Chương 2
Nguyễn Trãi đã đậu thủ khoa kỳ thi Hội, nên chàng sẽ tiếp tục thi Đình, đợt cuối cùng của kỳ thi Tiến Sĩ. Những người đã từng quen biết chàng không ai ngạc nhiên về điều đó cả. Các bạn chàng, Tự Tân và Mộng Tuân, cũng đậu nhưng hạng kém hơn. Số mệnh thật éo le, cụ Mao Từ Biên đã chết khoảng một tháng nay cũng có tên trong danh sách những người đậu kỳ thi Hội, như vậy là giấc mơ của cụ không sai. Ngày thi cuối cùng, tại sân rồng, khi phủ phục lạy trước ngai vua, Nguyễn Trãi cảm thấy có người níu áo mình:
- Này, có một người bạn nhận ra anh, mà anh lại không nhận ra người ấy - Cụ nho già vừa cười vừa nói với chàng - Tôi cảm ơn anh vì anh đã cúng rượu trên phần mộ của tôi. Tôi có thể nói cho anh hay rằng người đậu Đình Nguyên năm nay là người họ Nguyễn đấy! - Nói xong, ông ta biến mất. Nhưng Nguyễn Trãi tự nhủ thầm: có biết bao nhiêu người là họ Nguyễn.
Mười ngày đã trôi qua, thế mà đối với các thí sinh, thời gian có vẻ dài như mấy tháng. Đã bao nhiêu năm học hành chăm chỉ, có bao nhiêu thử thách phải đương đầu và vượt qua, cuối cùng sẽ gặt được kết quả nào đây?
Và rồi cái ngày quan trọng ấy đã tới, ngày xướng danh. Ngày này cũng là ngày chấm dứt sự thao thức của các sĩ tử đang nóng lòng chờ đợi, chấm dứt luôn công việc của các vị giám khảo chấm thi. Tưởng chừng như cả muôn thế kỷ, các giám khảo không hề bước chân ra khỏi trại, họ phải chấm bài, ghi chú, kiểm tra lại, ghi chú lại nữa, rồi mới đệ trình những bài thi ấy lên Hoàng Đế, và Hoàng Đế toàn quyền chọn người đậu cao nhất trong các thí sinh, cũng như Ngài đã toàn quyền chọn lựa chủ đề bài thi. Người ta đồn rằng Hồ Quý Ly đã chủ trương dành cho mình quyền đó.
"Học tài thi phận", người ta thường nói như vậy.
Vì thế các thí sinh cảm thấy run lên vì hãnh diện khi nghĩ tới mình có tên trên bảng vàng của nhà vua ghi danh sách các tiến sĩ. Và họ cũng cảm thấy run lên vì sợ hãi khi nghĩ mình có tên trong danh sách các Phó Bảng, nghĩa là những Tiến Sĩ bổ sung chỉ đạt được giải khuyến khích, không còn có thể thử thời vận của mình để đi thi Tiến Sĩ nữa. Như vậy thà rằng thi trượt còn hơn là nhận cái học vị hạ giá ấy, để rồi vĩnh viễn mất đi cái hy vọng một ngày nào đó đạt được cái danh Tiến Sĩ. Nhưng nếu thành công thì uy danh lừng lẫy biết bao! Những ưu thế về dòng tộc, về của cải, và cả về danh giá, đều phải nhường bước, phải tan vỡ, phải biến mất trước một danh hiệu như thế, danh hiệu mở ra con đường "thanh vân". Hôm qua họ còn đứng ngoài vòng danh lợi, bỗng nhiên hôm nay mọi người tìm kiếm họ. Vua yêu quý tài năng của họ: họ trở thành quý giá như vàng ngọc, họ sẽ làm việc phục vụ cho lợi ích của những người đương thời, và sẽ lưu danh trong những thế hệ mai sau. Vinh dự và giàu sang của họ cũng được chia sẻ cho họ hàng làng mạc của họ. Một mái nhà và những cánh đồng dành cho ai chưa có những thứ đó, còn ông thân sinh ra người đỗ đạt đó sẽ có chân trong hội đồng các Thân Hào. Cái giấc mơ của mọi người trong dân chúng ôm ấp trong đáy sâu tâm hồn, giấc mơ mà người mẹ nào cũng diễn tả qua bài hát ru đứa con trai của mình ngủ, giấc mơ mà người con gái nào cũng ấp ủ khi chạy theo một người chồng, cho dù nàng là nông dân, quý phái, hay công chúa. Đó là cái giấc mơ lớn của mọi người dân Việt!
Thời nhà Trần, giấc mơ đó chỉ được giới hạn trong số những con trai của những nhà quý tộc, của các nhà quan. Nhưng bây giờ, giấc mơ đó nằm trong tầm tay của những người dân thấp hèn nhất, miễn là có tài năng, có may mắn và kiên nhẫn. Những người này có thể từ hôm trước qua hôm sau là thấy cuộc đời mình thay đổi hẳn, có thể đạt tới những địa vị cao sang nhất mà không cần phải trải qua thời kỳ chuyển tiếp. Từ trước đến giờ, những trường công chỉ có ở thủ đô. Nhưng từ năm Đinh Sửu (1397), thủ phủ nào của các tỉnh các châu trong nước Đại Việt cũng có những trường miễn phí được mở ra để tạo điều kiện cho các trẻ em nghèo học hành. Các thầy giáo điều hành các trường này đều được trả lương bằng việc cấp phát điền sản. Tại các tỉnh có một cơ chế mới gồm các vị thanh tra, các đốc học, có nhiệm vụ mỗi năm tuyển chọn những thành phần ưu tú cho đi thi Hội. Mối bận tâm đầu tiên của nhà vua Hồ Quý Ly là sử dụng và mời ra làm quan những người có tài năng. Liệu trong cái chiều hướng này, Hồ Quý Ly có xen lẫn vào đó một ý hướng có tính cách chính trị hơn không? Là tạo ra một giai cấp mới gồm các nho sĩ được nhận vào làm việc trong cơ chế nhà vua, tầng lớp này sẽ dần dần thay thế những nhà nho quá chuộng hình thức đang kịch liệt chống lại những cải cách của nhà vua? Nhưng đối với lớp nông dân không biết gì đến những ẩn ý của nhà cầm quyền, thì họ cũng chẳng quan tâm gì đến một thể chế về giáo dục rất sáng suốt và hết sức khôn khéo như vậy! Người nông dân quanh năm suốt tháng, ngày nào cũng từ lúc gà gáy đến khi mặt trời lặn, vất vả lao động trên cánh đồng, bị nắng thiêu đốt, chân lội bì bõm trong bùn, hết cày tới cấy, hết cấy tới gặt. Vì thế, khi họ nhìn thấy con trai mình ngồi học trên lưng trâu, họ tự nhủ: "Nhà mình ít ra có nó sẽ được làm quan! Ngày nào cũng được ăn ba bữa thịt ngon, cá tươi, cua to, bánh nóng! Trời nực ư? Đã có người quạt? Khát ư? Đã có người hầu trà thơm ngát mùi sen! Muốn đi đâu ư? Có kiệu đưa rước. Chỉ cần chặc lưỡi một cái là có gia nhân đến hầu hạ! Mùa hè thì mặc the lụa, mùa đông thì mặc áo bông hai lớp. Đi đâu mọi người cũng phải cúi đầu chào! Nếu thi ân giáng phúc cho dân được cái gì thì dân phải dựng bia ghi ân!".
Các thí sinh đang tụ họp trước đình Phú Văn Lâu để chờ đợi kết quả. Cứ nghĩ tới niềm hy vọng mà bà con và làng xã trông chờ nơi họ là họ cảm thấy rùng mình, vì được khuyến khích mà cũng vì sợ hãi. Trời có phù trợ cho họ được ở trong danh sách những người may mắn trúng tuyển không? Các sĩ phu tầm thường hay những nho sĩ lão thành, các vị quan dạy học hay những vị quan chưa lên khỏi cấp chính thất phẩm đều nhìn nhau và tự đặt câu hỏi: Ai trong đám thí sinh kia sẽ được làm Đình Nguyên rất hiếm khi có được đây? Một đằng người ta xì xầm danh hiệu ấy sẽ không được ban cho ai cả vì uy danh của nó sẽ làm cho Hoàng Đế, Thiên Tử, là nho sĩ đệ nhất và là vị giám khảo tối hậu của đất nước có thể tị hiềm. Đằng khác người ta bác bỏ cái luận điệu hão đó. Cũng có những tin hành lang có vẻ có nguồn gốc chắc chắn lắm nói: "Năm nay Đình Nguyên là người họ Phạm..., họ Lý..., họ Trần, v.v...". Biết bao nhiêu chàng trai có bố làm quan lớn hoặc trung bình đi thi suốt cả đời mà chẳng đỗ đạt gì, khiến cho không ai còn nghi ngờ về sự công bằng và vô tư hoàn toàn trong việc chọn lựa những người trúng tuyển cả. Chức Đình Nguyên là một vinh quang dành cho một tài năng vô song.
