← Quay lại trang sách

Tập 4 Chương 1

"Dân chúng yêu quý những ai sống đúng đạo làm người. Cũng như đại dương có thể nâng đỡ thuyền mà cũng có thể làm cho thuyền lật nhào, thì dân chúng cũng có thể nâng đỡ hay lật đổ ngôi cửu ngũ53 như thế. Trời phù giúp cho những người đức hạnh, nhưng ý Trời không phải lúc nào cũng thấy trước được. Nếu người ta không xứng đáng với sự phù trợ ấy, thì ý Trời đó có thể thay đổi bất cứ lúc nào".

NGUYỄN TRÃI

(Khuyên nhủ Thái Tử)

Cơn mưa vừa tạnh thì hai người ra khỏi chỗ trú mưa quê kệch, nơi họ vừa uống mấy chén nước vối để lấy lại sức. Họ lại tiếp tục lên đường hướng về phía Đông Đô. Sở dĩ ngày này người ta gọi Thăng Long bằng tên ấy là để đối lại với kinh đô mới là Tây Đô. Trước đó ba năm, Hoàng Đế Hồ Quý Ly54 lúc đó đang làm Phụ Chính, đã cho xây tại phía nam nước Đại Việt.

Lý do được nêu ra là nỗi lo sợ luôn luôn có cơ sở về việc quân Tàu xâm lược có thể đe dọa Thăng Long một cách nhanh chóng. Thực ra là sau khi soán ngôi, Hồ Quý Ly ngờ vực vùng châu thổ này vì đã hai thế kỷ nay, vùng này được đặt dưới quyền cai trị của Triều đại nhà Trần cũ. Ông ta thích tỉnh Thanh Hóa của ông hơn, cho đây là nơi an toàn hơn. Chưa bao giờ có một công trình kiến trúc nào xây xong nhanh như vậy. Vì thi công không đủ nhanh, người đốc công đã bị Hồ Quý Ly ra lệnh chôn sống dưới những viên đá của chân thành. Bình Khương, vợ của anh, đã tự tử để phản đối việc ấy: gần cửa Tây có một viên đá còn in dấu vết trán của nàng đập vào đấy. Sách biên niên sử triều đình xác nhận rằng: việc xây cất bắt đầu từ tháng giêng năm Đinh Sửu (1397) do quan Lại Bộ Thượng Thư Đỗ Tỉnh quản đốc đã kết thúc vào tháng ba năm đó.

Dù sao Tây Đô vẫn là một đô thành về quân sự rất hùng hậu, trong tương lai có thể làm cho quân đội Trung Hoa phải khốn đốn. Còn Đông Đô (Thăng Long) vẫn giữ vai trò là một thủ đô hành chính. Hiện tại cũng như quá khứ, có biết bao người, có thể là người buôn bán làm ăn, hay là những nho sinh về dự thi, đã về đó giống như hai người khách lữ hành sáng nay.

Một người thấp lùn lực lưỡng, gương mặt tròn như trăng, bộ điệu có vẻ như người dân thường. Còn người kia mảnh khảnh, dong dỏng cao như một ngọn lau thanh nhã. Người ta nghĩ đó là một thầy đồ trẻ đi với người đầy tớ.

Lúc này là giờ Mão55, trời bắt đầu sáng, một lớp sương mù xam xám bao phủ cả một vùng đồng ruộng ngập nước. Xa xa, chập chờn những ngọn đuốc của những nông dân dẫn trâu ra đồng lúc trời tờ mờ sáng.

Trên con đường đê lầy lội, những chiếc xe bò chất đầy những bao lúa và muối đang lúc lắc vận chuyển bên cạnh những người đàn ông mang vũ khí hộ tống. Những người dân làng đang vội vã đi đến những khu chợ búa vùng xung quanh, những cô gái trẻ tươi cười gánh hàng trên vai đang bước nhanh.

Trên đường, người đàn ông nhỏ con với khuôn mặt tròn như trăng kia đang buông những lời chọc ghẹo. Các cô gái cũng ứng đối lại những lời tán tỉnh của anh chàng, nhưng đôi mắt họ lại liếc nhìn thật lâu người bạn trề đồng hành với anh ta đang đội chiếc mũ nhà nho.

Chẳng tham ruộng cả ao liền,

Tham về cái bút, cái nghiên anh đồ

(Ca dao)

Anh chàng lùn người mạnh khỏe kia ngâm nga với họ câu đó. Anh ta nhăn mặt, nháy mắt và làm như vui đùa một cách khoái trá.

Còn anh đồ trẻ thì dường như không hề lưu tâm tới họ. Lều chõng và một ống quyển tròn đựng bút mực, là những đồ lỉnh kỉnh bình thường của một thí sinh đi thi, chàng vác trên vai, lầm lũi bước đi trước những cặp mắt e thẹn dễ thương của các cô bán hàng trẻ tuổi với đôi má đỏ lên khi trông thấy khuôn mặt thanh tú với bộ lông mày giao nhau, với cái mũi cao và vầng trán rộng của chàng, vẻ đạo mạo đặc biệt đã làm cho chàng ra dáng là một nhà hiền triết, và trong đôi mắt chàng dường như chỉ có con đường là hiện hữu. Chàng vừa bước nhanh vừa đắm chìm trong luồng tư tưởng của mình, lâu lâu lại ngoái cổ lại xem người đồng hành vui tính của mình, lớn tuổi hơn chàng nhiều, có mải mê với những lời hoa nguyệt dưới những tàn cây dâu không.

Anh chàng nhỏ con này mang một chiếc khăn thắt nút tai chó quấn vòng trên đầu, đôi dép cũ bằng rơm bị sổ ra kêu lạch bạch dưới gót chân.

- Mái tóc em đẹp không khác gì một đám mây sắp mưa. - anh ta nói bằng một giọng ỡm ờ với các cô gái anh ta gặp trên đường. - Ngón tay em mảnh mai y như những búp măng. Má em lúm đồng tiền, những đồng tiền vàng, em ạ! Vân vân. - Và anh ta nói với người đồng hành của mình bằng một giọng thương hại:

- Cháu à! Cháu không có tình cảm gì hết sao?

Một lát sau, thầy đồ trẻ có vẻ dễ chịu hơn khi chỉ còn hai người trên đường thôi.

Họ đi được một khoảng một dặm rưỡi dưới những đám mây đen khổng lồ mà không gặp ai cả. Tại chỗ này, hai bên đường là những bụi cây rậm rạp cao hơn tám người khiến cho hai người bộ hành và những nông dân làm việc dưới ruộng không trông thấy nhau.

Trời lại mưa nữa. Lúc đó hai người vừa đi tới một con sông có cây cầu có mái lợp bắc ngang. Họ vừa tìm chỗ trú mưa vừa cảm ơn Trời. Chàng trẻ tuổi rút trong túi ra một bàn cờ tướng và cố giải thích luật lệ chơi cho người kia đang nghe một cách lơ đãng.

- Chú này, không ngờ là cuộc hành trình này lại làm cho chú khoái trá như thế!

Gương mặt tròn trịa của người đối thoại tỏ vẻ bi thảm một cách hết sức khôi hài.

- Cháu ơi, cháu không có cái hạnh phúc cưới được một con sư tử Hà Đông56 như chú!

- Phải chăng người ta có nói: "Thật là khó mà sống được với một người đàn bà hay ghen, nhưng phải tới lúc già thì người ta mới nhận ra công lao của họ57" sao? Chàng trẻ tuổi nói một cách hóm hỉnh.

- Vợ chú thuộc loại sau khi chết sẽ trở thành một con rắn kỳ quái. Có chặt nó thành từng khúc rồi đem làm mắm cũng không hả được giận!

- Trời ơi, chú!

