Chương 3
Hàn Lâm Học Viện Hoàng Hội Khanh đã nói đúng: Kỳ thi Tiến Sĩ có quan trọng tới đâu cũng không phải là lý do duy nhất khiến nhà vua có mặt tại Đông Đô (Thăng Long).
Còn một lý do nữa có tính cách chính trị được tiết lộ qua sắc lệnh của Ngự Tiền Văn Phòng. Theo lệnh của Thiên Tử, cơ quan này phải triệu tập tất cả mọi quan chức trong nước, các quan văn võ chín phẩm, chính cũng như phó, các quan thủ hiến và phó thủ hiến đứng đầu các tỉnh, phủ, châu, huyện, trong nước cũng như ở biên giới, đến Hoàng Cung dự buổi chầu trọng thể vào canh năm, ngày 21 tháng 9 âm lịch năm Canh Thìn (1400).
Từ Dinh Chưởng Ân của Hoàng Đế, các phái viên triều đình được phái đi từ khắp các miền trong nước để truyền bá sắc lệnh của nhà vua. Hiện tại, họ đang trên đường trở về Đông Đô cùng với các viên chức cao cấp mà họ có nhiệm vụ phải triệu về.
Những tân chức, trong đó có Nguyễn Trãi, Lý Tự Tân và Nguyễn Mộng Tuân, đều được mời đến dự. Nguyễn Trãi với tư cách là thành viên Ngự Sử Đài, hai người kia là thành viên Đông Các Điện. Không hiểu công việc hành chính chậm trễ ra sao mà nho sĩ Nguyễn Phi Khanh vẫn chưa được bổ nhiệm chính thức vào viện Hàn Lâm, nên không được mời tham dự.
Chính vì cuộc hội họp này mà nhiều tuần nay, Hồ Quý Ly đã không về kinh đô mới của ông ở Thanh Hóa.
Những người muốn đồng hóa cuộc họp long trọng này với cuộc họp truyền thống vào dịp Trung Thu81 cũng phải chấp nhận rằng vì tình hình rối ren trong nước, cuộc họp này có một tầm quan trọng đặc biệt: lần đầu tiên hỏi ý kiến các quan một cách công khai của triều đại mới.
Ngoài những lễ nghi ra, triều đại nào cũng có những phong cách riêng của mình. Trước cuộc họp, người ta đã biết cái chủ trương thiên về đường lối canh tân của Thiên Tử, chương trình cải cách rộng rãi của ông trong tất cả mọi lĩnh vực thế nào, ý muốn phát triển về văn hóa trong nước ra sao, và cách đối phó của ông chống lại các nho sĩ bảo thủ và các đại điền chủ thế nào. Ngài sẽ dùng quyền uy áp đảo chăng? Sẽ dùng tài thuyết phục chăng? Hay trái lại Ngài sẽ lươn lẹo như một con rắn?
- Còn cách nào tìm hiểu đất nước mình tốt hơn và khéo léo hơn nữa? - Tướng Trần Mộng Dũ, con trai út của cố Hoàng thân Trần Nguyên Đán, thẩm định như thế.
- Biết đâu đó là một cái bẫy? - Anh của Dũ, tức Tham Tri bộ Lễ lo lắng vì đánh hơi thấy có cái gì ám muội trong đó.
Nhớ lại vụ can thiệp trước đây, trong đó Từ Thức là bạn đồng liêu của mình đã phải trả giá rất đắt, các huyện quan tự bảo nhau: "Đã được triệu từ những chốn xa xôi về kinh đô, thì một người thẳng thắn sẽ giá trị bằng cả ngàn người xu nịnh, nên dù có thế nào tôi cũng sẽ nói".
Các vị đầu tỉnh đã bất lực không trấn áp được những cuộc nổi dậy của nông dân và nông nô trong địa hạt của mình đều sợ rằng sẽ bị đánh giá là bất lực. Chỉ có Tỉnh Trưởng Thái Bình là Trần Quốc Kiệt, vì có những công trình xây đê ngăn nước biển tràn vào, tự cho mình là người không thể chê trách vào đâu được
Tóm lại, phiên họp long trọng này gây ra rất nhiều phản ứng và bình luận, nơi những người ủng hộ triều đại mới cũng như những người gièm pha chống đối, phe nhóm của những người sau đông đảo hơn rất nhiều.
Họ gồm các thân hào và các đại điền chủ thuộc lớp thứ dân. Họ nhận thấy một đằng thì đất đai của họ bị thu hẹp lại, một đằng thì thuế điền trạch lại tăng lên, trong khi đất đai của các Hoàng thân và quận chúa lại được miễn. Các nhà buôn bán bị hao hụt vì tiền bạc bị lạm phát và vì có những sắc thuế mới đánh trên các thuyền đánh cá. Các nho sĩ bất bình vì việc cải cách về học vấn, vì việc đem đạo Khổng ra phê bình, về chủ trương bỏ chữ nho cổ điển để dùng chữ Nôm trong việc thảo các sắc dụ và các giấy tờ hành chính.
Tóm lại, lòng trung thành với triều đại cũ vẫn còn khá sâu đậm nơi dân chúng khiến cho Hồ Quý Ly không thể nào quên được rằng ông là người chiếm ngôi. Lòng trung thành với nhà Trần cộng với niềm hy vọng thu hồi lại những đặc lợi đặc quyền của mình chắc chắn sẽ khiến cho rất nhiều quan lại một vài năm sau trở thành phản bội.
Hồ Quý Ly biết tất cả những chuyện đó.