Chốc chốc người ta lại chờ đợi những cánh cửa chạm trổ mở ra, và từ trong đó xuất hiện trên đài danh dự, ban giám khảo, đứng đầu là quan Duyệt Quyển và Độc Quyển73 có các quan Tuyên Cáo của Triều Đình hộ tống. Kết quả kỳ thi sắp được công bố khiến cho một số người hồi hộp tới độ màu da tái đi, một số người khác cười một cách căng thẳng. Theo người ta nói thì đa số giống như "cá nằm trên thớt". Người thì cứ vuốt râu hoài, người thì bồn chồn chắp tay sau lưng, người thì chùi lòng bàn tay ẩm ướt của mình ở phía trong tay áo. Nguyễn Trãi cùng với các bạn của mình đứng xa xa. Mộng Tuân cho rằng lúc này mà có chiếc đàn tì bà thì đỡ căng thẳng biết mấy! Cách tốt nhất để làm chủ những cảm xúc của mình chẳng phải là để tâm hồn mình hòa hợp với trật tự thiên nhiên chi phối vạn vật theo gương của các nhà hiền triết ngày xưa sao?
- Vậy thì trường hợp này tốt hơn là dùng trống đồng, vì nó thích hợp với lòng dạ đang lo âu của chúng ta hơn - Tự Tân cười chế giễu - Anh Trãi, anh nghĩ sao?
Nguyễn Trãi chưa kịp trả lời thì những cánh cửa lớn chạm trổ của đình Phú Văn Lâu vừa mở, và những con voi của nhà vua đi ra, theo sau có ban giám khảo bận trang phục lộng lẫy của Triều Đình.
Các thí sinh nín thở giữ thái độ thận trọng, và ngay khi các giám khảo an vị theo lễ nghi ở trên bục đối diện với họ, thì họ phủ phục xuống, rồi đứng dậy chờ đợi. Tất cả mọi cặp mắt đều chăm chú nhìn vào đôi môi của quan Tuyên Cáo, ông bận đồ xanh và đi hia bằng dạ, đang sắp sửa gào lên tên của vị Đình Nguyên. Trong im lặng, người ta nghe thấy vang lên những tiếng lục lạc của con voi và tiếng sột soạt của cuộn giấy mà quan Duyệt Quyển vừa mở ra sau khi lấy ra khỏi chiếc túi lụa của ông. Tất cả mọi cặp mắt đều nhìn qua nhìn lại từ miệng quan Tuyên Cáo sang miệng quan Duyệt Quyển, nhìn họ mấp máy môi để đoán xem tên của người mà ông sắp tuyên bố. Quan Tuyên Cáo đã bước lên cạnh bục mang theo cái tên bí mật đó để lát nữa sẽ "bật mí" nó trước mặt mọi người. Lúc đó người trúng tuyển sẽ hô "có mặt" rồi ra khỏi hàng ngũ đứng dưới chân bục. Trong cuộc đời của một nho sĩ còn giây phút nào đẹp hơn nữa? Các thí sinh nghển cổ chờ, quên thở, quên cả suy nghĩ! Một hồi trống vang lên đáp lại những con tim đang đập, và với tất cả sức lực, quan Tuyên Cáo mở miệng đọc thật to, to đến độ có thể làm cho những con chim đang bay ngừng lại, và những cung điện cổ kính với những tháp những lầu cao ngạo nghễ phải đứng sững lại, và làm cho sao "Văn Tinh" - ngôi sao điều hành những công việc văn chương - sáng chói lên trên đầu mọi người. Ông hô to lên:
- NGUYỄN TRÃI!
Cái tên đó truyền vang qua các lớp không khí khô hạn buổi chiều, đập mạnh thẳng vào tai chàng trai trẻ đang chờ đợi, hồi hộp rất ngạc nhiên. Mặt chàng bỗng nhiên như bị một tấm màn che mất, dường như chàng không hiểu, thậm chí không nghe thấy gì cả. Các thí sinh quen biết chàng đang chỉ trỏ chàng cho những người bên cạnh. Tự Tân và Mộng Tuân, mỗi người một bên, kéo tay áo chàng:
- Kìa, anh Trãi, anh được làm Đình Nguyên rồi Thưa "có mặt" đi!
Chàng lại mở mắt ra, nhìn thấy trước mặt mình Hoàng thân Trần Nguyên Đán, có một phụ nữ trẻ rạng rỡ đi kế bên, mà chàng dễ dàng nhận ra ngay là mẹ chàng. Gương mặt hai người sáng lên niềm hãnh diện, họ ra dấu cho chàng bước tới.
- Có mặt! Nguyễn Trãi thưa bằng một giọng thật to và rõ ràng.
Các thí sinh ngoái đầu lại nhìn chàng cho tới người cuối cùng, và tránh chỗ cho chàng đi. Chàng đi vào cái lối mà mọi người vừa tự động mở ra cho chàng, và tiến tới chỗ cái bục, bỏ lại đằng sau những tiếng thì thầm ca tụng với những ánh mắt đầy thèm muốn và thán phục. Diễn tả dài dòng như thế nhưng thực ra tất cả những cái đó chỉ xảy ra trong chớp mắt.
Trông thấy người mà chính Hoàng Đế và chính họ đã tuyển chọn rất trẻ trung và đường bệ, các vị giám khảo không khỏi rùng mình74. Tuy nhiên họ vẫn cười vừa nhiệt liệt khen ngợi chàng.
Sau đó việc xướng danh lại tiếp tục.
Tiến Sĩ hàng Nhì, còn gọi là Bảng Nhãn, là một vị quan giáo học gầy mỏng đến gần như trắng ngần trong suốt, lưng còng xuống vì gánh trên vai gần sáu chục mùa đông rồi, đang liên tục cúi chào không dứt. Một hồi trống lại vang lên, quan Tuyên Cáo kêu tên thứ ba: LÊ CẢNH TUẤN, rồi tên thứ bốn thứ năm... Một trong những người trúng tuyển này, tên NGUYỄN THANH mà về sau làm Tế Tử Trường Quốc Tử Giám, giả bộ điếc để được thích thú nghe người ta gọi tên mình tới ba lần.
Nguyễn Trãi đang hết sức lo lắng và những người bạn đồng khoa của mình đến nỗi chàng vui mừng chẳng kém gì chính họ, khi cuối cùng quan Tuyên Cáo kêu lên:
- LÝ TỰ TÂN! - Một hồi trống nữa vang lên - NGUYỄN MỘNG TUÂN!
Tên của họ chấm dứt danh sách các Tiến Sĩ sẽ được ghi danh trên bảng vàng của nhà vua để trước đình Phú Văn Lâu trong ba ngày. Sau ba ngày sẽ làm lễ Truyền Lô, có Hoàng Đế tức Thiên Tử cùng bá quan tham dự.
Nhiều thí sinh buồn so khi thấy tên mình được ghi trong danh sách các Phó Bảng. Theo lệnh của Hoàng Đế, tên của cụ Mao Từ Biên cũng được ghi trên bảng này. Hơn nữa cụ còn được truy tặng chức Tham Chính và đồng thời được cấp một số ruộng hương hỏa.
Trong khi chờ đợi nghi lễ rất chính thức và long trọng của triều đình, các Tân Khoa Tiến Sĩ với tâm hồn đầy hoan hỉ đi tới Văn Miếu75để ăn mừng thành công cùng với các thầy giáo của họ.
Mộng Tuân lúc nào cũng sẵn sàng làm cho được một hành động nổi bật nào đó nên đã đề nghị các Tiến Sĩ tới gặp nhau ở cù lao tại Vân Hồ. Các nho sĩ tại Văn Miếu có thói quen hay rút về đó để cùng nhau sáng tác. Tất cả mọi người đều thấy ý kiến đó tuyệt hảo. Mộng Tuân bèn cho người đem rượu và đồ nhắm tới đó. Họ tới đó bằng thuyền, trên thuyền có treo những loại đèn rất đẹp. Tối đến gió hiu hiu thổi phảng phất mùi hương của những loại cây quý mà ở đó mọc lên rất nhiều, làm mát rượi những khuôn mặt đang nóng ran lên vì rượu, vì thành công. Dưới ánh trăng, những chiếc áo dài thêu hoa của họ đang đua sắc với hoa mẫu đơn và hoa lựu.