Cách đây mười năm, khi Nguyễn Trãi về làng Nhị Khê thì cuộc đời của Từ Chi đã gắn bó từ đời nào với "sư tử Hà Đông" của anh ta rồi. Và đó chính là nỗi buồn bực lớn nhất của anh chàng. Càng ngày tình cảnh của hai người càng tệ hại hơn. Anh ta cho rằng con sư tử cái này đã làm mất đi nguyên khí của anh ta. Anh chàng mới chỉ đi một bước trong làng Nhị Khê hay sang các vùng lân cận, thì cô nàng cũng theo anh bén gót. Khắp xã, người ta không tìm đâu ra một anh thợ mộc giỏi hơn, vì thế có những lúc anh ta phải đi tới tận cuối xã, thì cô nàng cũng theo anh sát nút, tìm dấu vết của anh qua các bụi cây, sẵn sàng phá vỡ những quỷ kế và những trò giả vờ của anh, và sẵn sàng nhảy xổ tới ngay những nơi mà không ai - trong đó Từ Chi là người đầu tiên - ngờ được cô nàng lại tới, để la lối om sòm. Người đàn bà da thịt mỏng manh nào mà rơi vào móng vuốt của "bà" lúc đó thì không thể nào còn sống mà thoát khỏi tay "bà" được: bà sẽ móc mắt, xẻo vú và còn nhiều trò khác. Những trường hợp đó thì Từ Chi khó mà có đủ khôn khéo để có thể biến những tiếng rống của con sư tử cái đó thành những âm thanh rù rì đắm say. Ấy thế mà rồi anh ta lại làm được chuyện đó, tuy con thú dữ ấy vẫn nhổ nước miếng, vẫn cắn xé la hét. Cả làng đều có thể làm chứng về điều đó: khi nào cặp vợ chồng kỳ quái này không quấy rối những vong linh người chết dạo chơi ban đêm, thì họ lại nô đùa với nhau khiến cho những người xung quanh không sao ngủ được. Phải nói rằng con sư tử cái này cũng có những lý do rất là độc đáo! Những lý do xứng đáng với tiếng tăm của những người phụ nữ hay ghen xứ Hà Đông, bất chấp sự cười nhạo của mọi người. Nhưng khi Từ Chi đi thăm vị thầy trong làng, cụ Nghè Nguyễn Phi Khanh, thì cô nàng không hề đi theo anh ta. Trong làng Nhị Khê người ta đồn rằng anh thợ mộc này đã thề sẽ cho bà vợ một trận đòn công khai nếu chị ta dám cả gan làm anh mất mặt trước người anh họ của mình. Cuộc hành trình về Đông Đô này giúp Từ Chi thoát khỏi sự ngờ vực liên hồi của vợ mình, khiến anh ta trở thành một người độc thân vui tính, mặc dù chỉ một tiếng động nhỏ nhất cũng làm cho anh phải cảnh giác.

Cơn mưa đã tạnh, họ băng qua cầu. Đúng lúc họ đang vui vẻ chuẩn bị qua bờ bên kia thì có ba anh chàng mặt như sói đói ùa tới chặn đường họ. Vì bất ngờ nên Từ Chi suýt nữa thì nuốt vào bụng cả miếng trầu. Gương mặt tròn xoay của anh ta trông ngộ nghĩnh đến độ nếu ở trong trường hợp khác thì ông thầy đồ trẻ kia đã phải cười lăn.

- Thế này là làm sao? - Anh chàng thợ mộc trấn tĩnh lại ngay và nói.

- Thưa các ông - tên có vẻ là đầu sỏ trả lời - chúng tôi là những người giữ cây cầu này. Nghề của chúng tôi là chặn người ta lại và yêu cầu người ta đóng thuế bộ hành: một đồng chinh về việc trú mưa, một chinh về việc băng qua cầu, và một chinh nữa để bồi dưỡng. Mỗi người ba chinh. Vậy các ông trả lẹ lên!

Theo cái hất hàm ra dấu, bọn chúng sán tới. Từ thân thể đã lâu không chịu tắm rửa của bọn chúng xông lên một mùi hôi như cú làm người ta muốn nôn mửa.

- Chiếc cầu này cần được người canh giữ từ hồi nào? Đời nào lại có chuyện kỳ cục như thế? Canh giữ à? Nói thẳng ra là quân trộm cắp, chứ gì nữa! - Từ Chi la to tới tận mây xanh. - Đồ vô lại! Có chuồn đi không hay là bọn bay muốn nếm thử cây gậy của tao?

Nhìn thấy những khuôn mặt hung dữ đó, thầy đồ trẻ nhớ lại những miếng võ mà ông thầy quân sự đã dạy, và chàng cũng lấy tư thế sẵn sàng chiến đấu.

- Có lui không, hay muốn tao đập bể sọ? - Từ Chi gầm lên khiến cho một trong ba tên cướp đường sợ quá bất tỉnh. - Tên này làm sao vậy? - Anh ta vừa lắp bắp vừa đảo mắt nhìn.

Hai tên kia nhìn nhau thăm dò.

- Đừng cho tên đó cái gì cả, hắn là một tên quét đường - Tên trộm đầu xỏ dùng chân đẩy hắn đi. - Chúng tôi chỉ xin mỗi người hai đồng chinh thôi!

- Không đời nào! Cút đi, đồ ngu, nếu không tao nghiền nát tụi bay ra cám bây giờ!

Từ Chi múa tít cây gậy to tướng của anh một cách đáng ngại, trong khi ở bên cạnh, thầy đồ trẻ gồng tay lên, sẵn sàng nhảy vào.

- Thôi, chỉ cần hai chinh thôi! - Tên đầu sỏ mặc cả.

- Cút đi! - Anh thợ mộc kêu lên, và khi tên trộm mà anh định hạ thủ bủn rủn hết tay chân, thì anh phá ra cười. - Hèn như đàn bà mà cũng đòi trộm cướp! - Anh ta vỗ đùi giậm chân.

- Cả hai người chỉ một đồng chinh thôi! - Tên đầu sỏ quỳ xuống, và khi nhận ra những bộ hành này có khả năng tự vệ thì hắn bắt đầu than:

- Các ông ơi! Chúng tôi đều là những con nhà hiền lành cả nhưng đã ba ngày nay chúng tôi không có gì ăn cả. Hạn hán, sâu bọ đã phá hủy hết mùa màng, lại còn sưu thuế đổ lên đầu không còn cỏ hay rễ cây gì, cả những thứ đắng nhất để mà nhai nữa! Một vài người trong chúng tôi nuốt cả đá khiến bụng họ trương lên rồi chết. Ai không muốn ăn sỏi rồi chết thì hợp nhau lại để ăn cướp. Chính vì thế mà chúng tôi mới làm cái trò này.

Dưới lớp quần áo rách rưới của hắn là một cái xác chết di động. Cái nhìn nẩy lửa của hắn chuyển từ anh chàng lùn giễu cợt này tới thầy đồ trẻ tuổi kia đang nhìn họ với cặp mắt đăm chiêu. Cuối cùng chàng nói:

- Đứng dậy đi! Chúng tôi không làm gì các anh đâu. Anh bạn tôi và tôi đây đang tìm một quán nào ăn uống để lấy lại sức trước khi tiếp tục cuộc hành trình. Chúng tôi mời các anh cùng đi ăn với chúng tôi.

- Tốt quá, cháu ạ! Cuộc mạo hiểm lý thú này đã làm chú đói rồi. Đúng là những con quỷ thiêng giữ cầu.

Anh ta hích thầy đồ ốm yếu một cái khiến chàng suýt té.

- Cảm ơn các ông vì đã cứu giúp - Ba tên cướp nói.

Bằng một cái nón đầy nước sông, chúng đã làm cho tên đồng bọn bất tỉnh tỉnh lại. Rồi ngay sau đó, chúng dẫn hai người lữ khách tới một quán cơm ở cách đó khoảng ba dặm.

Khi chủ quán nhận ra ba tên mà ông ta đã bắt quả tang đang giành ăn với heo thì mặt ông ta đanh lại. Nhưng khi thấy có một chàng trai trẻ có tư cách đi theo chúng, ông ta liền vội vã tiếp đón họ và cung kính cúi đầu chào, khum lưng như chày giã gạo.

Thầy đồ gọi miến lòng, gà xáo măng, cơm, bánh và trà.

Chỉ mới ngửi thấy những bát đồ ăn bốc mùi thơm mà chủ quán mang tới, những bát miến đầy tới miệng béo ngậy xông mùi rau thơm, hành tươi và bạc hà, ba tên "giữ cầu" có vẻ như sắp chết đói đến nơi. Tuy nhiên chúng cũng cố gắng một cách đáng khen để không ngốn hết cháo, miến và lòng nhanh quá. Thỉnh thoảng chúng ngưng lại để tuôn ra những lời khoái trá: "Mô Phật! Chúng con dâng lên Ngài những miếng thịt quay này, hôm nay chúng có mùi gừng và mùi hành răm, chứ không phải là những rễ cây bị thối!". Và chúng lại chúi mũi vào cái chén của mình.