Say sưa trong việc chiếm đoạt uy quyền với tất cả sự kiên trì, ông lo đến những người chống đối cũng chỉ để trừ khử những người đang gây cản trở nhiều nhất cho ông. Cuối cùng thì ông đã nắm được trong tay những phương tiện để thực hiện sự nghiệp cải cách rộng lớn của ông. Ông dự định sẽ nới lỏng sự kiểm soát của ông nếu không có sự hiện diện của người cố vấn trung thành nhất và kín đáo nhất của ông, tức quan Thái Giám trưởng Loan. Và ông cũng vừa cất nhắc Loan lên chức Thái Bảo.82
Hoàng Đế và quan Thái Bảo đều đã khoảng lục tuần rồi. Họ đã cùng với nhau phục vụ dưới nhiều triều đại. Hồ Quý Ly được trọng dụng là nhờ các cung phi. Còn Loan, vốn là giám hoạn bẩm sinh, nên thuộc vào loại người hiếm có được các nhà vua rất quý chuộng. Viên Thái Bảo thì mập mạp nặng nề, còn Hoàng Đế thì mảnh mai và khô cằn. Nếu bảo họ giống nhau thì đó là theo kiểu gà thiến giống gà chọi. Nhưng cả hai đều năng nổ bởi cùng một tham vọng không bờ bến, và liên kết khăng khít với nhau trong một sự đồng lõa bền chặt. Hồ Quý Ly đã cho Loan biết tất cả những gì mà ông ta giấu không cho ai biết: Một số những nhược điểm nào đó, và cả việc ông hết sức ngưỡng mộ Hoàng Đế nhà Minh là Hồng Vũ mới băng hà hai năm nay. Loan đã tinh vi lợi dụng điều đó một cách kín đáo tế nhị. Hồng Vũ cũng xuất thân từ giới nông dân như Loan, nên viên Thái Bảo này muốn Hồ Quý Ly cũng giống như Hồng Vũ ở chỗ có một sự tị hiềm gần như thuộc bản năng đối với giới nho sĩ. Sự tị hiềm ấy là điều đã đưa Hoàng Đế Trung Hoa đi đến chỗ kiểm soát gắt gao tổ chức cai trị và tổ chức hành chính, mở những phiên tòa nghiêm trọng, và triệt để thanh trừng hàng ngũ quan lại. Và Loan đang thúc đẩy nhà vua của mình đi theo đường lối ấy…
Hắn đã rời khỏi làng mình từ khi còn rất trẻ để vào trong Cung Cấm, bây giờ thì hẳn đang hoàn toàn điều khiển Cung Cấm đó. Hắn canh chừng tất cả. Không có gì thoát khỏi cặp mắt của hắn. Trong cũng như ngoài cung điện, hắn đều có những tên mật thám làm việc cho hắn. Những tên này bị những tên thanh tra khác kiểm soát. Còn những tên thanh tra này lại bị giám sát bởi những nhân viên khác luôn luôn thay đổi. Năm Mậu Thìn (1388), chính hắn đã khám phá ra cuộc âm mưu vụng về của nhà vua đang trị vì lúc đó là Trần Phế Đế. Năm Kỷ Mão (1399), chính hắn đã khám phá ra cuộc mưu phản của các Hoàng thân Trần Hãng và Trần Khát Chân, ông này đã bị xẻo từng miếng thịt trong vòng ba ngày. Cùng với hai Hoàng thân ấy, có 370 quan đã bị giết, cũng rất thảm thương như thế. Những hình phạt hết sức khốc liệt, những việc tàn ác hết sức tinh vi, như việc ám sát Nhà vua Trần Thuận Tông ở tận ẩn viện thuộc Lão Giáo của ngài một cách mờ ám, đều do Loan thúc đẩy nhà vua làm.
Cuộc triều kiến long trọng hay không ai được phép vắng mặt cả, được sắp xếp và tiến hành như ở sân khấu, đều là do hắn đạo diễn cả.
Hắn hy vọng gì ở đấy?
—★—Trần Mộng Dũ nói với Nguyễn Trãi một cách mỉa mai theo kiểu ông vẫn hay dùng:
- Đây là lần đầu tiên cháu được chính thức vào chầu với tư cách là quan Ngự Sử, thật là một dịp vĩ đại cháu không thể nào mơ ước hơn, cháu ạ! Tất cả những gì cháu thấy, cháu nghe tại đó, cậu chắc chắn rằng cháu sẽ rút ra được nhiều điều hay!.
Từ "vĩ đại" quả là dùng đúng lúc. Cuộc triều kiến long trọng đó được tổ chức tại điện Kính Thiên83, nên các quan vào Hoàng cung bằng cửa Đại Hưng, rồi vào Cung Cấm bằng cửa Đại Kim Môn theo con đường đã quy định.
Vào đầu canh năm84, trong khi trời vẫn còn tối om thì từ phố Hàng Cỏ tới cửa Đại Hưng, quang cảnh sáng choang như giữa ban ngày. Hàng ngàn bó đuốc xếp thành hai làn ánh sáng. Giữa hai làn sáng đó, có các kiệu sơn son thếp vàng, các thớt voi choàng vải thêu của các bậc đại thần đang qua lại. Những hàng lụa óng ả, những đồ trang sức sáng rực, những áo giáp và võ khí lấp lánh, hàng trăm lá cờ đủ các màu sắc phất phới trong gió đêm. Tất cả khác nào như một cái tráp bằng đá quý đỏ chói trong đêm đen.
- Trời ơi! - Từ Chi đang nấp mình sau một thân cây cách đó khá xa reo lên - Anh Phi Khanh bạn của mình có lý! Sau các cô gái thì đó là cái đáng xem nhất ở thủ đô này!
Anh ta nhìn hàng ngũ các quan đang đi qua, thật kỹ, từng người một, trong đó có những người từ xa thật xa đến, để tìm Nguyễn Trãi, người bạn trẻ của anh ta. Làm sao nhận ra chàng được trong cả cái đám người ăn mặc lộng lẫy đó? Họ chỉ cần đội lên đầu cái mũ cánh chuồn ngộ nghĩnh ấy là mặt người nào cũng giống như người nào.
Sân Rồng, nơi thiết lễ đại triều, rộng bao la bát ngát, nhưng Nguyễn Trãi thấy dường như chỉ vừa đủ rộng để chứa các quan và đoàn quân Cấm Vệ đông đảo đang chen chúc nhau.
Trong điện Kính Thiên đang vang lên một điệu nhạc du dương, các cửa mở rộng ra, ai nấy đều trang trọng chỉnh tề bước lên nơi nhà vua ngự tọa trên ngai vàng.
Dưới ánh sáng linh động của hàng trăm cây đèn đồng, Nguyễn Trãi cũng như những người vào đây lần đầu tiên đều cảm thấy căn phòng đẹp lộng lẫy uy nghi với những bức tường màu tím, với những hàng cột chạm trổ hình các tiên nữ và phượng hoàng, với những trần nhà bằng gỗ quý khảm xà cừ. Mọi người đang chờ đợi Hoàng Đế đến chủ tọa.
Phía trên những bậc thềm ngọc, trên chiếc bệ nạm vàng, ngai báu được chạm trổ những con rồng đang phóng những cái đầu oai phong của chúng sang cả bên đông lẫn bên tây như để canh giữ tấm màn nhung đỏ rủ xuống với những lằn nếp nặng trĩu và bất động.