Trên bờ, các sĩ tử từ các thư viện, phòng lớp hoặc phòng riêng chạy tới, mắt sáng lên vẻ thèm muốn, chiêm ngắm cái bức tranh rất hài hòa thẩm mỹ, trong đó các thầy trò những người trúng tuyển đang uống rượu ngâm thơ. Bỗng nhiên một người ở trên cù lao yêu cầu nhạc trỗi lên, thì nhạc ở trên bờ vang lên ngay. Những bài ca du dương trỗi lên từ những lùm cây lấp lánh ánh đèn lồng. Nguyễn Trãi cho rằng chàng đã nhận ra tiếng hát của Tiểu Mai, nhưng không một cô đào nương nào ra mặt cả. Tới sáng hôm sau các tiến sĩ mới chia tay nhau, và khi cửa cổng các phường mở ra, thì họ ai về nhà nấy.
—★—Cậu của Nguyễn Trãi, quan Tham Tri bộ Lễ, đang say sưa với niềm vui có một ngôi sao văn chương (Văn Tinh) thuộc loại lớn nhất đang ở dưới mái nhà của mình, vui đến độ quên cả nỗi sợ của mình. Còn Nguyễn Trãi thì vẫn tự hỏi, mặc dù đã tuyên bố kết quả được ba ngày rồi, liệu có phải chàng đang mơ cái "giấc mộng kê vàng" không? Tuy nhiên, tất cả đều chứng minh cho chàng thấy ngược lại: bao nhiêu người tới thăm, tay mang quà, miệng chúc tụng, các cô gái con của các bậc vị vọng đều gửi tới chàng những bài thơ của họ bằng đủ mọi cách. Có lúc chàng cảm thấy cái danh hiệu "Đình Nguyên" có một không hai ấy có vẻ như hoàn toàn không thực, nên chàng đã tỏ ra bình thản đáp lại những lời chúc mừng ấy. Có lúc chàng lại thấy chính danh hiệu ấy đã làm cho chàng trở thành nho sĩ bậc nhất, ngang với Hoàng Đế, và chàng cảm thấy chóng mặt.
- Người xứng đáng được ca tụng hơn cả không phải là anh học trò mà là các sư phụ của anh ta - Chàng nói như vậy với các khách tới thăm, vừa nói vừa nghĩ tới món nợ rất lớn đối với ông ngoại và cha chàng.
Thấy chàng khiêm tốn như vậy, họ càng thán phục chàng hơn.
Những lời này mang ý nghĩa sâu xa hơn chứ không phải chỉ là những lời xã giao lịch thiệp. Tất cả những năm đã trôi qua, và nhất là từ khi công bố kết quả đến giờ, chàng không ngừng nghĩ rằng: sự giáo dục của Hoàng thân, ông ngoại chàng, và sự giáo dục khe khắt của cha chàng là Nguyễn Phi Khanh sau đó, chỉ nhắm tới cái ngày vinh quang này của chàng. Bây giờ chàng đã đạt được điều đó. Nhìn lại quá khứ, chàng đo lường lại cái giá phải trả cho những khó khăn đã vượt qua, những hy sinh đã chấp nhận, những nước mắt đã đổ ra từ khi chàng ở tại Nhị Khê cách đây mười năm...
…Chàng đã tới cái làng mà cha chàng đã không ngừng khoe với chàng. Làng này không có gì khác với những làng nghèo khác trong vùng châu thổ ấy ngoài việc nó là làng của chàng, được kiến trúc y như những làng khác trên những miếng đất được vun lên thật cao để đề phòng lụt lội. Cũng như những làng khác, làng của chàng ẩn sau một hàng rào bằng những lũy tre bất khả xâm phạm, có những hàng lũy và những hầm hố để đề phòng cướp bóc. Cũng có một cây đa với những tán cây đầy lá đem lại bóng mát như bao nhiêu làng khác, bên dưới cũng có một cô gái khôn khéo bán hàng: bao giờ cũng có nước vối, cháo, và các loại bánh cho khách qua lại. Một trong những con đường nhỏ hai bên trồng xương rồng, dâm bụt và ô rô đi sâu vào trong làng, len lỏi giữa những vũng ao bùn lầy nước đọng. Tới cuối con đường, cha chàng nói một cách hãnh diện: "đây là nhà của con!". Và Nguyễn Trãi chỉ thấy một căn nhà quê mùa có những phần phụ thuộc giống như đa số các nhà của nông dân. Ngoài điều đó ra, thì ở cuối vườn còn có một trường học. Một phụ nữ còn trẻ hiện ra ngay dưới mái hiên. Bà ta cười nhưng đôi mắt bà vẫn rất lạnh lùng. Đó là vợ kế của cha chàng, tên Nhu. Bà là con gái của một thân hào ở gần đó. Bà vừa mất một đứa con. Cả sừng tê giác cũng như những vị thuốc của ông thầy lang không dập tắt được cơn sốt của em bé, và nó đã chết, bầu sữa của bà mẹ cũng đã cạn. Lập tức chàng hiểu ngay rằng bà ta không thể nào tiếp đón một cách vui vẻ từ trong thâm tâm đứa con trai đầu lòng của người vợ cả đã quá vãng, trong khi bà đã có trên tay bốn đứa em nhỏ của chàng. Chàng chỉ là một cái miệng phải nuôi thêm. Bà ta chỉ chồng chất lên vai chàng những công việc nặng nhọc nhất, và nếu có giận dữ thì bà chỉ trút lên đầu cô đầy tớ nào đó, với những nụ cười bất đắc dĩ trên môi. Người ta đã chẳng thường nói: "Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng" sao? Phải cuốc đất trồng rau, phải chạy ra ao kiếm nước, phải còng lưng vác nặng, chàng mới thấy cuộc sống ở Côn Sơn đối với chàng thật là đẹp và dễ chịu: nhà cửa rộng rãi có cây có cối, bữa cơm thì thật ngon có nhiều thức ăn, cái vọng lâu ở bên ao sen thật thơ mộng, thư viện thì đầy sách, dòng suối trên đồi lúc nào cũng mát lạnh! Chàng nhớ giọng nói của ông ngoại, nhớ tiếng gió vi vu qua những bụi tre trong rừng, nhớ những ngọn núi trập trùng trải dài tận chân trời, nhớ những tảng đá đầy rêu dùng để nằm thật là tuyệt!76. Về đây, chàng có cảm tưởng như bị rơi vào một thế giới mà mọi chiều kích đều bị thu hẹp lại, trong đó tất cả mọi sự đều phải tính toán, tiết kiệm, canh giữ. Tiết kiệm gạo! Tiết kiệm hương chỉ dùng để cúng tổ tiên! Tiết kiệm trà! Tiết kiệm chỗ trong căn nhà chỉ có bốn gian! Tiết kiệm chiếu mà ban đêm chàng cùng nằm với cha chàng như thể cha chàng có quyền kiểm soát những giấc mơ của chàng! Chưa bao giờ ông ngoại chàng lại cho chàng thấy đời sống của nông dân như thế!
Trong cái thế giới vắng bóng âu yếm này, không bao giờ sau lúc bị quở mắng mà tìm được nguồn an ủi nơi mẹ hay bà, còn các em chàng chỉ vâng lời người anh cả cho có lệ. Một buổi tối nọ, chú Từ Chi ập đến như một cuộc đột phá với hai vòng xoay tròn và một câu đùa giỡn. Lúc bấy giờ Nguyễn Trãi mới khám phá ra rằng cha chàng, người thầy cứng như sắt đá ấy, cái gương mặt vô cảm đòi hỏi thì nhiều mà khen thì ít ấy, không bao giờ biết ngạc nhiên, cũng biết cười. Và ông cũng có bạn!
Con người nhỏ thó này có khuôn mặt tròn như trái dừa, quan sát chàng từ đầu tới chân, rồi kêu những tiếng "ái chà!" mà người ta có thói quen kêu lên khi có một em nhỏ đến thăm họ sau một thời gian dài không gặp:
- Ái chà, nó thay đổi quá nhỉ! Ôi, nó lớn quá sức
- Ôi còn chú, bù lại chú chẳng thay đổi gì cả! - Dù mới gặp ông chú này lần đầu tiên, Trãi đã đáp lại hết sức nghiêm chỉnh như vậy.