Hai người bộ hành đã súc miệng với nước trà mà các ông khách họ đã mời vẫn còn đang ăn. Sau khi no bụng chúng mới nhớ ra là phải tuân thủ những lề lối xã giao lịch sự.

- Thưa quý ân nhân, tôi có thể hỏi thăm quý danh của thầy không ạ? Tên đầu bọn nói.

- Đây là anh Từ Chi, là bạn và cũng là đàn anh của tôi, làm thợ mộc ở làng Nhị Khê - thầy đồ trả lời - Còn tôi là ông Cống Nguyễn Trãi, đang trên đường trẩy về kinh để dự kỳ thi Hội.

Ba tên bèn kính cẩn chúc mừng hai người.

Từ Chi ngừng xỉa răng, đôi mắt anh ánh lên vẻ tinh quái.

- Này, mấy ông giữ cầu ơi! - Anh ta bắt đầu nói - Các anh phải cáng đáng công việc bảo vệ khách qua đường, nên tôi chắc các anh phải biết chút ít võ thuật chứ? Tuy nhiên, để giúp các anh nắm vững hơn, tôi muốn chỉ cho các anh một vài đường quyền. Ông Cống biết rành cái này hơn tôi - anh ta làm như không nhìn thấy thái độ không tán thành của chàng - sẽ sửa lại cho tôi nếu cần..

Mọi người vỗ tay. Họ rất vui thích và học được ngay tất cả những điều anh thợ mộc muốn chỉ cho họ. Họ muốn cầm giữ hai người lại, nhưng Nguyễn Trãi vội cắt ngang buổi diễn võ.

Sau khi trả tiền cơm nước cho chủ quán, chàng nhìn Từ Chi và đôi mắt chàng bỗng sáng lên.

- Tôi nghĩ rằng các anh không nên cứ tiếp tục mãi cái ý định chặn khách qua đường lại để bắt nộp tiền mãi lộ. Đó là những hành động xấu xa khiến Trời không thể phù hộ các anh được. Tôi có đem theo vài quan tiền cần dùng để làm lộ phí cho cuộc hành trình của tôi và cho những ngày tôi ở lại Đông Đô. Đây những quan tiền ấy, các anh cầm lấy. Các anh có thể dùng số vốn này hợp tác làm ăn nho nhỏ gì với nhau.

Đã bốn năm nay, từ ngày đi bụi đời, những tên trộm này chưa bao giờ được sờ tới nhiều tiền giấy như thế, đó là chưa nói tới loại tiền có hình con rồng58. Chúng sửng sốt nhìn hai người một lúc lâu, dường như không thể tin được, rồi rối rít cảm ơn. Chúng xách giùm chiếu túi cho thầy đồ trẻ và nài nỉ xin được hộ tống chàng mười dặm đường.

—★—

Họ tới Đông Đô (Thăng Long) vào lúc người ta đang sắp đóng cửa Thành. Lúc đó Nguyễn Trãi mới nhớ rằng mình đã lấy tiền đem cho những tên giữ cầu rồi.

- Cũng may chúng ta tới kịp, nếu không là chúng ta phải nghỉ đêm dưới lòng một chiếc thuyền tam bản nào đó.

Chàng cáo biệt Từ Chi, không quên cảm ơn anh ta đã cùng đi với chàng tới đây. Đôi mắt chàng thợ mộc Nhị Khê long lanh vẻ tinh quái.

- Chú xin tạ ơn Trời vì đã hoàn thành một chút cái nợ ơn nghĩa của chú đối với một người bạn như cha cháu, khi chia sẻ với cháu những nguy hiểm dọc đường, cháu ạ! Chú hy vọng lại được đưa cháu về vinh quy bái tổ!

Nói xong, anh ta phá ra cười, rồi đi về phía phường nơi những người gốc làng Nhị Khê cư ngụ. Họ sẽ cho anh ta ở trọ. Còn Nguyễn Trãi thì tới dinh của người cậu, làm Tham Tri bộ Lễ, ở cửa Nam Thành phố, gần Văn Miếu và Thanh Tuyền.

Chàng nói cho người gác cổng biết tính danh. Một lát sau đích thân ông cậu chàng ra phòng khách đón tiếp chàng. Ông ta bận một chiếc áo dài sang trọng, và tuy bộ ria mép của ông co rúm lại, dấu đó là tướng mạo người yểu mệnh, gương mặt của ông vẫn có vẻ đang thịnh đạt. Nguyễn Trãi định quỳ xuống thì cậu chàng ngăn lại và kéo chàng vào thư phòng. Phòng này nhìn ra một cái vườn, giống hệt như cái vườn của Hoàng thân ở Côn Sơn. Chàng cảm thấy tâm hồn xao động vì nhớ quê hương mặc dù đã mười năm trôi qua rồi. Nén cơn xúc động, chàng trình cho cậu thư của cha chàng, cùng với những món quà trong đó có tập thơ đầu tay của chàng.

- Cháu tuy còn nhỏ mà đã có tài cao, và hẳn là cháu sẽ đủ khả năng để chiếm được đầu rồng59. - Cậu chàng nói sau khi lật xem vài ba trang.

Hai cậu cháu ngồi xuống và gia nhân đem trà lên.

- Cháu à, lần cuối cùng cậu cháu mình gặp nhau, lúc đó cháu đi thi Hương cách đây đã bốn năm rồi. Từ đó đến nay đã xảy ra biết bao đổi thay biết bao người đã biến mất như những đám mây tự tan đi. Hãy cho cậu biết tin về cha cháu. Trường của cha cháu nổi tiếng không kém gì trường của Chu Văn An. Cậu đoán rằng cháu cũng dạy trong trường đó.

Đó chính là điều làm cho Nguyễn Trãi cảm thấy buồn.

- Cha cháu cương quyết muốn cháu dành hết tất cả thì giờ để chuẩn bị thi Đình, nên từ chối không cho cháu phụ với người. Thời buổi bây giờ càng ngày càng khó khăn, các trường công mở ra ba năm nay là một điều rất tốt, nhưng cũng làm cho cha cháu mất học trò. Cha cháu không nhận bất cứ tiền thù lao nào của những học trò nghèo, và chính cháu không phụ giúp gì được cho cha cháu cả. - Với vẻ suy tư, chàng nói thêm - Cháu cố gắng tiến thân trên bước đường thi cử, nhưng việc phục vụ tổ quốc và gia đình đối với cháu vẫn là một giấc mơ xa vời.

- Đừng lo làm chi. Năm cháu đậu kỳ thi Hương thì cháu còn trẻ quá chưa thể mơ ước làm quan được. Bây giờ hoàn cảnh đã đổi khác rồi. Như cháu nói, cháu mơ ước được phục vụ quê hương, mà nhà vua thì lại đang tìm kẻ hiền tài. Về chuyện này, cậu ngạc nhiên không biết tại sao mà Hoàng thượng lại không nghĩ tới việc sử dụng một nhà nho như cha cháu, người mà cậu vẫn luôn luôn tự hào được làm học trò của ông. Thực ra - ông thận trọng nói lại - Hoàng đế Hồ Quý Ly lên ngôi báu chưa được bao lâu…

Họ im lặng nhấm nháp trà. Khi nói tới Hồ Quý Ly, cậu chàng sa sầm mặt lại.

Nếu Nguyễn Trãi không bận tâm quá nhiều về việc thi cử để đoán tư tưởng của ông, thì chàng đã đọc được nơi ông có sự giữ ý tứ pha lẫn nhiều sợ hãi.