Một vị quan dùng một cái roi kết bằng lụa85, quất ba lần xuống nền lát bằng những tấm đá cẩm thạch. Các quan vào chỗ của mình, quan văn bên phải, quan võ bên trái, ở những hàng đầu là các quan trong Cơ Mật Viện và Hội Đồng Tư Vấn của nhà vua, các Thượng Thư trong triều và các tướng lĩnh, các vị đầu tỉnh và các phó đô đốc, các quan đốc chính viện Hàn Lâm, các chính án Tòa Thượng Thẩm, các quan án Sát ở các tỉnh, tất cả các quan lại thuộc bốn phẩm trật đầu tiên trong quan giai, tiếp đến là tất cả các viên chức từ ngũ phẩm tới cửu phẩm, nghĩa là cho tới chức Cai Tổng, tức quan đứng đầu một tổng. Tất cả đều mang y phục đại triều đủ màu sắc, từ màu lam như đồng rỉ, cho đến các màu thanh thiên, diệp lục, bích ngọc, tùy theo phẩm trật trong quan giai.
- Vạn tuế! - Tất cả triều thần tung hô, hai tay chắp lại trên trán, khi Thiên Tử vừa xuất hiện, và họ làm lễ cung nghinh Thánh Thượng. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi trố mắt ngạc nhiên không biết Thánh Thượng từ đâu xuất hiện ra.
Chắc là từ một cái cửa ngầm nào đó được che lại bằng một bức màn đã rủ xuống ở đằng kia.
Bên cạnh Thánh Thượng bận Hoàng áo màu vàng son là Thái Tử Hồ Hán Thương. Dưới chân bục có các quan Đại Thần, trong đó có viên Thái Bảo Loan, ngồi trước quan Lại Bộ Thượng Thư Đỗ Tỉnh, ông này có nhiệm vụ điều khiển chương trình.
Tiếng nhạc vừa dứt, các quan Tuyên Cáo hô to:
- Xin quỳ gối xuống nghe Thánh Chỉ!
Có tiếng nói từ trên thềm ngọc vọng xuống rất đều đặn, sắc nét và rung vang. Nguyễn Trãi có cảm tưởng rằng tiếng nói đó không phải xuất phát từ con người khắc khổ bận long bào đang ngồi trên ngai. Thiên Tử nói:
- Sự ân cần lo cho toàn dân đòi buộc Trẫm phải thực hiện một guồng máy chính quyền tốt. Một chính quyền tốt là một chính quyền thực hành sự công bằng trong các sắc thuế và trong các dịch vụ, bảo đảm cho dân chúng sống yên vui no ấm trong cũng như ngoài biên cương. Để công bằng hơn, Trẫm đã dùng những biện pháp hạn chế bớt việc sở hữu đất đai và đã làm một cuốn sổ ruộng đất để ấn định hợp lý các mức thuế phải trả. Bộ luật hình sự đã được cải tiến, một phòng y tế đã được thiết lập, hệ thống trường ốc đã được thay đổi, và dân chúng đã có những điều kiện dễ dàng đốc học hành. Đó là tất cả những biện pháp mà các khanh có nhiệm vụ đem ra áp dụng theo chức năng của mình. Thế nhưng chỉ mới có lời nói chứ chưa thấy việc làm!
Nhà vua nhìn xuống thấy cả một nhà đầy các quan đủ mọi màu áo đang nhốn nháo lên. Rải rác đây đó có những nụ cười nham hiểm, những ánh mắt hằn học, vừa biểu lộ ra ngoài mặt đã vội ẩn giấu dưới nét kính cẩn bên ngoài. Nguyễn Trãi cảm thấy như có những đợt sóng vừa nóng bỏng vừa lạnh ngắt xuyên qua người mình.
Thiên Tử lại tiếp:
- Trẫm nói với các Khanh điều đó, nếu không có một chính quyền mạnh, không có những bề tôi nhiệt thành, nếu không được dân chúng tin tưởng, làm sao Trẫm có thể bảo vệ được Nam Quốc của Trẫm? Trẫm thẳng thắn nói với các Khanh điều này: Hãy có ý thức "cư an tư nguy"86 như thể các Khanh đang nằm trên một đống củi khô để gần lửa. Quân Mông Cổ xâm lược đã bị đuổi đi, nhưng không phải vì thế mà hiểm họa đó biến mất. Ngày trước là nhà Nguyên, ngày nay là nhà Minh. Dù chúng ta có triều cống đúng hẹn, thì sự đòi hỏi như cú vọ của họ không ngừng gia tăng. Có lẽ chinh chiến sẽ xảy ra không bao lâu nữa đâu! Nay những bộ lạc phiên thần ở vùng Cao Nguyên và Trung Du đều bị quân Ngô ngấm ngầm xúi giục. Bờ biển chúng ta bị quấy nhiễu bởi bọn cướp biển nước Ngô đang ủng hộ quân Chàm chống lại chúng ta. Chúng ta phải cảnh giác hơn bao giờ hết. Vì thế, Trẫm vời các Khanh lại, là những người phụng sự đất nước dưới trướng của Trẫm. Trong việc bảo vệ đất nước, chúng ta thành lập quân đội để bảo vệ Quốc gia và Dân tộc, chúng ta không thể thiếu quân đội dù chỉ một ngày. Những triều đại trước hoàn toàn chán nản vì những phiền phức do việc kiểm tra dân số, người ta đi đến chỗ phải động viên cả các nhà sư. Phải có những luật lệ trong việc tổ chức, vì thế Trẫm đã ra lệnh soạn lại hộ tịch. Những nông dân di trú về các tỉnh phía ngoài phải trở về làng để đăng ký thống kê lại. Không thể chấp nhận cho ai vắng mặt hay thay đổi chỗ ở cả. Trẫm trông cậy vào lòng nhiệt thành của các Khanh - giọng nhà vua đầy vẻ mềm dẻo tha thiết của một người cha - trong việc áp dụng hữu hiệu cái biện pháp sống còn đối với đất nước chúng ta này, Trẫm tin tưởng các Khanh hôm nay sẽ chân thành trình tấu cho Trẫm biết chương trình và ý kiến của các Khanh về những khó khăn trong việc áp dụng những cải cách của Trẫm, và cũng cho Trẫm biết những cải cách đó đã gây ra những nỗi bất bình nào. Trăm hoa cứ việc đua nở! - Thiên Tử tuyên bố - Tất cả mọi người cứ việc nói, đừng sợ Trẫm giận hay buồn phiền gì cả!
Nguyễn Trãi nhớ có lần ông ngoại chàng nói về tài đóng kịch của Hồ Quý Ly. Tuy nhiên chàng bị hấp dẫn, bị phấn khích bởi những lời mà Hoàng Đế thành khẩn nói ra, gần như phần nào nhắc lại những lời trong bài "Hịch tướng sĩ" của Trần Hưng Đạo.