Từ Chi đội một cái khăn thắt nút tai chó, với hai cái vạt vắt qua vắt lại. Anh ta đã đi đến chỗ tiếp xúc vui vẻ và thẳng thắn với chàng. Vì thế Nguyễn Trãi thấy mến anh ta ngay.
Từ Chi đối xử với Phi Khanh là anh họ của anh ta một cách rất tình cảm và kính trọng, và Phi Khanh cũng đối xử lại như thế theo cách thức của ông.
Giữa hai người khác nhau như thế làm sao tình bạn có thể nẩy nở được? Nguyễn Trãi thường tự hỏi như vậy. Chàng bị hấp dẫn bởi cái tính ngông ngộ nghĩnh đầy óc tưởng tượng của Từ Chi, là những cái mà theo như chàng nghĩ cha chàng thiếu hẳn. Thực ra, vào thời gian đó, chàng thấy những đức tính đặc biệt của nhà sư phạm Nguyễn Phi Khanh không có giá trị bao nhiêu so với cái nhìn rộng rãi, quảng đại, không thành kiến của ông ngoại chàng. Trước những gì ở nơi cha chàng mà chàng cho rằng hẹp hòi tâm trí, hình thức chủ nghĩa, khô khan tình cảm, thì chàng đều nhường nhịn, và mãi về sau vẫn còn tiếp tục nhường nhịn, chỉ vì sự kính trọng thuần túy của một người con.
Một hôm, bà mẹ kế than phiền với cha chàng rằng chàng đã tỏ ra xấc láo với bà, và cha chàng phạt chàng về chuyện đó. Nhờ vậy mà chàng mới khám phá ra cha chàng cũng có những khi yếu lòng, chứ không phải là không thể lay chuyển được như chàng thường phán đoán. Lúc đó, cha chàng ra bẻ một cành ổi mềm. Yên lặng, ông ngắt hết lá và làm cho nó nhẵn nhụi thành một cái roi, rồi ra lệnh cho chàng nằm sấp xuống. Ông giơ roi lên, nhưng sao vẫn chưa thấy quất xuống. Trong khi chờ đợi cái roi quất mạnh xuống, chàng quay cổ nhìn lên, thấy mắt ông nửa muốn đánh nửa không, đôi má ông đỏ lên vì xúc động, và ông lại nhẹ nhàng hạ roi xuống: "Thôi, đi học đi!", ông ra lệnh cho chàng bằng một giọng bối rối. Vì thế, suốt ba ngày, bà mẹ kế lúc nào cũng tỏ ra bực bội. Có thể vì bà ta thấy cha chàng thương chàng chăng? Tuy nhiên, Trãi vẫn có cảm tưởng rằng chàng chỉ cậy trông vào chính mình mà thôi. Chàng lờ mờ cảm thấy cha con chàng đã phải sống xa cách nhau quá nhiều năm, lại là những năm quan trọng nhất. Còn chàng, đã cùng với một người đàn ông khác, ở một nơi khác, kết những mối dây bền chặt của tuổi thơ.
Từ Chi, người đã nhiều lần xác nhận rằng kiếp sau sẽ đầu thai làm thân trâu ngựađể phục vụ cho Nguyễn Phi Khanh, người bạn của mình, từ nay vai trò của anh ta là làm cho hai cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi gần lại với nhau. Đối với Nguyễn Trãi, dường như Từ Chi hiểu được tất cả mọi chuyện, mặc dù chàng đã tìm được nguồn an ủi chỉ nguyên nhờ sự có mặt của anh ta mà thôi. Anh ta hiểu được nỗi cô đơn tận cùng của chàng, nỗi đau khổ cùng cực vì bà mẹ kế hay bị các em lãnh đạm, hoặc do cha chàng quá nghiêm khắc, thêm vào đó là nỗi buồn bực bị đày ải vào cái thế giới này, mất đi cái thế giới hạnh phúc trước đây một cách vĩnh viễn không còn bao giờ trở lại. Khi làm những công việc thợ mộc của mình, như bào gỗ làm cột kèo, Từ Chi đã nói với chàng tất cả những gì anh ta biết rõ về làng mạc của anh ta, của ông Phi Khanh bạn anh ta. Anh ta nói với gương mặt tỉnh bơ, một cách thông minh và tình cảm, mà anh ta cố giấu đi dưới những từ ngữ ngộ nghĩnh và những cách diễn tả vui nhộn. Nhờ Từ Chi, Nguyễn Trãi mới biết được biến cố nào đã khiến cho ông cử nhân trẻ tuổi Nguyễn Phi Khanh được bổ nhiệm tại triều đình, và sự bổ nhiệm đó đã đem lại sự thịnh vượng thế nào cho gia đình và làng mạc của ông. Chàng còn biết được những biến cố quan trọng hơn nữa đã tạo nên cuộc hôn nhân khó mà tin được của ông - cuộc hôn nhân mà cha mẹ ông không đồng ý, và cũng không phải do các ngài chọn lựa cho ông. Cuộc hôn nhân với một nàng công chúa thực sự theo huyết thống, tức bà Trần Thị Thái, một phụ nữ xinh đẹp nhưng nay đã quá vãng, là mẹ của chàng. Và chàng cũng biết sự thành công của ông trong kỳ thi Tiến Sĩ như thế nào. Tuy họ Nguyễn là một dòng họ khoa bảng từ lâu đời, nhưng đây là lần đầu tiên dòng họ này được cái vinh dự là có người trong họ đậu tới Bảng Nhãn, một học vị rất ít người đạt tới. Từ Chi kể cho chàng nghe một cách rất chi tiết rằng, dòng họ ông không ngần ngại vay nợ để tổ chức ăn mừng việc đỗ đạt này. Chưa bao giờ lễ vinh quy bái tổ lại có nhiều võng lọng và có nhiều khách tới dự như thế. Và anh thợ mộc này nở mặt nở mày ra khi thấy bạn của mình là Nguyễn Phi Khanh chễm chệ ngồi trong chiếc cáng, trang phục lộng lẫy, trên mũ có đính bông hoa bằng vàng, ngực đeo thẻ ngà. Chưa bao giờ có bữa tiệc vinh quy nào linh đình hơn! Hai chum rượu to tướng, rồi heo, trâu, chó, và bao nhiêu là gà tơ, bánh, và biết bao nhiêu sọt trầu cau.
Bữa tiệc thật dư dả để mỗi người có thể đem về nhà những mâm đồ ăn rất là ngon, nhất là không phải trả cắc bạc nào. "Cháu có thể hiểu được điều đó không hả, cậu quan nhỏ?". Trãi có thể hiểu điều đó từ khi về làng Nhị Khê. Khi còn ở Côn Sơn, chàng nghĩ rằng dân chúng ở đây chỉ nghĩ đến chuyện ăn cho nhiều! Tuy vậy, Từ Chi rỉ tai chàng, cái danh hiệu không tạo cơ hội cho cha chàng phục vụ đất nước. Phi Khanh, phần cam phận vì vua không bao giờ chịu sử dụng ông, cuối cùng đành phải quyết định về Nhị Khê mở trường dạy học. Ngày ông trở về, tất cả dân làng đều nghỉ việc đồng áng để đón tiếp ông. Từ Chi như vẫn còn thấy trước mắt cảnh ông cưỡi ngựa, món quà của ông nhạc, âu yếm đi theo kiệu của vợ mình, nàng Thị Thái, đang chuẩn bị sinh đứa con thứ ba... Từ Chi nói: đó là một phụ nữ mà bất cứ một nàng tiên nào đứng gần cũng phải phai mờ đi, cho dù là Tây Thi đi nữa! Đối với anh ta, khi nói với Trãi là đứa con đã xa cách bà từ lúc còn quá nhỏ, dường như không có một so sánh nào đủ mạnh để diễn tả cái màu da đẹp đẽ, cặp mắt thanh nhã, và thân hình yểu điệu của bà. Khi dân làng Nhị Khê tới thăm hai ông bà, thì vì kính trọng chồng, bà đã ngồi xa xa ở đằng sau ông. Nhưng với sự quan tâm và chú ý của bà đối với khách, bà cũng hỏi han họ nhiều điều, và vì tính tình bà hồn nhiên vui vẻ, nên bà chinh phục cảm tình của dân làng dễ dàng. Phi Khanh và bà lúc nào cũng ở bên cạnh nhau như hình với bóng. Họ nói với nhau toàn những lời lịch thiệp: "Nhờ em...". "Anh làm ơn...". "Xin em phụ với anh...". "Phiền anh..." hay "Xin em đừng buồn...", "Xin anh tha lỗi...", v.v... Từ Chi thường bắt gặp họ gần nhau trong một góc nhà nào đó, họ thẹn thùng kín đáo cầm tay nhau hỏi han về những bận tâm của nhau: "Em làm gì vậy?", "Anh đi đâu đó?". Thời gian càng trôi, họ càng có vẻ gắn bó với nhau, và Từ Chi xác quyết: họ tâm đồng hiệp ý đến độ không ai có thể diễn tả được. Sau khi Thị Thái chết, Phi Khanh phải trải qua một thời gian bị suy sụp hoàn toàn đến độ Từ Chi phải nhắc nhở ông ta những hành vi sơ lược nhất của cuộc sống. Và chỉ trong khoảng mấy chục ngày sau, cha già và mẹ của ông cũng theo nhau về chốn suối vàng. Giữa những ngày khổ đau biết bao nhiêu đó, bỗng nhiên đầu óc ông bùng lên ngọn lửa khi nghĩ đến việc đem về Nhị Khê đứa con trai cả mà vợ chàng đã chấp nhận sống xa cách vì lòng hiếu thảo đối với bố mẹ nàng.
