất cả cánh đồng, tiếng cười của các cô thợ dệt xinh đẹp là tất cả xóm làng và ngôi nhà của những năm tháng đầu tiên tươi đẹp là tất cả hạnh phúc!

Trãi không thôi hít thở, lắng nghe, nhìn ngắm tất cả những điều đó.

Cậu lén quan sát bà hoàng, bà ngoại cậu, bàn tay nhẹ nhàng của bà làm cho vật gì bà sờ đến đều trở thành vô giá và cậu khám phá ra rằng cậu yêu quý bà biết bao. Cậu nhớ lại chỗ bà đặt chiếc võng cậu nằm bên cạnh bà rồi bà nhẹ nhàng ru cậu. Cậu cảm thấy thèm được như bác Phan già ngơ ngác từ khi chủ nhân bác chết và bà Tý móm, vì họ hạnh phúc được trở lại và trong chừng mực nào đó, cậu thèm được như chính cha cậu, Phi Khanh. Ông nói về việc rời bỏ đất Côn Sơn với lòng thanh thản. Cậu có cảm tưởng đang từ giã chính mình, đang siết chặt những mối dây liên kết với nơi này để rồi sau đó phải cắt đứt đi. Giá mà cậu khóc được.

"Cháu sẽ trở về đất Côn Sơn khi ông không còn ở trong cuộc đời này nữa", Hoàng thân đã nói như thế. "Cháu sẽ trở lại", cậu lặp lại và bất giác nghĩ đến bao nhiêu hoa cúc sẽ nở rồi tàn trong dịp Tết Trùng Dương trước khi cậu quay trở lại? Lúc này, cái ngưỡng cửa của ngôi nhà cũ, các cây dâu và cây đinh tán rồi sẽ ra sao? Cậu sẽ tìm lại được gì sau bao nhiêu mùa trăng tiếp nối? Có còn bác Phan với đôi chân khẳng khiu chạy báo tin cho bà hoàng? Cậu sẽ gặp lại bà hoàng không? Trãi tự hỏi mà trong lòng đau xót như thể cậu đã đoán được rằng bà sẽ gặp Hoàng thân, chồng bà, ở chốn Cửu tuyền trong vòng không đầy bốn mươi ngày nữa. Mặc dù cậu không muốn, cậu không dám ở mãi bên cạnh bà vì sợ người ta chế giễu, nhất là cậu Mộng Dũ vẫn cho rằng cậu đâu còn là một thằng bé bám theo váy của đàn bà. Lúc đó, cậu đang ở một mình trong dãy nhà mát kế bờ ao với một vài quyển sách, vào lúc hoàng hôn, nơi đó Hoàng thân biểu lộ sự có mặt đầy an ủi của ông với Trãi qua nhiều dấu hiệu.

Vì lý do thời buổi thiếu an ninh, các con trai của Hoàng thân, vợ con họ cũng như Nguyễn Phi Khanh và Trãi sẽ cùng đi với nhau, ít ra là tới Thăng Long.

- Cháu của bà - bà hoàng nói với Trãi trong ngày khởi hành - đã đến lúc cháu phải ra đi. Cuộc sống của ông bà đã tươi vui thêm nhờ sự có mặt của cháu. Giờ đây, cháu phải theo đuổi việc học hành, phải tiến tới trước và thi đậu xuất sắc các kỳ thi. Cha cháu sẽ là người thầy giỏi nhất của cháu, bà giao cháu lại cho cha cháu vì bao năm qua cha cháu đã vui lòng giao cháu cho ông bà. Dù cháu có ở đâu, cháu phải giữ đạo trung dung. Cháu hãy loại bỏ lòng thù hận, tham lam, hung bạo. Cháu hãy vun trồng lòng nhân ái, tính minh mẫn, cao thượng như ông cháu đã lấy gương sáng mà dạy dỗ cháu điều đó. Nếu có thể, cháu hãy về thăm lại Côn Sơn. Lúc nào, chúng ta cũng đợi cháu ở đây.

Những giọt lệ long lanh trong đôi mắt bà và một nụ cười run run trên môi bà. Bà hoàng đứng trước đám thứ thiếp, các tôi tớ nam nữ một khoảng cách nhỏ. Hai tay bà giơ lên, bà nổi bật trong bộ tang phục màu trắng trên nền tối của ngôi chùa và ngôi nhà trong khi những tia sáng đầu tiên của buổi bình minh đã nhuộm đỏ các đỉnh đồi.

Đó là hình ảnh cuối cùng của mảnh đất quê hương mà cậu thiếu niên Nguyễn Trãi mang đi khi theo cha cậu, người cha mà cậu chưa quen về một ngôi làng mà cậu chưa biết. Cậu sẽ sống với những đứa em trai còn xa lạ, dưới một mái nhà đối với cậu không có quá khứ, giữa những người mà cậu chưa hiểu. Cậu sẽ sống một cuộc sống đơn sơ mà cho tới nay, số mệnh đã đặt cậu cách xa nó.

Chúng ta đang ở vào tháng Chạp năm Canh Ngọ (1390) đời Trần Thuận Tông và cảm thấy được những hiệu quả của khí dương đến sớm đem lại.

[←49]

(Từ cũ, Trang trọng) Quá cố

[←50]

Hồn Bạch: Tấm lụa trắng thắt thành hình người để hồn người chết nương vào.

[←51]

«minh tinh» màu đỏ: Cờ nêu: Người dùng phấn trắng viết chữ treo vào một cái giá hay cần nêu đi trước cữu. Lúc hạ huyệt, thì phủ lên mặt cữu.

[←52]

Lễ ngũ tế làm linh hồn và sinh khí người chết được an nghỉ.

[←53]

Ngôi vua, ngôi Thiên tử

[←54]

Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn, tức năm 1400, Lê Quý Ly tự xưng Hoàng đế, lấy lại tên cũ của mình là Hồ Quý Ly.