Nói xong, Thiên Tử rút lui cùng với các Thái Giám, trong đó có viên Thái Bảo Loan, ngang qua các cửa vàng được giấu ẩn sau bức màn thêu rồng đang buông rủ xuống những lằn nếp im lìm bất động.
Các viên chức xanh mặt xúc động nghe Thượng Thư bộ Lại Đỗ Tỉnh - một người được coi là rất có đầu óc và liêm chính - giải thích rằng Hoàng Đế lánh mặt đi là để mời gọi bá quan tận tình an tâm mà phát biểu một cách tự nhiên. Quan Biên Niên Sử ở Quốc Sử Quán sẽ ghi lại những lời phát biểu của mỗi người nhưng không ghi tên ai cả. Trên bệ rồng chỉ còn lại Thái Tử Hồ Hán Thương còn trẻ tuổi, suốt buổi chầu không nói một tiếng nào.
- Xin đứng dậy! Quan Tuyên Cáo hô lên.
Nguyễn Trãi nhìn về phía các cậu chàng. Tướng Trần Mộng Dũ có vẻ là người biết chụp lấy thời cơ, trong khi anh của ông, tức Tham Tri bộ Lễ, mặt mày xanh như tàu lá. Tự nhiên chàng Đình Nguyên cảm thấy ước vọng muốn hành động nổi dậy trong tâm hồn chàng. Dân tộc Đại Việt ít nói hay làm đang mong những đại diện của mình diễn tả giùm, hô to lên giùm cho mọi người biết cái nỗi khốn khổ của họ. Nhưng than ôi các quan mới được tiến cử đang phải hết sức thận trọng về lời ăn tiếng nói của mình.
Theo cách thức nhẹ nhàng nhưng có sức thuyết phục, Thượng Thư Đỗ Tỉnh lặp lại lời mời gọi của nhà vua.
Một hồi lâu im lặng. Không ai bước tới chân thềm ngọc cả. Tất cả đều cảm thấy bỡ ngỡ hết sức.
(Đằng sau bức màn)
Những người đứng quan sát cảnh ấy từ phía bên kia bức màn rồng ấy đều thấy những vị đại thần và những viên chức cao cấp im lặng như bị hóa đá. Trên những khuôn mặt trịnh trọng không kịp chuẩn bị ấy hiện lên vẻ bất an thậm chí là sợ hãi, vẻ nghi nan và ngờ vực, tính toán và mưu mô, tức giận và ganh ghét, đam mê và hăng hái.
Thực ra Hoàng Đế và tùy tùng của ông rút lui chỉ là để nhìn xem nhưng lại không để cho ai thấy mình.
Viên Thái Bảo Loan là người đầu tiên đến dán mắt vào một trong những cái cửa được che giấu sau bức màn có nhiều nếp gấp. Lập tức nhiều người khác cũng bắt chước làm theo, khiến mọi người đang ở dưới sân rồng đều nằm trong tầm nhìn của họ.
Còn Hoàng Đế không thể hạ mình xuống để chơi cái trò núp lén ngoài hành lang, cái trò đã khiến cho tất cả các thái giám có vẻ dâm đãng của những kẻ nhìn trộm. Ông ta ngồi một mình trên chiếc sập được đặt ở đó theo ý muốn của ông, và chờ đợi những lời bình phẩm của những người quan sát nhiệt thành của ông. Nhất là những lời của Loan, cố vấn của ông. Không ai có tài biết rõ bụng dạ người khác rõ hơn hắn.
Nỗi đam mê và cũng là cái thói xấu của viên Thái Bảo là tìm hiểu những hậu ý của họ, lột mặt nạ lòng tham của họ, là nắm lấy những mâu thuẫn của họ. Để làm những việc đó, hắn đã có cả sự kiên nhẫn và khéo léo của con mèo, sự khôn ngoan của con rắn, sự độc ác của con sói, khiến cho tất cả mọi người sợ và ghét hắn. Tài năng của hắn có thể giúp hắn giải mã được ngôn ngữ của các viên chức bên ngoài thì tung hô "Hoàng Đế vạn tuế" nhưng trong lòng thì gọi vua là "tên soán ngôi" và luôn cầu mong cho ông chết sớm. Cái buổi chầu long trọng này chỉ là một mưu mẹo để lột mặt nạ những ai muốn tạo phản. Quan Tham Tri bộ Lễ quả có lý khi đánh hơi ở dưới đó có một cái bẫy, một xảo thuật để lột mặt nạ những ai có lòng phản phúc. Người nào mở miệng ra thì chắc chắn rồi sẽ phải câm lại vĩnh viễn. Phải làm sao để những ông quan im lặng như phỗng này nói lên mới được! Loan đã dự phòng những phương cách để khiến họ phải nói.
Mới đầu, Thượng Thư Đỗ Tỉnh chưa biết được vai trò mà người ta nhờ ông đóng, nên đã tỏ ra cả một sự khoan dung nhân hậu của một người cha. Nếu im lặng lâu quá, có lệnh buộc chính ông phải đưa ra những lời phê bình đầu tiên, đề nghị những gì cần phải điều chỉnh lại trong những cải cách của nhà vua, thậm chí có thể tự mình tố cáo lấy chính mình. Nếu những lời phê bình đầu tiên đó rốt cuộc không làm cho ai nói lên cả, thì lúc đó từ trong điện Kính Thiên có một vài người đã được tuyển chọn cẩn thận sẽ khơi mào ra những vấn nạn đầu tiên, bảo đảm tính chân thực của trò đùa giỡn với chân lý này nhằm tạo sự tin tưởng nơi các quan. Dần dần miệng và lòng trí người ta sẽ phải mở ra. Loan tự nhủ: "Cứ từ từ rồi những kẻ thù ẩn nấp kỹ lưỡng nhất sẽ bị lột mặt nạ".
(Dưới sân rồng)
Phải nói rằng nỗi sợ hãi đã chặn họng tất cả mọi người, làm tê liệt mọi bộ óc, vì bất chấp những cố gắng của quan Thượng Thư bộ Lại, vẫn chưa có ai dám phát biểu gì cả, dù là những lời tán tụng nhất.
(Sau bức màn)
Bằng cặp mắt sắc như nước, viên Thái Bảo dò xét khắp điện Kính Thiên và cho rằng một lát nữa họ sẽ chín mùi.