Nghe Từ Chi nói, những năm vắng mặt cách lời mà Nguyễn Trãi tưởng rằng không thể vượt qua được đã dần dần bị xóa bỏ. Từng chi tiết một, chàng đã sống lại những kỷ niệm về mẹ chàng tại làng Nhị Khê, chàng đã một lần nữa tắm lại trong cái tình yêu thượng mà mẹ chàng đã không ngừng cưu mang về chàng, cái tình thương mà bà đã xác nhận qua những lời trăng trối trong giây phút cuối cùng của cuộc đời. Chàng cảm thấy mình đã được giải hòa. Lần nào tới thăm, anh thợ mộc cũng đều xóa bỏ thời gian, tạo cho chàng những mối liên hệ với cái làng này, mà cho tới lúc đó chàng vẫn còn thấy dửng dưng vô tình, đồng thời làm cho chàng cảm thấy gần gũi với cha chàng hơn, vì đời sống và hành động của ông không phải như những hình ảnh mà chàng vẫn có về ông. Vì đam mê, chàng nho sĩ nghèo ở Nhị Khê này đã kết duyên với cô công chúa họ Trần, bất chấp những luật lệ hiện hành và sự trừng phạt của triều đình. Trãi đã hiểu được sự khô khan bên ngoài của cha chàng đã che giấu những sầu muộn khôn nguôi nào, và chủ trương tùy thời mà ông tỏ ra bên ngoài đã che giấu cái bể cay đắng của ông như thế nào. Khi tới tuổi thanh niên, ông đã hình dung được rõ rệt những gì mà ông chỉ thoáng thấy lúc còn nhỏ, trong cuộc bút chiến mà ông nội ông đã tham gia để uốn nắn phần nào đường lối chính trị của Thái Thượng Hoàng, để rồi cuối cùng đành phải bỏ cuộc như tự xóa mình đi và chấp nhận cái chết mà cụ hằng chờ đợi và mong muốn. Đó là thảm kịch của một người bị loại bỏ một cách hoàn toàn độc đoán mặc dù người ấy rất có tài và liêm chính. Và hôm nay Nguyễn Trãi đang thích thú thấy cha mình được bổ nhiệm vào viện hàn lâm, cho dù trễ tràng, âu cũng là một sự đền bù chính đáng…
Ngay hôm sau đó, Tân Đình Nguyên sẽ được Hoàng Đế Hồ Quý Ly và triều đình của ông chính thức tiếp đãi. Người ta bàn tán với nhau một tin hành lang là chàng sẽ được bổ nhiệm ngay vào Ngự Sử Đài. Trong cái vinh quang hết sức mới mẻ ấy, làm sao người ta có thể nghĩ được rằng những gương mẫu của dòng tộc chàng chỉ là bóng dáng đi trước của một số phận còn thảm thương hơn, một sự cô đơn còn thê lương hơn sự cô đơn mà ông ngoại chàng đã phải chịu, một sự bất công không gì so sánh được còn tệ hại hơn rất nhiều sự bất công mà chính cha chàng đã phải chịu, và cuối cùng, một số phận bi đát mà ngay cả số phận của Nguyễn Phi Khanh bị đày và chết bên Tàu cũng vẫn còn là êm ái bên cạnh số phận đó?
Đúng như nhà chiêm tinh lão thành đã tiên đoán cho bà hoàng bà ngoại chàng, rằng chắc chắn chàng sẽ trở nên một nho sĩ có uy thế, thì giờ đây, "Văn Tinh" là ngôi sao điều khiển những công việc văn chương đang giao hội trong cung "miếu vượng" đã xác nhận điều đó. Thời gian trôi qua với biết bao nhiêu biến cố và biết bao nhiêu nước sông Hồng Hà sẽ chảy trước khi xảy ra sự đối kháng bi thảm của "lưỡng vô tứ họa" trên bầu trời số phận của chàng.
Cái đêm trước ngày Truyền Lộ77, Nguyễn Trãi ngủ rất ít. Khoảng canh ba, một người tớ gái lấy cớ là đem nước trà cho chàng, đã đưa cho chàng một cái túi thơ mà một cô thiếu nữ nào ở gần đó gửi cho chàng. Sau đó là một người tớ trai đi chân không đem rượu lại cho chàng và trao cho chàng một cái túi nhỏ đựng thơ thuộc loại đeo ở thắt lưng. Nguyễn Trãi uống nước trà, đọc thơ và thưởng thức rượu dưới ánh trăng cho tới sáng.
—★—Quan Biên Niên Sử ở Thăng Long ghi lại như sau:
"Ngày 7 tháng 9 năm Canh Thìn (1400) thuộc triều đại Hồ Quý Ly, theo lệnh của Hoàng đế, Phòng Tổng Văn Thư của Triều đình yêu cầu tất cả các quan lại trong cửu phẩm tới triều yết để cử hành một nghi lễ long trọng. Khâm thử".
Quan Tham Tri bộ Lễ mang lễ phục Triều Đình với những huy hiệu chức vụ mình, đích thân đi đón Nguyễn Trãi, cháu ông, ông thấy chàng đã sẵn sàng, tuy có vẻ xúc động nhưng rất điềm tĩnh. Họ cùng lên kiệu tới cung Thiên An, nơi cử hành lễ tiếp rước các thí sinh trúng tuyển trong kỳ thi Tiến Sĩ vừa qua.
Trong khi tất cả các quan đều an vị tại sân chầu theo phẩm trật, thì những người trúng tuyển, theo sự hướng dẫn của quan Ngự Sử Triều Đình, vào trong phòng tiếp tân ở bên cạnh để mặc những lễ phục thật lộng lẫy và đeo thẻ bài mà họ vừa lãnh nhận. Một vị đại quan thuộc Bộ Lễ và một vị Võ quan đã nghỉ đêm trong Cung Cấm, cả hai tâu báo lên Đức vua:
- Tâu Bệ Hạ, trong cung cũng như ngoài cung, mọi sự đều đã chuẩn bị chu đáo.
Lúc đó, nhà vua rời nội cung, leo lên kiệu Song Loan, có các thái giám và các cung phi theo hầu, tới chủ tọa buổi lễ. Đoàn người ra cửa Kim Môn, qua cửa Nguyệt An và tới cung Thiên An.
- Vạn tuế! Vạn tuế! Vạn tuế! - Các quan tung hô, tay chấp trên trán, và phủ phục xuống ngay khi nhà vua ngự lên ngai, và nghi lễ bắt đầu.
- Xin mời các Tân Khoa vào! - Các quan Tuyên Cáo nội cung cũng như ngoại cung đồng xướng lên. Nhạc trỗi lên.
Theo sự hướng dẫn của quan Lễ Bộ Thượng Thư, ba mươi hai người trúng tuyển bước vào, Nguyễn Trãi đi đầu, mỗi người cầm một lá cờ.