Viên Tham Tri bộ Lễ thường hay tự nhủ: cha ông, Hoàng thân Trần Nguyên Đán, đã sáng suốt biết bao khi thấy trước được các biến cố đã xảy ra! Trong vòng mười năm nay, Lê Quý Ly đã dẹp tan hết mọi trở ngại. Khi cựu hoàng đế thoái vị chết rồi, không còn gì cản trở ông ta được nữa. Sau khi cưỡng bách Hoàng đế Trần Thuận Tông nhường ngôi, ông ta đã sai người tới thắt cổ ngài trong một tu viện của đạo Lão, rồi lấy chiêu bài là dẹp tan những âm mưu nổi loạn để loại trừ một lúc 370 vị quan trung thành với triều đại cũ. Đầu của các vị hoàng tử nhà Trần đã lần lượt rơi xuống, tạo nên một cái cầu thang bằng xác chết để ông ta bước lên quyền cao chức trọng, còn những người thuộc phe các hoàng tử đó đều bị đày sang Tàu hay tới những vùng miền Tây. Rất ít người còn sống sót, trong đó chỉ có Nguyên Soái Trần Mộng Dũ, người anh của ông và chính ông ta nữa, là được tha và được giữ địa vị cũ. Nhưng được bao lâu đây? Người như Hồ Quý Ly, một con người tham vọng đến điên cuồng, mưu mô quỷ quyệt và không ngại làm một điều gì để mau lẹ đưa ra một chương trình cải cách triệt bất chấp lòng dân, thì điều gì cũng có thể làm. Viên Tham Tri bộ Lễ sợ hãi tự nhủ, kể cả việc có thể bị tố cáo là chống lại họ, nhất là do tên Loan lòng dạ lang thú là viên Đại thái giám được Hoàng đế tin dùng, tên này đang được đồng bọn hỗ trợ, là một dịch tễ cho nhân loại, là những tên ăn bám và chuyên môn hủ hóa bậc vương giả hiện đang hoành hành trong nội cung. Vì thế, ông phải thận trọng hơn rất nhiều, vì ông là người có vai vế dưới mắt những bạn đồng sự cùng bộ với mình, dù họ là những học trò Khổng Tử, thuộc loại thỏ nhát. Ban đêm ông nằm mơ thấy người ta tới bắt ông phải chọn lựa lọ thuốc độc, con dao găm và dải lụa. Ông giật mình tỉnh dậy tưởng mình đang trông thấy những ánh đuốc bập bùng của bọn cấm vệ trong vườn của mình. Chưa bao giờ ông rời khỏi nhà, dù chỉ là đi dự một buổi họp tầm thường, mà lại không tự hỏi rằng liệu ông có còn trở về nhà không. Tóm lại, ngày nào ông cũng thấp thỏm sống như thể ngày đó là ngày cuối cùng của đời ông, lúc nào cũng phải cảnh giác, ngờ vực tất cả, ngờ vực mọi người, và ngờ vực cả chính mình... Đó là những tư tưởng bi quan mà viên Tham Tri bộ Lễ cầm lòng không muốn thổ lộ cho cháu mình.

Lúc đó có tiếng lao xao rất lớn trước cổng nhà. Người gác cổng vội vã chạy vào báo có khách tới thăm. Viên Tham Tri lấy lại thần sắc.

- Mời quan Hàn Lâm Hoàng Hội Khanh vào đây ngay!

Nhân vật đang bước tới tuổi độ tứ tuần. Cặp lông mày cao hình cung tạo cho ông có một vẻ như luôn dò xét mọi việc. Ông có một bộ râu đen và thon. Chắc hẳn ông vừa dự một phiên họp trọng thể ở Hoàng Cung tới đây, vì ông đang bận áo thụng màu đỏ thắm của quan nhất phẩm triều đình.

Sau những lời chào hỏi thông lệ, ông cho biết ông vừa mới đi dự một buổi họp bất thường của các quan trong viện Hàn Lâm về việc Hoàng đế khai mạc kỳ thi tuyển chọn các nhà nho xuất sắc.

- Dù là chuyện quan trọng của toàn kinh thành đi nữa, thì Hoàng thượng không thể đi từ kinh đô mới ra đây chỉ vì việc này.

Đôi mắt ông tròn và mở to đầy tò mò nhìn chàng trai Nguyễn Trãi.

- Đây là Nguyễn Trãi, cháu của tôi, ở làng Nhị Khê, là thí sinh kỳ thi Hội này - viên Tham Tri nói. Nhưng xin mời ngài ngồi xuống đã. - Nói rồi ông ra lệnh cho gia nhân tiếp trầu và nước giải khát.

- Ngày xưa - quan Hàn Lâm vừa nói vừa mặc nhiên ngồi vào chỗ của một thượng khách, còn viên Tham Tri ngồi chỗ thứ hai, và cháu ông ngồi chỗ thứ ba. - tôi với Bảng Nhãn Nguyễn Phi Khanh học cùng một thầy. Ông Khanh hiện nay đang điều khiển một trường rất nổi tiếng ở Nhị Khê. Đã nhiều năm nay chúng tôi không được gặp nhau, nên khi nào cháu về thì cho ta gửi lời thăm ngài nhé!

- Kính thưa quan Hàn Lâm Học Sĩ - Nguyễn Trãi tươi cười trả lời - cháu xin sẽ chuyển lời hỏi thăm của ngài tới cha cháu. Cháu là con trai của Nguyễn Phi Khanh.

- Ôi, thật là một sự trùng hợp tuyệt diệu! - Quan Hàn họ Hoàng kêu lên và phe phẩy tay áo. - Thật tuyệt diệu!

Dường như ông ta rất là vui. Cậu cháu sững sờ nhìn nhau.

- Ngài nói "sự trùng hợp tuyệt diệu" nghĩa là gì? - Viên Tham Tri hỏi.

- Tôi đến chỉ để báo cho ngài biết - vị Hàn Lâm Học Sĩ trả lời - trong danh sách những người sắp được bổ nhiệm vào viện Hàn Lâm, thì tên của người anh rể ngài là Nguyễn Phi Khanh đã được ghi vào. Như vậy thì việc con của ông ta ở đây để chính tai cậu ấy nghe cái tin vui về cha mình chẳng đúng là việc lạ thường sao?

Vì thường xuyên phải cảnh giác nên vị Tham Tri cảm thấy khó mà tin được một biến cố vui mừng như vậy có thể xảy ra. Khi thấy gương mặt của cháu mình rạng rỡ, và nghe quan Hàn Lâm quả quyết, cuối cùng ông cũng tin: viện Hàn Lâm bất thường họp theo lệnh của nhà vua đã lập ra một bảng danh sách những người sẽ được tiến cử. Nguyễn Phi Khanh có tên trong đó. Lúc đó ông mới tuôn ra những giọt lệ nhẹ nhõm và vui mừng.

- Có lẽ chuyện này còn phải chờ thời gian - Hàn Lâm Học Sĩ Hoàng tiếp tục - nhưng tối đa là vài tuần nữa thôi, anh rể ngài và thân phụ cháu sẽ là một trong những thành viên lỗi lạc nhất trong cái hội thông thái của chúng ta, và tôi rất mừng vì điều đó. Phần cháu, cậu cử nhân trẻ tuổi này, bác chắc chắn rằng cháu có một người thầy như thế thì cháu sẽ được chấm đỗ kỳ thi Hội này một cách vẻ vang. Chắc cháu đã biết có những môn thi mới về toán và về những vấn đề thời sự do Hoàng đế đưa vào. Điều này đã khiến cho nhiều vị trong Bộ Lễ phải nghiến răng bực bội, phải vậy không? - ông quay về phía quan Tham Tri bộ Lễ, ông này đang ra dấu phủ nhận quyết liệt.

- Làm sao tôi có thể phủ nhận là từ thời Khổng Tử đến nay thế giới đã biến đổi, và việc cải cách lại những khái niệm sư phạm của chúng ta là chuyện cần thiết? - ông vội vàng cải chính.

- Ngài thì khỏi nói rồi! Nhưng không phải tất cả những người đồng sự của ngài đều như ngài cả. - Hàn Lâm Hoàng chế giễu - Đó là một lũ học trò Khổng Tử bảo thủ, nhát gan và thiển cận. Nếu họ không nhìn xa trông rộng, họ sẽ gặp khó khăn. Chính đức thầy mà họ vẫn tôn kính học hỏi đã nói như thế. Còn thầy cử trẻ tuổi của chúng ta nghĩ gì về những cải cách đang được tranh luận sôi nổi đó?

Nguyễn Trãi bỗng nhiên cảm thấy mình đang ở trong vị thế của một nhà nho nghèo nàn miền tỉnh không biết phải đặt chân chỗ nào cho đúng. Mới đầu chàng có khuynh hướng muốn bắt chước thái độ của cậu mình mà chàng thấy rõ là khôn ngoan. Rõ ràng là quan Hàn Lâm Hoàng là người thuộc về phe những kẻ đầy lòng ngưỡng mộ Hoàng đế, và chắc chắn chính ngài đã đưa ông lên cái địa vị vinh quang và vững chãi của người đắc thế. Trong lúc cậu chàng giới thiệu đôi bên, chàng đã lỡ không ca ngợi danh tiếng của ông ta đã từng lan tận đến Nhị Khê như đương nhiên là phải vậy, làm sao sửa chữa lại được sự vụng về ấy? Và nhất là làm sao biểu lộ được cùng một lúc việc chàng không đồng ý phán đoán của quan Hàn Lâm về những tín đồ đạo Khổng ấy, và việc chàng đồng ý tinh thần của những cải cách mới đó, và cả những dè dặt của chàng khi bàn về việc áp dụng những cải cách ấy mà không phản bội lại tư tưởng của mình, và cũng không làm phương hại tới cha mình? Có một cái bẫy ở đâu đấy. Thôi mặc kệ, chàng tự nhủ, một người thành thật thì giá trị bằng cả ngàn người dua nịnh, vì thế mình phải nói!