Tướng Trần Mộng Dũ đã đi một bước trước bất chấp con mắt van nài của anh mình, tức quan Tham Tri bộ Lễ vốn rất thận trọng.
Hàn Lâm Học Sĩ Hoàng Hội Khanh, như một con gà trống, có vẻ như thách đố bất kỳ ai dám phát biểu ý kiến. Viên Thái Bảo tự nhủ: "Miễn là cái tên ngu xuẩn này đừng ngăn cản người khác nói!".
Thống chế Lê Canh Kỷ, vốn thiếu đầu óc dứt khoát, nhưng lại là một mưu sĩ giỏi, vẫn giữ nguyên vẻ nghi ngờ ra mặt. Nhưng không có gì đáng sợ về phía ông này.
Quan Hộ Bộ Thượng Thư, có bà con với một cung phi của Hoàng Đế, ai cũng biết tính ông chậm chạp, hiện ông đang vuốt râu kìa! Cầu Trời cho ông đừng học đòi phát biểu với người ta!
Còn quan Chủ tịch Viện Hàn Lâm Lưu Thục Khiêm, tuy khôn ngoan nhưng nhiều người cho rằng ông "không đủ lòng nhân". Không biết ông thuộc phe cánh nào đây? Viên Thái Bảo tự hỏi như thế. Ở trong hàng ngũ những kẻ "muôn đời câm miệng" gồm những tên cơ hội, hèn nhát, cũng như những kẻ chống đối một cách âm thầm kín đáo và vì thế rất nguy hiểm chăng? Hay ở trong nhóm những người chủ trương liên kết với nhau xung quanh con người của Hoàng Đế vì sự đe dọa của quân Minh, song lại bất đồng ý kiến với nhau về những giải pháp phải theo khiến họ còn nguy hiểm hơn hạng người trước chăng? Đặc biệt là các Hoàng thân Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng đã liên kết với chế độ này để có thể tồn tại đồng thời để chờ đợi thời cơ của họ. Cần phải coi chừng những người tuy đồng phe nhưng lại rất đáng nghi ngờ này. Hay cuối cùng có thể xếp ông Khiêm đó vào cánh những người theo Nho Giáo thực ra không tin vào nguy cơ bị quân Thiên Triều xâm lược, mà chỉ xem điều đó như lý do cổ truyền được viện cớ ra để áp đặt những cải cách và để xây dựng triều đại mới chăng? Những người đó Loan vừa ghét lại vừa khinh thường họ. Nguy hiểm! Rất nguy hiểm! Bỗng nhiên, viên Thái Bảo hết sức chăm chú nghe.
(Trước sân rồng)
Rốt cuộc rồi người ta cũng phải mở miệng ra!
Tướng Trần Mộng Dũ, phần ông, ông tin vào cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới. Ông nói:
- Nước Đại Việt của chúng ta có biên cương ranh giới cũng y như một người phải có chân có tay. Không có chân tay thì người đó sẽ bị thiệt hại rất lớn. Không có biên giới thì quốc gia sẽ bị tiêu vong, đất nước sẽ bị tàn phá. Lịch sử của đất nước chúng ta rất vinh quang trong việc chống bọn xâm lược phương bắc. Lịch sử đó chứng tỏ rằng sức mạnh của chúng ta luôn luôn nằm trong việc trung thành với Hoàng Đế của chúng ta, trong sự liên đới giữa binh với tướng, giữa dân chúng với lớp quý tộc, vì quyền lợi của đôi bên đều liên kết với nhau. Chính vì thế mà các Thân Vương87càng mạnh thì dân tộc càng mạnh. Cần phải giúp phương tiện cho những vị ấy để tuyển mộ, thành lập và luyện tập những đội quân. Khi cần, những đội quân này sẽ bổ sung thêm cho quân đội chính quy. Trên quan điểm quân sự, thành công của quân đội luôn luôn hệ tại sự liên minh chiến đấu chặt chẽ giữa quân đội của triều đình và các lực lượng của các tỉnh, tạo ra một thế chiến lược thuận lợi để tấn công kẻ thù vừa mặt tiền vừa mặt hậu. Bầy tôi thấp hèn của Bệ Hạ mạn phép nhắc lại quan điểm đó.
Có rất nhiều tiếng ủng hộ "Hay! Hay!" của các quan văn võ. Còn quan Tham Tri bộ Lễ thì run lên đến độ bụng ông cứng ngắc lại. Khi đỡ run, ông đánh rắm mấy tiếng.
(Sau bức màn)
Loan cười khẩy nhẹ nhàng. Hắn đã nhận ra rõ ràng những điều đó nơi con người Trần Mộng Dũ. Các Thân Vương thì ủng hộ cuộc chiến tranh đều có hậu ý là muốn thiết lập quyền bính của họ đồng thời càng ngày càng đòi hỏi nhiều đặc quyền đặc lợi hơn.
- Xin Bệ Hạ đừng tin vào những bài học quá hay mà Bệ Hạ đã dạy cho người con rể của mình - Hắn nói với Nhà vua, và đôi mắt hắn còn nói được nhiều hơn lời nói - Người học trò ấy rất có thể vượt qua thầy được đó!
Thiên Tử lắc đầu:
- Chắc chắn là bọn ấy không ưa Trẫm. Tuy nhiên cái hiểm họa bị Tàu xâm lăng sắp xảy ra bảo vệ cho Trẫm. Họ chỉ theo Trẫm là vì bổn phận và vì lòng yêu nước thôi. Cái hiểm họa duy nhất đến từ họ là muốn phục hồi triều đại cũ. Nhưng làm gì còn người thừa kế họ Trần nữa?
Một nụ cười thoảng qua trên môi hai người và họ nhìn nhau với vẻ đồng tình.
Đứng quan sát sau các bức màn, các thái giám không bỏ sót một chi tiết nào về những việc đang xảy ra.
(Trước sân rồng)
Cuộc tranh cãi vẫn còn nằm trong địa hạt quân sự, có các tỉnh trưởng các vùng biên giới can thiệp vào. Họ lấy làm lạ là người ta mới chỉ nói tới chiến tranh đe dọa thôi, trong khi thực tế thì chiến tranh đã xảy ra rồi. Người Tàu đang trà trộn vào những dân tộc thiểu số, là các chư hầu của Đại Việt, và "những cái lưỡi hôi thối của loài diều hâu đó đã tung ra những tin thất thiệt nhằm làm cho dân chúng nổi loạn", Tỉnh Trưởng Thái Nguyên nói. Người Tàu phao lên rằng: Triều đại mới tại vùng Trung Châu sẽ tiêu diệt những thủ lĩnh truyền thống của họ. Tóm lại là "xứ nâu" sẽ đè bẹp "xứ xanh"88. Và người Tàu đã cung cấp cho họ muối và vũ khí. Ông ta chỉ là một bề tôi thấp cổ bé họng nhưng cũng đành xin Hoàng Thượng chú ý tới vùng biên giới. Cần phải làm dịu bớt những lo ngại của các thủ lĩnh Thái và Mường, nhắc họ nhớ lại sự đóng góp hữu hiệu của họ trong cuộc chiến thắng quân Mông Cổ ngày xưa.