- Yêu cầu tiến tới bái yết Thánh Thượng
Các Tiến Sĩ nâng vạt áo lên và nín thở, tiến lên phía bệ rồng.
- Bái quỳ và phủ phục!
Các Tân Tiến Sĩ phủ phục xuống năm lần.
- Đứng lên!
- Bình thân!
- Quỳ gối xuống!
Các Tân Tiến Sĩ quỳ gối xuống.
- Đọc tuyên cáo!
Quan đứng đầu hội đồng giám khảo tiến tới đọc báo cáo về kỳ thi vừa qua.
- Phủ phục! - Các quan Tuyên Cáo hô to lên ngay khi quan chủ tịch đọc xong. Nhạc lại trỗi lên.
- Quỳ gối xuống!
- Xin đọc danh sách những người đậu tiến sĩ! - Nhạc lại im.
Đây là giây phút long trọng nhất trong buổi lễ. Cả cử tọa đều cảm thấy "lạnh xương sống" nhưng bình thản lại ngay. Tìm trong những hàng đầu tiên của các bậc đại thần triều đình, Nguyễn Trãi không sao nhận ra được các cậu của mình: ai ai cũng đều có chung một bộ mặt nghiêm trang bất động, cùng vẻ bề ngoài như nhau, cùng một thái độ: tay chân đều chắp lại như nhau. Có thể nói rằng sau những tước hiệu và phẩm trật không còn cá nhân con người nữa.
Gần bệ rồng, vị quan có nhiệm vụ xướng danh giở bản danh sách các Tiến Sĩ ra một cách hết sức trịnh trọng. Rồi bằng một giọng mạnh mẽ, ông hô to tên của vị Đình Nguyên khiến cho những cánh chuồn trên mũ các quan rung động một hồi lâu. Chính Thánh Thượng trên ngai vàng cũng nghiêng chiếc mũ "Cửu Long" của ông ra dấu khen ngợi. Và tên của Nguyễn Trãi giống như một con ong bay lướt trên các cặp môi. Vị quan đọc xong bảng tên, đứng dậy, bỏ bản danh sách vào lại túi gấm và lại treo nó trên cái giá được chạm trổ.
- Phủ phục!
- Đứng lên!
- Bình thân!
- Lễ tất! - Các quan Tuyên Cáo trong cũng như ngoài đồng xướng.
Lúc đó, nhà vua và toàn bộ đoàn tùy tùng đã rời khỏi sân chầu của cung Thiên An, và kiệu của nhà vua lại về nội cung, để các Tân Tiến Sĩ ở lại. Đây là lần đầu tiên các Tân Tiến Sĩ được bệ kiến long nhan, thấy được khuôn mặt khắc khổ cùng cái nhìn nhanh nhẹn và thâm nghiêm của nhà vua.
Trong lúc triều thần được lệnh rút lui và giải tán thì có hai quan đại thần cùng nhiều vị quan tới gặp Nguyễn Trãi một cách ân cần. Đó là các cậu của chàng cùng với một vài quan bạn, trong đó có Hàn Lâm Học Sĩ Hoàng, tới chúc mừng vị Đình Nguyên.
Theo lệnh của quan Lễ Bộ Thượng Thư, các giám khảo tới tìm các Tân Tiến Sĩ, vì theo truyền thống, họ được phép đi thăm vườn Thượng Uyển vào buổi sáng đẹp trời này.
- Đi đi cháu! Lát nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau - Quan Tham Tri Bộ Lễ nói với chàng, vì ông cũng phải đến dự buổi tiệc do bộ Lễ chiêu đãi. Khi các Tân Tiến Sĩ vừa đi khỏi, ông hỏi Hàn Lâm Học Sĩ Hoàng:
- Ngài đã nói với cháu tôi về việc nó được bổ nhiệm vào Ngự Sử Đài như ngài đã nói với tôi chưa?
Ông Hàn nhướng cặp lông mày cao của ông lên:
- Thưa ngài, lúc này chưa thuận tiện để tôi nói điều đó. Hiện tại rồng đã gặp mây rồi, nên có thể chờ đợi một ngày nào đó. Ngày mai, nếu ngài thấy không có gì bất tiện, tôi sẽ đến thăm ngài và sẽ trao đổi với người cháu rất sáng giá của ngài. Nói chuyện ở đó thì thích thú hơn ở giữa hai cái cửa như ở đây rất nhiều.
- Ngài nói đúng - quan Tham Tri nói năng một cách rõ ràng là thoải mái hơn bình thường.
Làm sao ông lại không thoải mái vui vẻ khi họ hàng của ông được nổi bật như thế, một người ở viện Hàn Lâm, một người ở Ngự Sử Đài? ông tự nhủ, nếu chúng ta cùng giúp cho nó, thì Nguyễn Trãi, đứa cháu đầy tài năng của mình còn đi tới đâu nữa?
Theo sự hướng dẫn của quan Thượng Thư Bộ Lễ và các quan Giám Khảo, các Tân Tiến Sĩ trịnh trọng trong hàng ngũ của mình tiến gần tới chiếc cửa ba tầng đồ sộ gọi là Đại Kim Môn, là lối vào Cung Cấm. Nhìn thấy họ, các vệ binh - những người canh giữ cửa không cho ai vào - lui ra, và hai cánh cửa bằng đồng mở ra. Các Tân Tiến Sĩ bước qua ngưỡng cửa - cái ngưỡng cửa mà ai bước qua không có phép là bị tử hình - và họ tiến vào trong Cung Cấm, nơi mà không ai được phép vào, kể cả những bậc đại thần trong triều đình, kể cả Thái Tử nữa, nếu không có lệnh rõ ràng của Hoàng Đế.
Các Tiến Sĩ xúc động lắm, họ nhìn về đủ mọi phía với một thái độ dè dặt vốn có của những bậc nho sĩ ưu tú như họ.
Trước mặt họ, phía trước Điện Kính Thiên, là Sân Chầu dành cho những buổi thiết lễ Đại Triều, trải ra, bao la và trống trải nhìn muốn chóng mặt, vì hễ ý vô đây là phải phủ phục xuống đầu sát đất. Tại đó, có những cái bia cẩm thạch chỉ định vị trí của từng phẩm trong chín phẩm triều đình. Vào các ngày đại lễ Điện mở rộng cửa, các quan được phép vào tại chỗ của mình bái lạy Thánh Thượng đang ngự trên ngai vàng. Trong Điện, Thiên Tử ngồi hướng về phía nam, là hướng đặc biệt thuận lợi để nhận sự thuận phục của triều thần, đang phủ phục đầu hướng về phía bắc, trong tư thế khiêm tốn của kẻ thần tử.
Các Tân Khoa kính cẩn đi theo quan Thượng Thư dọc theo những chuỗi hành lang, băng qua những sân ở phía trong theo một lối đi quanh co. Theo Nguyễn Trãi thì dường như lối đi quanh co kiểu này chỉ có mục đích làm lạc hướng, làm mất hướng đi ra vườn Thượng Uyển thôi.
Quan Thượng Thư vẫn cứ đi…
Giữa những lùm cây, có khi hiện ra một căn nhà bốn mái lộng lẫy với những viên ngói bằng vàng bạc, khi là viễn cảnh một mái hiên có những cột nhỏ, có lúc lại hiện ra những cầu thang lớn với những con rồng ngạo nghễ như muốn tấn công, hay những mặt tiền màu đỏ thần sa có dát vàng của những lâu đài, có chạm trổ hình những tiên nữ và chim phượng hoàng. Có rất nhiều những lâu đài để ở, để hội họp, để lưu trữ tài liệu, tất cả đều chỉ dành cho Hoàng Đế hoặc các Hoàng Hậu, các Cung Phi mỹ nữ thuộc nhiều hạng khác nhau sử dụng. Những lâu đài đó vừa mới nhìn thấy thì đã biến mất sau những bức tường bằng đá hay khuất đi sau những tán lá hoặc sau một cái cổng rộng lớn mà họ đi ngang qua, hay một hành lang mà họ bước vào. Những nơi chốn tĩnh mịch chỉ chờ Thánh Thượng, với những bức tường thành và những mái nhà cong che chở, thỉnh thoảng lại hiện ra một vài tên thị vệ bận đồ xanh, những tên giám còn trẻ có đôi má bất động đang trộm nhìn các nho sĩ ưu tú đi ngang qua. Những tên giám này là một đội ngũ im lặng ở đây có nhiệm vụ làm tất cả mọi việc, nào là may quần áo trang phục cho Hoàng Đế và cho cả tam cung lục viện, nào là chế tạo các đồ đạc trong cung điện và hậu cung, nào là chuẩn bị khí giới, mũ nón, khiên thuẫn, áo giáp, nào là lo việc thuốc men, thư viện, chăm sóc chuồng ngựa, và cả vườn Thượng Uyển nơi các Tiến Sĩ đang đi tới bằng con đường bí mật nào đó. Đó là một đội ngũ im lặng len lỏi khắp nơi, dò thám tất cả, đêm xuống thì đi về phía khu cơ mật canh gác các cửa, họ lợi dụng việc không có văn bản chính thức giới hạn chức năng của họ để vượt quá những chức năng đó, và nhờ sự trung thành khôn khéo và phục vụ đồi bại mà trèo lên được nhập vào các số người đặc sủng. Có thể nhận ra họ qua cái mũ viền vàng có thêu cái đuôi chuột và con ve. Họ là trung gian duy nhất giữa các Cung Phi và Thiên Tử. Vì thế họ có một quyền lực càng đáng sợ hãi hơn, vì sự khuyết tật của họ làm cho quyền lực ấy trở thành bất công, phi lý và tàn ác. Nhưng những người mà các Tiến sĩ gặp trên đường chỉ là những tên thái giám trẻ đang được huấn luyện dưới quyền những "lão gà thiến" để một ngày kia có thể đảm nhiệm cái vai trò tế nhị bên cạnh những người vợ của nhà vua...