- Một thư sinh nhỏ bé như cháu rất lấy làm hạnh phúc được một bậc uyên bác như bác hỏi về những vấn đề nghiêm trọng như vậy. Xin bác tha thứ cho sự dốt nát và thẳng thắn của cháu. Đức Thầy đã chẳng nói: "Người khôn thì thanh khiết nhưng không làm bộ đoan trang, thẳng thắn nhưng không cứng ngắc" sao? Những đồ đệ của Khổng Tử mà bác nói đến còn là môn đệ của Đức Khổng nữa không?

Quan Hàn phá ra cười.

- Cháu của ngài không thiếu trí đâu! - Ông ta nói với vị Tham Tri đang thở phào nhẹ nhõm.

- Còn về những cải cách mới - Nguyễn Trãi tiếp - thì hôm nay cháu phải biết ơn ông ngoại cháu là Hoàng thân Trần Nguyên Đán, cũng là người thầy đầu tiên đã dạy cháu từ hồi còn nhỏ rằng việc học không phải chỉ ở trong sách vở mà còn bằng những hiểu biết trực tiếp trong cuộc sống nữa.

- Đây thực tình là lớp hậu sinh mà chúng ta có thể tin cậy được! - Vị Hàn Lâm Học Sĩ sảng khoái cất tiếng.

Viên Tham Tri đang định ra lệnh cho gia nhân kiếm rượu để ăn mừng cho xứng đáng việc người bà con của mình được bổ nhiệm, thì vị Hàn Lâm Học Sĩ can ngăn.

- Trước tiên hãy để chàng trai trẻ này thi xong cái tiến sĩ đã. Sau đó cậu ta mới nhẹ nhõm tâm hồn để ăn mừng chứ?

Sau khi ông ta cáo lui, viên Tham Tri nói với cháu:

- Cha cháu được tiến cử làm cậu vui quá, vì hiện tại người ta đã nhận ra khả năng lớn lao của cha cháu, và sửa chữa lại một bất công trầm trọng mà người ta đã làm cho cha cháu trong quá khứ... - Vì không biết rõ Nguyễn Trãi đã biết những gì về hoàn cảnh cuộc hôn nhân đặc biệt của cha mẹ chàng và về việc chàng sinh ra, nên ông không nói gì hơn nữa. - Ngày mai, nếu cháu muốn, cậu cháu mình sẽ tới chùa Báo Thiên hay đền Hai Bà để dâng hương.

Nguyễn Trãi nói một cách hăng say về việc cha chàng được tiến cử và về việc trừng phạt cha chàng quá nghiêm khắc, theo cách chàng nói thì rõ ràng là chàng cho rằng chỉ vì việc vi phạm những luật lệ hiện hành bấy giờ là đã lấy một nàng công chúa trong khi chính mình chỉ là một nhà nho nghèo nàn và bình dân, mà cha chàng đã phải trả giá bằng sự lỡ làng trên hoạn lộ60 của mình. Vị Tham Tri rất ưng ý về sự khôn ngoan của chàng. Hai cậu cháu còn nói chuyện với nhau một lúc rồi chàng xin phép cậu cho mình gặp mợ và các anh chị em con cô con cậu với mình, nhất là được gặp Trần Nguyên Hãn là người đã từng chơi chung với chàng hồi còn nhỏ ở Côn Sơn.

Trong thời gian chàng còn sống ở kinh đô, có thể là nhiều tuần, chàng được cậu cho ở trong thư phòng, điều đó khiến chàng rất thích thú.

—★—

Các thí sinh là những người được các quan Đốc Học61 ở địa phương tuyển chọn trong số những người đậu kỳ thi Hương xuất sắc nhất. Từ khi các thí sinh từ các tỉnh khắp nước đến, cả thành phố nhộn nhịp sôi động hẳn lên. Kỳ thi Hội không tạo ra một sự nhộn nhịp khác thường như kỳ thi Hương, vì số thí sinh hạn chế hơn rất nhiều, nhưng ai cũng biết được tầm quan trọng đặc biệt của nó. Trước tiên vì đây là một cuộc tuyển chọn những thành phần ưu tú bằng những bài khảo hạch hết sức khó khăn, thứ hai là vì kỳ thi được tổ chức tại triều đình, và sau cùng vì chính Hoàng đế sẽ chọn ra người cuối cùng xuất sắc nhất. Một cái mũ nho gia không thể ló ra ở chân trời mà không bị bao vây và thử thách ngay bởi nhiều câu hỏi. Khắp nơi, trong những phòng hội ở kinh thành, trong những nơi dành cho học sinh ở xung quanh Văn Miếu, trong các quán ăn, ở ngoài chợ, chỗ nào thì "kỳ thi của các nhà nho xuất sắc" cũng là trọng tâm mọi cuộc nói chuyện.

Áp ngày thi, khoảng giờ Tý62, Nguyễn Trãi đã lều chiếu trên vai, ống bút mực ở cổ, đến trước dinh Giảng Vũ63, nơi người ta đã dựng trường thi. Trường thi là một khoảng rộng hình chữ nhật, xung quanh có đèn sáng. Phía trên cổng chính, một tấm bảng lớn có hai ngọn đuốc soi sáng, trên đó viết bằng chữ lớn:

"Vua tuyển chọn anh tài".

Một cái cửa rộng được canh gác nghiêm ngặt, qua đó, người ta thấy một cái bục có mái che, trên đó có các vị giám khảo nghiêm chỉnh trong bộ áo lộng lẫy được gọi là Mãng bào đang ngồi, xung quanh có khoảng bốn chục viên thư lại có nhiệm vụ kêu tên và phát giấy thi.

Đa số các thí sinh từ người trẻ nhất đến người nhiều tuổi nhất đều đã tựu về đây và đang chờ đợi được kêu tên dưới ánh đuốc sáng rực. Trong đó, một số thí sinh đã ra làm quan nên mặc đồ rất sang trọng, một số khác là những thầy đồ mặc áo dài vá.

Ba hồi trống vang lên, việc gọi tên bắt đầu. Cứ một tiếng chiêng thì quan tuyên cáo lại đọc một tên. Sau khi được khám xét, thí sinh vào bên trong, tiến tới cái bục để nhận giấy thi từ tay hội đồng giám khảo.

Vì ban ngày Nguyễn Trãi đã tới xem bảng yết danh, nên chàng biết mình sẽ được gọi trong số những tên cuối cùng, và chàng đã rời chỗ để đi tìm xem có khuôn mặt nào quen không. Quan sát chàng vào lúc này, với vẻ hãnh diện và bình thản, có ai ngờ được rằng chàng đang đi tìm một người bạn? Chính chàng thà chết còn hơn là thú nhận điều đó. Bốn năm trước, chàng đã thi đậu vẻ vang kỳ thi Hương cùng một lượt với Nguyễn Mộng Tuân và Lý Tự Tân, và vì thế họ đã trở thành "anh em đồng khoa" của chàng. Có tên trong bản danh sách, chắc chắn họ phải có mặt ở đây, mà sao chàng không thấy họ đâu cả. Chàng xúc động đến lạnh buốt tim gan. Những kiến thức mà chàng đã thu thập ngày cũng như đêm suốt bao lâu nay đã biến đâu hết rồi, y như những lông chim bị gió cuốn đi, cùng với những lời khuyên nhủ mới nhất của cha và cậu chàng.

Có một cụ rất già mang những đồ lỉnh kỉnh của một thí sinh cũng đang chờ đợi cách chỗ chàng không xa. Gương mặt già nua của ông nhăn lại vì ông đang chăm chú nghe những tên mà quan tuyên cáo đang đọc lên từng tên một. Nguyễn Trãi tự nhủ lẽ nào một cụ già nhiều tuổi như thế lại có thể đối đầu được với những thử thách lâu dài và cam go như vậy! Tâm hồn chàng dâng lên một niềm cảm phục sâu sắc đối với ông cụ.