Sau ông ta, các Tỉnh Trưởng Lạng Sơn và Cao Bằng cũng nói tương tự như vậy. Họ cũng hết sức kính cẩn yêu cầu Chúa Thượng để mắt tới miền Bắc. Họ không hiểu là Chúa Thượng mong muốn cho Tây Đô đóng vai trò gì - khi nói điều này, họ rớt nước mắt vì sợ hãi - Tây Đô ở Thanh Hóa chỉ là một điểm để lui quân. Tại đó, quân đội có nguy cơ bị bao vây, trong khi các tuyến quân phòng ngự cần phải được gia tăng củng cố trên những con đường mà quân xâm lăng miền Bắc từ trước tới nay vẫn đi qua: tuyến đầu Lạng Sơn và thung lũng sông Hồng Hà, theo đường bộ, và đường biển về phía Đại Hải (Vịnh Bắc Bộ).
(Sau bức màn)
Trán của Hoàng Đế nhăn lại. Ông không thích nghe ai phiền trách tới Tây Đô, hay nói một nửa lời rằng ông đã phung phí công quỹ như cỏ và tiền bạc như bùn. Ông cũng không muốn cái thủ đô mới của ông bị coi như một thành phố bình thường. Thượng Thư bộ Lại muốn biện hộ cho Hoàng Đế, ông ta kể ra những công việc quân sự đang được tiến hành, như thành trì Đa Bang, và cái đập chặn nước sông Hồng Hà ở Bạch Hạc, nhằm chuẩn bị đối phó với quân xâm lược ở Vân Nam tràn xuống. Nhưng câu trả lời của Thượng Thư không làm Hoàng Đế thỏa mãn. Các thái giám như những con rắn dò xét phòng Kính Thiên với gương mặt xảo trá và đôi môi tuôn ra những lời độc ác bỗng chốc làm ông chán ngán. Cái hài kịch này rốt cuộc rồi có ý nghĩa gì? Tên Loan này có giúp ông biết được gì hơn những điều mà ông đã thừa biết trước? Lúc chỉ là một kẻ rắp tâm thoán vị, thì trò chơi này còn dùng được, nhưng bây giờ thì nó không còn xứng đáng với một Thiên tử như ông nữa. Các đối thủ của ông, ông đều biết không nhiều thì ít. Còn các quan trong triều từ trên xuống dưới thì có nên trò trống gì, họ chỉ biết theo nhau, bắt chước nhau, không hề suy xét gì cả. Nếu không tham tiền hám của thì họ lại sa đà trong rượu chè. Nếu không tìm cách rút ra nhiều lợi nhuận hơn nữa từ những chức vụ của họ mà không cần phải động đến một ngón tay, thì họ lại tranh giành ảnh hưởng để tiêu diệt lẫn nhau. Cảm thấy vỡ mộng, ông tự hỏi: Trong đám các quan ai đã từng có một ý tưởng thật hay hoặc cưu mang trong lòng một mưu kế để ích nước lợi dân nhỉ? Nhiệm vụ khó khăn trong các nhiệm vụ của nhà vua là khám phá ra những người có tài năng. Như một viên ngọc tình cờ tung ra, buổi họp long trọng này có giúp ông tìm ra được một người có tài năng nào không?
Viên Thái Bảo hiểu thấu tâm can Hoàng Đế đến độ biết hiện tại ý nghĩ gì đang làm cho ngài bực bội. Nhìn về phía những người theo Nho giáo, từ đầu đến giờ vẫn không chịu nói gì hắn càng lúc càng nóng ruột. Hắn nghiền ngẫm: nếu không lột mặt nạ được những tên phản bội, thì tổ chức nên buổi họp tốn kém này có ích lợi gì?
(Trước sân rồng)
Lúc này, y như Trời bỗng nhiên ra lệnh cho Thượng Thư Đỗ Tỉnh hướng mắt và lời nói về phía Đình Nguyên Nguyễn Trãi, nên ông yêu cầu chàng cho ý kiến.
Những lời phê bình hăng say cứ hết lời này hết lời khác khiến cho quan Tham Tri bộ Lễ cảm thấy một nỗi lo ngại ghê gớm đang xáo trộn lòng dạ ông. Ông cuống cuồng nhìn về phía con trai ông là Trần Nguyên Hãn và em ruột ông. Cả hai người này đang nhìn anh họ hoặc cháu mình là Nguyễn Trãi tiến lên phía bệ ngọc.
Quan Biên Niên Sử cầm viết lông chờ đợi.
(Đằng sau bức màn)
Viên Thái Bảo Loan tức giận nhìn chòng chọc vào lưng Thượng Thư Đỗ Tỉnh: "Cần gì phải bày ra cái trò mới lạ này! Từ hồi nào đến giờ có ai hỏi ý kiến những người mới được tiến cử đâu? - Hắn nhìn phe Nho giáo bằng con mắt hằn học - Bọn ấy sẽ còn trách móc bọn mình về việc ấy nữa? Dù nó có là Đình Nguyên đi nữa, thì nó có gì để mà nói cơ chứ?".
Loan quay lại. Bàn tay của Hoàng Thượng vừa mới chạm nhẹ lên cánh tay hắn. Gương mặt nhà vua sáng lên vẻ chú ý. Viên Thái Bảo kính cẩn nhường chỗ cho ngài…
(Dưới sân rồng)
Nguyễn Trãi suy nghĩ một lúc lâu khiến các quan chức có dịp để bình thản trở lại, dù sự khiếm khuyết về mặt lễ nghi đó cũng làm cho họ kẻ thì phấn khích kẻ thì bất bình. Chàng hồi hộp vì có một sự hứng khởi lạ kỳ. Chàng bái lạy hai lần.