Theo chân vị Thượng Thư, các Tiến Sĩ cứ đi vòng vo suốt, hết sân này tới sân kia, hết hành lang này tới hành lang kia, chúng chỉ khác với những cái trước ở chỗ những nhân vật mà họ gặp càng lúc càng quan trọng hơn, từ các viên chỉ huy vệ binh hoàng cung tới các Hữu Quan và Tả Quan, từ các thái giám phục vụ ở phía trong tới các thái giám được sủng ái phục vụ chính Hoàng Đế.
Dưới con mắt tinh đời của Nguyễn Trãi - ngay từ thời nhỏ đã được tập luyện để thấy những gì ở phía sau những dáng vẻ bên ngoài - thì rõ ràng là cuộc thăm viếng vườn Thượng Uyển, được công bố như một phần thưởng, thực ra là một cái gì khác hơn là một cuộc đi dạo bình thường. Trước tiên, vị Thượng Thư đã cho họ đi vòng qua Điện Kính Thiên biểu hiện rõ rệt của uy quyền, sau đó, cố ý dẫn họ vào một loạt đường vòng nối tiếp nhau, vì rõ ràng là họ chỉ đi vòng quanh. Lộ trình được chọn không phải là để tìm cách làm cho họ lạc hướng như chàng đã nghĩ ban đầu, nhưng giống như những đường bay đồng tâm của chim, lộ trình này càng lúc càng gần xung quanh một trung tâm không lúc nào xác định được, xoay xung quanh Nơi Cấm Địa ấy mà không bao giờ đạt tới được. Nơi Cấm Địa đó lúc nào cũng đầy ắp sự hiện diện vô hình của Thánh Thượng, nơi quy tụ Trời và Đất, trục và trụ của thế giới, nguồn gốc của thời gian và không gian. Nhờ vậy, các tân tiến sĩ tự hiểu rằng họ được nâng lên hay giáng xuống tùy thuộc vào ý muốn của Thiên Tử mà thôi.
Nguyễn Trãi chấp nhận rằng, trừ phi việc tiếp cận cái Quyền Lực Tối Thượng một cách biểu tượng đó được giải thích cách khác, nếu người ta được làm quan thì đó là do tiền định. Hoàng Đế chỉ là người thi hành lệnh của Trời. Trong cái tham vọng nồng nhiệt tuổi hai mươi của chàng, Nguyễn Trãi tự nhủ: nhưng nếu thế thì ích lợi gì những năm dài đã qua theo bên thầy để nấu sử sôi kinh78? Ích lợi gì những lần thức suốt đêm để đọc sách dưới ánh trăng? Cái danh tiếng hão huyền của chàng vang khắp giới nho sĩ sẽ ích lợi gì nếu chàng không thể dùng nó để phục vụ quê hương? Một sự háo hức bi thảm hết làm tươi nở lại làm héo hắt lòng chàng. Trong buổi sáng tươi đẹp này, đẹp nhất trong đời một nho sĩ này, chàng đã bị day dứt bởi một nỗi niềm kỳ lạ không tên khi đứng trước con đường hoạn lộ79 thanh vân đang mở ra cho chàng. Chàng cũng chẳng biết tại sao nữa.
Cuối cùng, khi họ ra khỏi một hành lang tối, vườn Thượng Uyển giống như một giấc mơ lơ lửng trên những đám mây, thoang thoảng mùi thơm ngào ngạt làm mũi các Tân Tiến Sĩ như nở ra. Trước mắt họ hiện ra những bóng cây vĩ đại, những khóm hoa um tùm, những thú vật hiếm có, những con chim óng ánh nhiều màu rất đẹp mắt. Cảnh đẹp làm cho Nguyễn Trãi bình thản trở lại.
Dọc theo những lan can được bố trí một cách diệu kỳ hai bên vườn, có những con ngựa đẹp đang chờ sẵn, lưng phủ gấm vóc, có những lính lệ bận đồ xanh canh chừng, tay họ cầm những cái lọng lớn. Đó là những con ngựa để các Tiến Sĩ cưỡi đi thăm vườn, vì vườn rất rộng không thể đi bộ được. Cụ Bảng Nhãn già phải có người giúp mới lên ngựa được khiến cụ cứ cáo lỗi suốt. Từ nhỏ đến giờ, Tự Tân mới chỉ được cưỡi trâu, nên chàng cảm thấy hãnh diện và thích thú đến đỏ mặt.
- Anh Tân, đậu Tiến Sĩ với được cưỡi ngựa, cái nào làm cho anh vui hơn? - Mộng Tuân hỏi chàng.
Thế rồi đám rước lên đường với những con ngựa sang trọng.
Họ càng tiến vào những con đường rộng, Nguyễn Trãi càng cảm thấy y như không khí đặc lại một cách kỳ lạ rồi bỗng nhiên đè nặng lên vai chàng, cùng với những mầm non đầy nhựa được nuôi dưỡng bằng những thứ phân bón gì không rõ mà có mùi giống như mùi người, và cùng với mặt nước hồ không gợn sóng, trên đó có những cánh sen tròn như những đồng tiền màu xanh đang lớn rộng ra bất chấp mùa nào. Khắp nơi, chỗ nào cũng biểu hiện năng lực sống động và sinh hóa của thiên nhiên, cái nguồn sống ở địa điểm ưu việt có một không hai này, dường như tuôn ra từ hàm con Rồng đang song song cùng con Hổ chiếm ngự nơi đây và phù hợp với các cung sao.
Bị những dòng sinh lực tốt đẹp ấy thu hút, chàng thanh niên của chúng ta ngây ngất trước vẻ duyên dáng của khu vườn, nơi mà Hoàng Đế chung hưởng lạc thú với những Nàng Tiên (những đốm màu sắc di động đằng kia có phải là những bông hoa ấy không?). Trong khi ở cõi tục, thời gian đã trôi qua cả trăm năm, thì ở đây người ta tưởng như chỉ là khoảnh khắc.
Xa xa, dưới những lùm cây xanh, có những chùm hoa - có thể gọi như vậy lắm - đang chơi trò ú tim và đang tản mát thành những hình bóng duyên dáng ở bên những khóm cây. Mộng Tuân mở to mắt nhìn từng lùm cây một. Giữa những bông hoa mà nếu chàng được chọn vào lúc này, chàng sẽ chọn cành hoa có đôi bàn chân nhỏ nhắn đang chạy trốn.
Vào tuổi cập kê thì dù là công chúa hay con gái của các bậc đại thần, cô nào cũng đều nấp sau những đám lá rình xem những nho sĩ thượng thặng này đi qua.
Khi họ tiến lại gần, bỗng nhiên các nàng hoảng lên chạy trốn, trừ một nàng, không biết vì chậm hơn hay vị bạo dạn hơn những cô bạn mà ở lại đằng sau. Đó là Công Chúa Trần Thị Thanh.
Thân như cây liễu trước cơn gió nồm, môi đỏ như son, màu da đánh phấn trông bóng lên, nàng xuất hiện như thế rồi cũng biến mất với mái tóc đen và tà áo gấm màu lục bảo thướt tha.