Hết tiếng chiêng này tới tiếng khác, các tên được gọi nối tiếp nhau. Những thí sinh đã được gọi tên vào bên trong nhiều bao nhiêu, thì những thí sinh còn lại càng tiến tới gần cổng vào sáng rực bấy nhiêu. Cử động của một người trong đám đó khiến Nguyễn Trãi nhận ra khuôn mặt xương xương của Lý Tự Tân. Chàng vui hẳn lên.

- Anh Tân, lâu quá tôi không gặp anh, nhưng tôi vẫn nghĩ tới anh hoài. Tôi rất mong tìm thấy anh ở đây. Anh đến Đông Đô hồi nào?

Gương mặt gầy như hươu của Tự Tân nở ra thành một nụ cười rộng.

- Chính Trời đã xếp đặt cho tôi gặp anh ở đây! Thật là một may mắn tiền định! Nếu không, làm sao chuyện đó xảy ra được vì tài năng của tôi chỉ có thể sánh được với một phần trăm tài năng của anh? Làm sao tôi dám hy vọng đi thi cùng một lúc với anh trong kỳ thi Hội này?

Chàng mới rời khỏi Triều Đông thuộc huyện Thượng Phúc của chàng cách đây mới hai ngày. Trong thời gian thi cử, chàng ở chung với Mộng Tuân trong một quán cơm ở phố Bát Sứ.

- Anh Mộng Tuân, bạn cùng khoa với tôi, cũng đã được tuyển chọn. Thật là ân phúc của Trời - Nguyễn Trãi nói - Đã kêu đến tên anh ấy chưa?

Tự Tân chỉ kịp ra dấu xác nhận, vì quan tuyên cáo vừa mới kêu tên chàng.

Tới lượt Nguyễn Trãi, những người lính có nhiệm vụ giám thị phía trong kiểm tra những vật dụng của chàng. Rồi sau khi chàng nhận được giấy thi, họ dựng lều cho chàng ở nơi đã được chỉ định có tên chàng được ghi sẵn trên một thẻ tre.

Gọi tên xong thì trường thi đóng cửa, có lính canh bảo vệ bên ngoài, và các võ quan bát phẩm giữ trật tự bên trong. Các thí sinh ở tại chỗ của mình chờ đợi trời sáng và chờ khởi sự môn thi đầu tiên.

Người ở kế bên Nguyễn Trãi chính là cụ già đáng kính mà chàng đã thấy và bội phục sự kiên trì của ông trước cổng trường: Nhà Nho Mao Từ Biên - đó là tên của ông - đã nhiều lần đi thi Hội rồi.

- Cho tới đây, tôi vẫn chưa được may mắn trong lĩnh vực này. Nếu tôi không nằm mơ thấy mình hái được cành đan quế cao nhất thì chắc lần này tôi đã bỏ cuộc rồi. Thật vậy, tóc đã trắng như sương thế này thì thi cử nhằm tranh đua quan trường với người ta để làm gì?

Ông cụ cười để rồi nụ cười biến thành cơn ho sặc sụa. Từ lều của mình, Nguyễn Trãi còn nghe thấy ông cụ lấy lại hơi thở thật vất vả.

- Thưa cụ, xin cụ hãy uống một chút nước mát trong bầu nước của cháu.

Uống xong, cụ nho già cảm ơn. Hai người còn thì thầm trao đổi với nhau mấy lời nữa rồi ngủ gà ngủ gật. Và đêm đã qua.

Trước giờ Thìn64 mấy phút, ba hồi trống vang lên khắp trại, các thí sinh đang ở trong lều bèn thò đầu ra như những con rùa. Cuộc thi khai mạc. Trước tiên là thi Hội, là cuộc thi riêu quyết, nếu đậu thì mới qua thi Đình.

Trước mỗi khu hình vuông trong trại có trồng một cột cao, trên đó là chiếc bảng nhỏ ghi đề thi. Đề thi vừa ra, các thí sinh bắt đầu cầm bút. Họ làm bài cho tới giờ Dậu65. Lúc đó có tiếng chuông báo hiệu hết giờ thi, các thí sinh phải đem bài thi của mình nộp tại các chòi ở giữa trại. Tại đó, quan Đốc Tuyển sẽ gỡ bỏ tờ hộ tịch của thí sinh ra, rồi phân chia cho những người phụ trách chép lại những bài đó, nhằm đề phòng không cho các giám khảo nhận ra nét chữ của ai. Sau đó các bài đã chép được phân thành từng xấp 16 bài cho 16 vị giám khảo đầu tiên. Những vị này, sau khi đọc và chấm bài, thì lại xếp thành từng xấp 8 bài cho 8 vị giám khảo khác kiểm tra lại. Những vị này sau khi kiểm tra và phê điểm, lại xếp thành từng xấp hai bài cho hai vị giám khảo thanh tra. Hai vị này lại chấm lại một lần nữa. Cuối cùng có một hội đồng ở bên ngoài do quan Ngự sử đứng đầu có nhiệm vụ phát hiện thêm những lỗi cuối cùng và cho điểm tổng kết. Đó là những điều kiện nhằm bảo đảm sự công bằng hoàn hảo nhất cho các thí sinh. Đó là những điều lệ mà các quan dù có thiên vị đến mấy cũng không dám lỗ phạm, nếu vi phạm thì sẽ bị tử hình hoặc giáng chức.

Có bốn đợt thi cách nhau khoảng 10 ngày, về nghi thức thì các đợt đều giống nhau, chỉ có một điểm khác nhau là mỗi đợt thi đều có một số thí sinh bị loại, nên số các thí sinh càng ngày càng giảm đi. Đợt đầu thi về văn chương: có 7 chủ đề, trong đó có hai chủ đề bắt buộc. Đợt thứ hai là thảo một tờ biểu của một vị quan lớn gửi lên triều đình, và một sự kiện mới là thêm một bài tường trình về nông học. Đợt thứ ba là làm một bài thơ và một bài mô tả bằng thơ. Số các thí sinh là 500 giảm xuống còn 300.

Dù thế nào thì Nguyễn Trãi vẫn đứng đầu, ba anh em đồng khóa cũng như cụ cử Mao Từ Biên lần nào cũng có tên trong danh sách được tiếp tục thi. Nguyễn Trãi nhiều lần được đánh giá là xuất sắc, mấy người kia được đánh giá là rất giỏi. Họ lại gặp nhau trong đợt thi thứ tư cũng là đợt chót. Cuối đợt thi này hội đồng giám khảo sẽ quyết định họ có xứng đáng thi Đình hay không.

- Cho tới đây, tôi chưa từng qua nổi đợt thi văn chương - cụ cử nhân tỏ vẻ ngạc nhiên - thế mà bây giờ tôi đang thi đợt văn sách. Giấc mơ của tôi đã không đánh lừa tôi thì phải. Cuối cùng Trời sẽ cho tôi vào trong phòng thi Đình chăng?

- Giờ đây các vị giám khảo đã công nhận văn tài của cụ, cụ còn nghi ngại gì nữa? - Nguyễn Trãi đáp lại.

Trong các lều, không khí ban đêm trở nên nặng nề và ẩm thấp. Những cơn mưa to tháng tám đã làm mặt đất ướt sũng, làm ướt đẫm các chiếu, thấm vào áo dài các thí sinh, và thấu vào tận xương những thí sinh nhiều tuổi nhất. Cái ngày phải chạm trán với đợt thử thách quan trọng nhất, đợt thử thách mà vị Hoàng đế hiện tại thích thú nhất, cái đợt thi để mỗi thí sinh chứng tỏ sự hiểu biết sâu xa về các nhà văn cổ điển, đồng thời cho thấy nhãn quan độc đáo của mình, cái ngày dài dằng dặc này ngay từ rạng đông, ai cũng đều cầu xin Trời đừng mưa.

Hồi trống vang lên. Trên những cây cột có bảng yết, đề thi thời sự vừa được đưa ra. đề tài này đã được dự kiến trước nhờ những cải cách mới của nhà vua. Tất cả các thí sinh đều mài mực và bắt đầu làm việc.