- Bởi vì quan Thượng Thư hạ cố hỏi đến bầy tôi thấp hèn là hạ nhân đây, nên hạ nhân xin thưa rằng, vấn đề tiên quyết mà tình thế rối ren hiện tại đặt ra là: "Làm sao để vũ trang cho đất nước, tăng cường khả năng bảo vệ non sông?". Sự đe dọa bên ngoài càng khẩn cấp thì càng đòi hỏi phải có sự trị an ở bên trong lãnh thổ của chúng ta. Nếu toàn dân đoàn kết lại xung quanh Hoàng thượng làm thành như chỉ một gia đình, nếu các tướng sĩ và binh lính hiệp nhất với nhau như cha con, thì dù quân thù có đông hơn ta hàng ngàn lần, có vũ trang hơn chúng ta mười lần, chúng ta cũng không sợ! Bề tôi của các ngài đây dám quả quyết bất chấp kiến thức thô thiển của mình rằng: Quân đội mạnh hay yếu không tùy thuộc nơi quân số chút nào cả, mà bắt nguồn từ những đức tính cao cả này, đó là hai chữ Nhân Nghĩa. Thiền Sư Hoàng Đế và Nguyên Soái Trần Hưng Đạo đã dạy chúng ta điều đó. Ai có lòng nhân, người đó có thể dựa trên chính sự yếu đuối của mình để chinh phục sức mạnh. Ai vì đại nghĩa, người ấy có thể lấy ít chọi nhiều. Thiên tử của chúng ta đã sáng suốt nhắm mục đích đó, nên những cải cách của ngài là để tìm kiếm sự trị an và sức mạnh đó bằng cách thực hiện công bằng và công lý trong xã hội. Do đâu mà người giàu cứ càng ngày càng giàu lên, còn người nghèo thì cứ càng ngày càng nghèo đi dù họ có cố gắng hay vất vả tới đâu chăng nữa?
(Sau bức màn)
Hoàng Đế bình luận với viên Thái Bảo:
- Trời đã nghe lời Trẫm! Trẫm đang cần một người tài năng, thì người đó đây rồi! Với người này, những từ ngữ cũ như đức hạnh, công bằng, nhân đạo, đều lấy lại được sự trẻ trung của chúng! Cho tới nay, mọi người đều chỉ nói tới những điều đó theo nhãn quan cá nhân của họ hay theo quyền lợi riêng tư của họ. Còn người này, không có hậu ý gì cả, chỉ nói cho dân chúng.
(Dưới sân rồng)
Nguyễn Trãi có cảm tưởng như mình đang cưỡi gió, và giờ đây thì đã lên cao, chàng nói tiếp:
- Vào lúc phương Bắc đang đe dọa chúng ta trầm trọng, chúng ta nên lưu tâm tới những nỗi khổ mà dân đen đang phải chịu. Làm sao có công bằng được khi có những người phải sống bằng cỏ bằng đá trong khi người khác lại có đất đai trải dài tới tận chân trời, với biết bao nhiêu nô lệ, và thừa thãi lúa gạo? Chúng ta săn bắt cướp, truy nã những kẻ phản loạn, chúng ta chặt đầu chặt tay họ. Như thế chúng ta mới chỉ trừ hậu quả chứ không diệt nguyên nhân. Chúng ta không nhổ hết gốc rễ của tai hoạ là nỗi bất hạnh tận cùng của dân đen. Đó chính là căn bản của vấn đề. Có trừ khử nghèo khó và bất công, chúng ta mới đem lại bình an cho quê hương, và lúc đó, khi phải đối đầu với quân xâm lăng, thì toàn dân sẽ nhất tâm muôn người như một, đứng lên để bảo vệ tổ quốc. Thiên tử rất sáng suốt của chúng ta đưa ra những cải cách chính là để vạch ra con đường đó. Chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ để tìm ra những phương cách nào hòa hợp ý muốn với hành động. Đó chính là những tư tưởng của hạ nhân, cho rằng ngoài phương cách đó, không còn một cách nào khác có thể làm cho đất nước thịnh vượng và làm cho quân đội hùng mạnh hơn.
Nói xong, chàng lùi lại về chỗ mình, giữa những tiếng xầm xì của mọi người.
Trương Quận Công Điện Tiền Chỉ Huy Sứ bước lên vặn lại chàng bằng một giọng giễu cợt:
- Giới quý tộc là những con cắt, còn quân đội và nhân dân là những con vịt. Nếu người ta đem vịt nuôi cắt thì có gì là lạ?
Trong bá quan, rất nhiều người nghĩ như ông ta nên đã nhìn vị Đình Nguyên bằng những ánh mắt đầy ghen ghét.
Quan Tham Tri bộ Lễ phải đứng dậy vì ông thấy bộ nhung phục nặng nề của ông gò bó quá. Một cơn đau ngực rất khó chịu làm ông khó thở. Còn tướng Trần Mộng Dũ, ông nhận ra rõ ràng là cháu ông đang mong muốn cho mọi người những bài học, và người đã gieo cho cháu ông những tư tưởng đó là Hoàng thân Trần Nguyên Đán, cha của ông, khiến cho lòng ông xao xuyến xúc động. Mộng Tuân và Tự Tân trao đổi những ánh mắt đồng tình. Vì thận trọng nên người bạn đồng khóa với họ không nói hết những xác tín của mình, vì chàng cho rằng những cải cách của Hồ Quý Ly mới mở đường thôi chứ không đi theo con đường đó tới cùng. Chàng đã từng nói với họ: "Những đất đai lấy lại của người giàu có chẳng vì thế mà được chia cho nông dân. Thay vì làm nông nô cho giới quý tộc, họ lại làm nông nô cho quốc gia. Những người hầu lấy đi của người giàu có chẳng vì thế mà được tự do. Thay vì làm nô lệ cho chủ, họ lại trở thành nô lệ của đất nước. Những cải cách này chỉ làm giảm quyền hạn của giới quý tộc và các địa chủ, chứ không để giúp dân nghèo. Có vẻ như người ta không sợ những gì ông Trời đang sắp giáng xuống!".
(Sau tấm màn)
Ngồi xuống long sàng, nhà vua suy nghĩ nói:
- Đó là một tài năng đáng sợ. Trẫm đã chẳng bổ nhiệm người này vào Ngự Sử Đài sao? Hãy để cho người này già dặn thêm tại địa vị mà Trẫm đã xếp đặt cho y.
Từ một vị trí quan sát khác, viên Thái Bảo không ngừng theo dõi các nho sĩ nặng đầu óc Khổng Giáo.
- Thẳng thắn mà nói, anh Đình Nguyên này đã tạo cho mình nhiều kẻ thù. Những người nặng đầu óc Nho Giáo của chúng ta sẽ phản ứng thế nào đây trước lời kêu gọi hướng về dân chúng ấy?