Nàng không phải là Tây Thi thì cũng là Trang Khương,80 Nguyễn Trãi hoa mắt lên nghĩ ngợi.
Làm sao gặp lại nàng nhỉ? Mộng Tuân giận dữ thấy ganh tị với Hoàng Đế, vì ông chỉ cần để lộn ngược cái thẻ ngọc trong phòng đựng thẻ, thì ngay khi trời tối, viên thái giám trực ban sẽ dẫn người phụ nữ mà ông muốn, từ hậu cung đi qua các hành lang tới cho ông, hoàn toàn trần truồng dưới tấm khăn choàng màu đỏ tím.
Tại chỗ này, trong vườn Ngự đua nở mọi thứ hoa mà người ta có thể tưởng tượng. Các Tiến Sĩ xuống ngựa tới đó chọn một bông hoa nào đó, rồi nhờ thợ kim hoàn của triều đình làm một bông hoa bằng vàng giống hệt như vậy để đính lên cái mũ nho sĩ của mình. Vì sợ làm rộn nghi thức này, nên các thiếu nữ ở xung quanh đã biến mất.
Cúi xuống một khóm dâm bụt xum xuê, Nguyễn Trãi định hái một bông hoa tươi thắm nhất, thì một bàn tay ngà ngọc đã đưa ngay cho chàng bông hoa đó. Nàng chính là Công Chúa Trần Thị Thanh, từ giữa những bông hoa hiện ra trước mặt chàng.
- Chúng ta gặp nhau ở đây là do ý Trời - Nàng nói với chàng, mặt đỏ lên trông hết sức phong nhã.
Được nhìn tận mặt, nàng lại càng thêm kiều diễm. Họ giáp mặt nhau giống như hai cây non giao cánh liền cành. Gương mặt điển trai và kiêu hãnh của chàng tự kiềm chế không để lộ ra những gì chàng cảm thấy trong tâm hồn. Cuối cùng chàng hỏi:
- Chẳng lẽ chúng ta sẽ không bao giờ biết danh tính của nhau?
Trước lời biểu lộ nồng nhiệt của chàng, nàng mắc cỡ, đôi mắt phượng của nàng cụp xuống.
- Chàng không cần phải xưng danh, ai mà không biết chàng? Danh tiếng của chàng đã vào tới tận trong những bức tường của chúng em - Nàng nhìn xuống cái túi thơ treo ở thắt lưng chàng và nói - Tiện nữ Trần Thị Thanh rất sung sướng thấy chàng mang trên người cái món quà bất xứng của tiện nữ.
Dứt lời, nàng biến mất dưới lùm cây.
Bông dâm bụt trong tay, Nguyễn Trãi chậm rãi trở lại gặp các bạn khác. Tình yêu đến như vậy đấy. Ngay khi họ vừa trao đổi nhau mấy lời, thì chàng đã bị giày vò vì một câu hỏi: Nàng đẹp như vậy, đẹp nghiêng nước nghiêng thành, liệu nàng có phải là người trong hàng ngũ các phi tần nơi hậu cung?
Họ ra khỏi vườn Thượng Uyển và khỏi Cung Cấm luôn. Cung Cấm lại đóng cửa, để lại bên trong những kho tàng của nó. Họ rời khỏi Hoàng Cung bằng Cửa Đông, đổ ra quảng trường lớn ở Chợ Cửa Đông để đi dạo một cách vinh quang trên những con đường thủ đô, còn Nguyễn Trãi thì vẫn mải suy tư.
Tiếng hoan hô nhiệt liệt của quần chúng, đông đảo hơn hẳn ngày thường, khiến chàng trở về với thực tại.
Bọn vệ binh có xăm chữ của Thiên Tử trên trán mở đường cho đám rước, đã dùng chuôi giáo để cầm hãm bớt cái hào khí của dân chúng. Ngay từ buổi sáng, quần chúng đã ngưng hết mọi công việc, háo hức được xem thấy bằng xương bằng thịt những nho sĩ xuất sắc của đất nước. Họ nhìn không chán mắt những trang phục bằng lụa thêu rồng đang vờn sóng, say sưa nhìn những con ngựa đẹp choàng vải thêu sang trọng, những cái lọng lớn với những túp lụa hồng do những tên lính bận chế phục riêng cầm, chăm chú nhìn diện mạo hớn hở của các Tiến Sĩ đậm nét đạo mạo đáng mặt nho gia.
Hàng vạn lời bình phẩm, giải thích tuôn ra khi họ đi ngang qua, khen ngợi khi nói tới những vị Tiến Sĩ vừa mới đăng khoa, nhưng lại mỉa mai khi nói tới những quan lại mà các vị ấy sẽ trở thành sau này. Các cô gái đưa mắt liếc nhìn họ một cách mơ mộng, các bà già mỉm cười với họ bằng cái miệng đỏ thắm quết trầu, những ông già gật gật đầu hài lòng, những người bận áo màu củ nâu nâng cao đứa con trai của mình lên về phía các Tiến Sĩ:
- Hãy nhìn đi con, hãy nhìn cho chán con mắt của con đi! Các vị này không còn phải cong lưng cày bừa khó nhọc như cha con nữa! Bây giờ họ sắp được giàu sang và danh vọng rồi Sau này, nếu được thì con ráng bắt chước họ nhé con!
Các thầy giáo chỉ cho đám học trò đang say sưa vì thèm muốn và khâm phục. Trong giây lát, những người buôn bán quên đi mất cái mớ hàng hỗn tạp của mình, bọn bất lương quên đi thói lừa đảo của chúng, bọn ăn mày và những người đói khổ quên đi nỗi bất hạnh của họ, nhìn cái giấc mơ vĩ đại của người Việt diễn qua trước mắt mình và cảm thấy mình cũng dư phần giàu có, tài năng và được kính trọng.
Các Tiến Sĩ vừa đĩnh đạc đi tới khu phố Cây Hòe đông người thì có một người đàn ông vụt chạy như một con chó điên nhào tới giữa những chân con ngựa của Nguyễn Trãi và bám sát ở bên hông ngựa.
- Cháu ơi, hãy thương bảo vệ cho chú! Bà ấy muốn cắt của chú "cái ấy"! - Một giọng nói hổn hển van xin.
Nguyễn Trãi ngạc nhiên nhận ra Từ Chi.
Người thợ mộc bám lấy cái vạt áo rất đẹp của chàng, đảo cặp mắt sợ hãi nhìn chàng. Một vệ binh hoàng cung định bắt anh ta, nhưng Nguyễn Trãi can ngăn.
Ngay lúc đó, con "sư tử cái" từ trong đám đông phóng ra, dân chúng nửa thì cười nhạo, nửa thận trọng tránh lưỡi dao của bà ta - Mẹ kiếp! Con mẹ kiếm đâu ra cái con dao cũ ấy vậy? "Con sư tử cái" nhảy vọt tới. Chắc chắn cái ông chồng hay lang chạ của bà đang ẩn trong cái đám rước kia, bà ta la lối hướng về phía đám rước, miệng sùi bọt mép, con dao hướng mũi về trước, làm trò hề cho bọn nhãi con bên đường được xem diễn hai cảnh một lúc.
- Hãy chờ đó! Tao thiến mày cho mà xem, tên đĩ ngựa! - Bà ta nói với những người chứng kiến - Các ông bà đã thấy cái tên đểu cáng ấy chứ? Nó sợ rồi! Nó run sợ trước một người đàn bà! Các ông bà thấy đấy! Nó đó! Đừng để nó trốn mất! Nó chơi bời đến độ cả mẹ nó nó cũng không từ.
- Hãy ra khỏi đó đi, và hãy để cho người ta thiến nếu anh là đàn ông! - Một người nào đó la lên
- Nếu con mẹ đó không hoàn toàn điên thì cứ để nó thiến cả tao nữa đi!
- Này thím, thím nên đi tắm đi! Tắm rồi thím sẽ thấy nguôi cơn thịnh nộ.
Thấy vui vui, Mộng Tuân lại gần Nguyễn Trãi, hai hông ngựa áp lại với nhau. Núp giữa hai con vật như thế, Từ Chi run hết cả tay chân và thầm khấn vái Trời Phật cả ngàn điều.
Thuật lại thì dài, nhưng việc xảy ra rất nhanh chóng. Ngay khi "con sư tử cái" chồm lên, tuôn ra hàng loạt những lời t?