Những đám mây lớn như những làn khói đen khổng lồ đang trôi cuồn cuộn trên trường thi, và trên những mái nhà dát vàng bạc của Hoàng thành. Vào khoảng giữa trưa, sau khi các thí sinh trở về lều của mình, và các quyển thi đã được đóng "dấu ấn ban trưa"66, thì trời bắt đầu mưa, đổ xuống từng hồi như trút nước. Trong khoảng thời gian chưa đủ giập bã trầu, cả trường thi biến thành một cái ao rộng. Nhiều lều chõng bị sụp, nhiều cái bị bong mất một nửa, một số bị cuốn bay đi. Mưa như thác đổ xuống đầu và xuống bài vở của những thí sinh bất hạnh. Sách ướt và chữ trôi. Thật là đáng tiếc! Cũng may là chưa quá trễ để được phép thay đổi tập bài thi. Những vật dụng rơi vãi tung toé và đính đầy bùn. Nhiều thí sinh được các vệ binh tới giúp, cố gắng dựng lại cái lều bị bung ra từng mảnh của mình trên mặt đất ướt dính, áo dài vén lên để chạy lăng xăng hoặc lội bì bõm, vừa làm vừa nguyền rủa cho số phận kém may mắn của mình. Những thí sinh cũ đã từng quen với trường thi và với thời tiết xấu thì từ bên trong đấm mạnh vào cái lều ra bên ngoài để tống nước đọng trên những chỗ trũng, và những người bên cạnh bắt chước họ. Người nào do may mắn không bị thiệt hại gì trầm trọng vì bão, thì đang cố thủ trong chỗ trú mưa và tiếp tục viết, và nếu có quạt thì dùng quạt để bảo vệ bài vở của mình.

Các quan giám khảo ngồi tuốt trên cái chòi ở giữa cũng không thoát khỏi ướt. Cơn mưa rào như roi quất đã ùa vào dưới mái nhà sơ sài làm ướt những bộ đồ gấm thêu hoa mười màu của họ. Trừ quan Ngự Sử triều đình, nhiều vị đã phải giở mũ cánh chuồn ra, ép vào ngực để nó khỏi ướt, trong khi 40 viên thư lại quay lưng về phía cơn giông làm thành một tấm chắn bằng xương thịt bảo vệ cho họ.

Mưa như thế trong khoảng nấu chín hai nồi cơm rồi bầu trời sáng ra và cơn mưa tạnh hẳn. Khi tiếng chiêng báo hiệu hết giờ thi thì mặt đất bắt đầu khô. Trời nóng trở lại như dính chặt trên làn da. Các thí sinh áo xống nhàu nát, chỗ dính bùn chỗ bị ướt, đang cầm bài thi trên tay đi về phía chòi trung ương.

Nguyễn Trãi ra khỏi lều, chân lấm bùn, phần dưới quần ướt sũng, chàng nhìn sang chiếc lều của cụ già. Ông này đang cúi đầu đọc lại bài nghị luận rất dài thuộc thể văn sách của ông. Vì kính trọng ông cụ, Nguyễn Trãi có ý chờ ông. Các bạn Tự Tân và Mộng Tuân của chàng đã dự định ăn mừng thi Hội xong tại nhà hát ả đào nào đó ở bên sông, và ông cử Mao Từ Biên đã nhận lời cùng đi với họ mà?

Dường như nhà nho này chưa có vẻ gì là muốn đứng dậy cả. Một lúc sau, Nguyễn Trãi tiến lại gần và tế nhị tằng hắng lên mấy tiếng. Chàng lại chờ nữa, nhưng cuối cùng không thể chờ mãi được:

- Thưa cụ cử, cụ không nghe thấy hiệu báo sao? Giờ thi đã hết rồi, cụ ạ!

Cụ vẫn không nhúc nhích, cũng không trả lời. Ông ta vẫn ngồi, mắt vẫn chăm chú vào bài viết.

Chiêng lại gióng lên lần nữa để giục giã những người nộp bài trễ.

- Cụ cử ơi, cụ cử! - Nguyễn Trãi lại gọi to hơn nữa.

Chẳng lẽ ông cụ không nghe thấy gì sao? Chàng lễ phép đụng nhẹ vai ông già, thì ông cụ ngã người sang bên cạnh, đầu va xuống đất nghe cái bịch.

Gương mặt ông tỏ ra kiệt sức, đôi mắt đứng tròng, miệng xệ xuống biểu lộ một sự ngạc nhiên hết sức. Ngón tay co quắp giữ lấy cây viết lông. Ông cụ đã chết rồi.

Nguyễn Trãi định kêu lên một tiếng nhưng nén lại được. Chế ngự cảm xúc đang dào dạt dâng lên, chàng nhặt bài thi của người chết lên, thấy phần kết luận ở cuối trang chót.

Chàng tự nhủ: "ít ra ông Trời cũng để cho cụ viết xong". Nước mắt chàng trào ra, và chàng lấy bài của ông đem nộp cùng một lần với bài của chàng trong một cái tráp đặt ở chòi giữa. May mà vừa đúng lúc tráp này sắp được đóng lại và niêm phong. Sau đó chàng báo cho quan Đề Tuyển (tổng giám thị) biết thí sinh già nhất đã về gặp tổ tiên rồi.

Một đám đông gồm những người tò mò, cha mẹ và bạn bè của các thí sinh đang lao xao trước cổng trường thi trong đó có các bạn đồng khoa với Nguyễn Trãi đang chờ chàng. Khi thấy gương mặt tối sầm của chàng, mới đầu họ tưởng chàng không hài lòng về đợt thi cuối cùng này. Đợt thi này có năm đến sáu đề mục phải triển khai, tất cả đều liên quan tới những sự kiện thời sự, chỉ có một đề nói về những chuyện xưa. Nhưng đối với họ, những đề mục đó gây khó khăn cho chàng là một chuyện hoàn toàn phi lý. Không kể những kinh điển, các sách cổ, các sách triết, sử chính thức, những tập thơ văn, chàng còn biết tất cả những gì liên quan tới binh thư, những việc về công chính, địa lý, nông nghiệp, chiêm tinh, lễ nghi, âm nhạc... Không có sách nào mà chàng không đọc. Không một tác phẩm nào mà chàng không bỏ thì giờ ra để suy tư. Chàng đã học dưới sự chỉ dẫn sáng suốt của ông ngoại chàng là một vị Hoàng thân và là thượng thư, rồi dưới sự hướng dẫn nghiêm túc của cha chàng là một bảng nhãn, cũng là một bậc thầy nổi tiếng. Tóm lại, họ biết rõ chàng là một nhà trí thức cừ khôi. Nhưng vì trước đó họ đã hứa với nhau là sẽ cùng đi giải trí với nhau một bữa tối, và trong cuộc vui không ai được đả động gì tới việc thi cử, nếu vi phạm sẽ bị phạt, nên họ không dám hỏi chàng câu nào cả. Mộng Tuân đã phải chung số phận khốn khổ với những người có lều và đồ đạc bị trôi theo dòng nước. Cũng may mà chàng còn giữ được nguyên vẹn bài thi của chàng có đóng dấu của triều đình, vì chàng đã luồn nó vào trong áo dài sát vào da. Chàng bật cười: Những nỗi gian truân chàng gặp trong kỳ thi Tiến sĩ này chắc chắn hai mươi năm sau sẽ làm cho lũ con cháu chàng phì cười. Đương nhiên với điều kiện là chàng phải có hai cái hạnh phúc lớn nhất này: thành công trong kỳ thi và cưới vợ. Sự vui vẻ đã làm dịu đi những nét cương nghị trên khuôn mặt chàng.

- Nhìn chúng ta là mọi người phải nói rằng chúng ta vừa ra sông câu cá, chứ không thể nghĩ rằng chúng ta vừa mới thi Hội ra! - Chàng vừa nói đùa vừa nhìn Tự Tân và Nguyễn Trãi từ đầu tới chân. - Tôi đề nghị là chúng ta nên về nhà tắm và thay quần áo trước khi đi tới nhà các cô ả đào mà tôi đã nói với các bạn. À này, anh Trãi, ông cử Mao Từ Biên không cùng đi với chúng ta sao?

- Chờ ông cụ cùng đi với chúng ta tối nay có ích gì! - Nguyễn Trãi trả lời buồn bã và chàng kể lại cho họ nghe chàng đã thấy ông cụ chết trong hoàn cảnh nào.

- Tội nghiệp cụ cử với giấc mộng đan quế của cụ! - Tự Tân thốt lên - Gần tới đích rồi mà cái chết lại cướp mất của cụ cái danh hiệu ấy! Tuy nhiên, đối với một nhà nho thì không cái chết nào đẹp hơn cái chết của cụ: chết với cây bút trong tay. Thì ra nãy giờ anh có vẻ sầu khổ là vì chuyện ấy!

Mộng Tuân chau mày lại, chàng đành phải gật đầu, lo lắng sợ cái buổi tối đầy vui thú của mình phải trôi theo dòng nước.

- Có người nào biết ông cụ trọ ở nhà ai tại kinh đô không? - Nguyễn Trãi hỏi.

- Anh đã báo tin cho quan Đề Tuyển biết rồi thì ông ta sẽ ra lệnh cử hành lễ tang theo đúng nghi thức. Can gì anh phải lo lắng về chuyện đó, anh Trãi? - Mộng Tuân nói - Ngày mai chúng ta sẽ hỏi thăm xem xác ông cụ được quàn tại đâu để tới viếng. Thôi bây giờ chúng ta hãy về nhà nghỉ, và sẽ gặp nhau lại vào giờ Tuất67, tại cửa Đông.

Nguyễn Trãi không nghe lọt lỗ tai câu nói ấy. Là người ở lều kế bên với ông cụ trong trại thi, hay ở nhà kế bên với ông cụ trong cùng một làng, khi hữu sự, thì đều cùng một bổn phận như nhau.

- Kìa! Có phải chính thằng bé kia vẫn thường tới tìm ông cụ không? - Chàng hỏi Tự Tân - Tới hỏi thằng bé chuyện đó thì có mất mát gì đâu?

Thế là chàng vội vã rời khỏi họ sau khi hứa sẽ gặp lại họ vào giờ và nơi đã hẹn. Mộng Tuân nhún vai:

- Ngoan cố làm sao! Nhúng tay vào cái việc chẳng liên quan gì tới mình thì làm sao anh ta dám hứa sẽ tới đúng hẹn được? Tôi đánh cuộc với anh là cuộc vui tối nay sẽ vắng mặt anh ta cho mà coi.

Mộng Tuân phải cố gắng lắm mới giấu được nỗi bất mãn. Chàng nghĩ: tài năng của ông bạn này thì những người đồng thời không ai sánh kịp. Hơn nữa, anh ấy rất trung thực, chân tình và quảng đại. Nhưng tại sao anh ta cứ phải lên lớp cho người ta hoài như thế? Cứ thế này mãi thì hết chịu nổi.

- Thôi, cứ để cho anh ta trổ tài thi ân giáng phúc, còn chúng ta cứ chuẩn bị việc của mình - Chàng tức giận nói với Tự Tân.

Tự Tân đưa mắt nhìn theo Nguyễn Trãi đang cùng cậu bé đi xa dần. Giọng tức giận của Mộng Tuân làm chàng giật mình.

- Anh Tuân, làm gì mà anh phải tức giận như thế? Ông cụ nho tội nghiệp ấy không làm cái buổi tối của chúng ta mất vui hơn là nếu ông cụ vẫn còn sống. Điểm duy nhất khác biệt giữa anh và anh Trãi là anh nghĩ rằng anh ấy không có bổn phận nào đối với người quá cố mà anh ấy quý mến. Còn anh ấy thì nghĩ là có. "Người trí thì thích nước, người nhân hậu thì thích núi"68. Anh có thể cho rằng anh ta vô lý mà không lỗi đạo làm người không? Vả lại anh ta hứa là sẽ gặp lại chúng ta thì anh ta sẽ gặp lại chúng ta!

- Rồi chúng ta sẽ thấy!

Mộng Tuân dùng hai tay xua đuổi những kẻ tò mò đang vây quanh.

- Tôi chỉ tiếc là không cùng đi với anh ấy - Tự Tân dịu dàng nói thêm phía sau lưng Mộng Tuân - Nói cho đúng, chúng ta quen với cụ Mao Từ Biên không kém gì anh ấy!

Mộng Tuân nhìn Tự Tân một cách tức giận, và không hé răng nói gì cho đến lúc tới quán cơm. Tự Tân cười ranh mãnh. Chàng biết rõ sở thích của Mộng Tuân là ham ra lệnh. Những lần anh ta "lộng quyền" không làm chàng ngán chút nào cả. Trong những lúc như thế, Tự Tân - vốn đã phải sống thời niên thiếu giống như nhà nho Xã Đàn69 - tự hỏi liệu đứa con quan được nuông chiều ấy có nhận được những ngọn roi mây mà anh ta đáng phải chịu không.

—★—

Tới giờ hẹn, họ tới Cửa Đông với quần áo mới tinh. Họ thấy Nguyễn Trãi đang chờ họ ở đó với một áo dài lịch sự có thêu hoa. Thế là sự cáu kỉnh của Mộng Tuân lập tức biến mất. Trước cái nhìn mỉa mai của Tự Tân, hắn nắm tay Nguyễn Trãi ân cần hỏi thăm về những việc chàng vừa làm.

Cụ Mao Từ Biên đã bất ngờ trút hơi thở cuối cùng xa nơi chôn nhau cắt rốn của cụ. Nguyễn Trãi đã phải chạy tới nha môn của cậu chàng mượn một số tiền để mua quan tài, nhờ chủ quán cơm tìm một vị tăng và làm một mâm cơm cúng. Tất cả những việc đó chàng không hề hở môi nói cho những người bạn "cùng bút nghiên" này của chàng biết, và lại càng không nói về quan Hàn Lâm Hoàng – người mà chàng đã gặp ở nhà cậu chàng - ông ta đã phải kêu lên rằng một cái gương về kiên trì như vậy đáng được tâu trình lên Hoàng đế. Chàng chỉ nói:

- Ôi anh Tuân, can gì anh phải bận tâm tới chi tiết của những chuyện vật chất đó? Thi hài của cụ cử đang được quàn tại một trong những căn phòng mà chủ quán cơm đã muốn dành cho ông ở phường Giang Khẩu. Ngày mai chúng ta có thể cùng tới đó để phúng điếu như chính anh đã đề nghị. Tôi cũng xin các bạn miễn chấp vì đã thiếu lịch sự với các bạn lúc phải vội vã đi.

Mộng Tuân cảm thấy thích thú như tất cả những lần mà các biến cố xoay chiều theo đúng ý anh.

- Anh nói như vậy làm sao được? Thực ra chính chúng tôi mới là người đáng trách. Bây giờ tôi tin rằng không còn gì bất lợi cho buổi giải trí của chúng ta nữa.

Vừa trò chuyện thân mật, họ vừa đi bộ qua quảng trường lớn ở chợ Cửa Đông, vào giờ này vắng không còn ai. Rồi Mộng Tuân dẫn họ vào những đường hẻm quanh co tối om đi tắt ra phố Cây Hòe. Khắp nơi, chỗ nào cũng nghe thấy ba mươi tiếng rao nổi tiếng của những người bán hàng rong, và làn sóng những người qua lại cứ lên lên xuống xuống để xem cảnh rước đèn Trung Thu. Cả một đám đông người chen chúc nhau, vất vả tránh né giành lối đi cho những cỗ xe ngựa, khiến cho ba người bạn của chúng ta cứ phải dừng lại hoài, không thể nào đi nhanh lên được. Cuối cùng họ cũng tới được Đông Bộ Đầu, một cảng rộng. Để tránh đám đông ồn ào trên các bến tàu, Mộng Tuân đã dẫn các bạn đi hướng bắc vào một con đường vắng người, anh ta nói con đường này dẫn thẳng tới bến đò Tuyền Môn. Nhà của các cô ả đào ở cách đó không xa, trên bờ sông Tô Lịch.

Nghe nói tới những địa danh này, Nguyễn Trãi nhớ lại buổi sáng mùa hè đó, chàng cùng với ông ngoại xuống một chiếc thuyền quan rộng rãi để đi Côn Sơn. Chàng chưa bao giờ có dịp trở lại những nơi này. Nhìn lại bến đò xưa đó, chàng cảm thấy tâm hồn rung động vì một nỗi nhớ nhung. Tất cả có vẻ vừa như mới gần đây mà vừa như đã xa vời... Làn nước lóng lánh bị mũi tàu chẻ làm hai, giọng nói của Hoàng thân ông ngoại chàng gọi chàng từ phòng mũi tàu... Cuối cùng, Mộng Tuân dừng lại trước một căn nhà đẹp mắt có hai ngọn đèn gọi là "uyên ương" chiếu sáng. Nguyễn Trãi