Hắn không cần phải chờ đợi lâu mới biết được điều đó.
(Dưới sân rồng)
Không cần tới những người được tuyển chọn kỹ càng để khích động, lời đối đáp của Nguyễn Trãi đã đủ làm cho những người nặng đầu óc Nho Giáo kia để rơi lớp sơn che giấu những khuôn mặt mà từ đầu đến giờ vẫn trơ như tượng đá.
Một trong những sách lược mà họ vẫn thường dùng là cử ra một vài người thuộc cấp dưới của họ.
Họ nói: nguồn gốc của mọi tệ hại là do sự thiếu tôn trọng cái trật tự đã được thiết lập. Trật tự đó là phải có một vị vua cai trị, thần dân vẫn phải là thần dân, cha vẫn là cha, con vẫn là con. Chính vì quên cái việc tu thân của mình mà người ta làm mất đi khả năng cai trị, đồng thời làm phát sinh ra những rối loạn. Sự khéo léo của Tân Đình Nguyên chỉ là một lối nói không đầu không đuôi diễn tả những ý niệm tối nghĩa vay mượn của Mạnh Tử, Lão Tử và Thiền Tông Phật Giáo, một người trong bọn họ đưa mắt nhìn chàng một cách khiêu khích và vặn lại chàng như vậy. Sự trưởng thành và kinh nghiệm trường đời sẽ giúp chàng sửa lại những sai lầm của mình.
Nghe những lời này, Tướng Trần Mộng Dũ, phát ngôn viên của dòng tộc họ Trần, giận lên, sẵn sàng tóm lấy tên nhân viên lơ mơ kia. Ông lại được Hàn Lâm Học Sĩ Hoàng ở bên cạnh ủng hộ, ông Hàn kêu lên:
- Bàn cãi dài dòng với ông chỉ mất thời giờ thôi! Lịch sử đã chứng tỏ rằng theo Nho Giáo kiểu các ông chẳng bao giờ giữ được hòa bình và làm cho người ta tôn kính bậc quân vương mình cả.
Tiếp theo là một cuộc đấu khẩu gay cấn. Lúc này Thượng Thư bộ Lại phải làm hết sức mình để khiến cho các quan dịu bớt lại. Các quan lúc này chửi rủa thóa mạ nhau, tay chỉ nắm lấy chuôi kiếm của mình. Suýt nữa là có cảnh đầu rơi máu chảy. Những lời nhục mạ tuôn ra loạn xạ:
- Tụi bay là đồ phản nghịch!
- Đúng là một lũ nhà quê!
- Đồ chậm tiến lạc hậu!
- Tội nghiệp cho bọn học sinh trường làng!
- Bọn thi trượt! Một lũ bất tài!
- Bọn nịnh hót đê tiện!
- Già lão cổ hủ quá rồi!
Và những lời trên đây mới chỉ là những lời từ tốn nhất!
Nguyễn Trãi nghiêm nghị nhìn khắp lượt cơn bão táp mà chàng gây ra. Cuối cùng, ông Ngọc, đệ nhất thư ký của Bộ Lễ, là thủ lĩnh của một đám hủ nho, cướp lời và nói luôn:
- Buổi họp này - ông ta nói bằng một giọng vang như sấm - là hình ảnh của đất nước chúng ta: vô trật tự, lộn xộn, bạo động, và náo động vô ích giống như tất cả các quỷ thần họp lại. Khi mà sự vật không còn ở đúng vị trí của nó nữa thì đâm ra hỗn loạn. Quý vị muốn dân đen phải nghe theo sự hướng dẫn của mình sao được, khi mà chính chúng ta không làm gương cho họ? Chủ phải hành động cho ra chủ, tớ cho ra tớ. Khổng Phu Tử có hỏi: "Người dùng tinh thần lịch thiệp và tự do mà cai trị nước thì gặp những khó khăn gì?". Hiện tại người ta đòi hỏi dân chúng một trình độ hiểu biết mà ngay cả các nho sĩ cũng phải khó khăn lắm mới đạt được. Khi bỏ chữ Hán để chọn chữ của dân đen là chúng ta hạ mình xuống với họ thay vì kéo họ lên tới chúng ta. Về hiểm họa bị nước láng giềng phương Bắc xâm lăng, Đình Nguyên đã nhìn thấy rất đúng khi nhấn mạnh tới hòa bình nội bộ: chính vì xao nhãng điều đó do bị ám ảnh bởi mối nguy hiểm bên ngoài mà triều đại nhà Tần bị diệt vong. Nếu một thủ lĩnh khéo léo cai trị, dân chúng sẽ trở thành ngoan ngoãn và các nước khác phải kiêng nể. Chúng ta đã làm những điều phải làm để có được những quan hệ tốt đẹp đối với nước đàn anh ở phương Bắc chưa? Quá khứ đã dạy chúng ta rằng thời nào mà Trung Quốc bị khủng hoảng nội bộ thì họ không nghĩ tới chuyện bành trướng. Chủ trương ngược lại và chuẩn bị đánh trả chẳng phải là phi lý, y như lúc nhà đang cháy mà lại muốn cứu lấy chuồng ngựa sao?
Tức giận đỏ mặt, các tỉnh trưởng những vùng biên giới đứng dậy. Tất cả mọi người đều nói cùng một lúc, chẳng ai nghe ai nữa, và càng lúc càng la lối to hơn.
Bằng lối viết chữ thảo, quan Biên Niên Sử vội vã ghi lại lời tuyên bố của Đệ nhất Thư ký Ngọc trước khi tiếng ồn ào làm cho ông quên hết. Nguyễn Trãi lo lắng nhìn chòng chọc vào cậu chàng, vị Tham Tri bộ Lễ, đang xanh mặt như xác chết.
(Sau bức màn)
Hoàng Đế nhắm mắt lại im lặng lắng nghe. Bàn tay ông mở ra rồi nắm lại trong không khí.
- Họ náo động quá! - Loan phủ phục dưới chân vua thều thào, run lên vì căm giận. - Đối với quân xâm lược miền Bắc, họ chỉ có những lời từ tốn thôi. Trong trường hợp này, làm sao họ huy động được dân chúng chống lại bọn xâm lăng? Sự hiện diện của họ thật là nguy hiểm cho đất nước Đại Việt. Không muốn cho chúng lên đường trở về nơi trấn nhậm của chúng cũng dễ thôi!
Gương mặt Hoàng Đế biểu lộ một nỗi buồn bực mà chỉ vì thể diện ông mới nén lại:
- Ngươi có nghe thấy những lời lăng mạ họ nói về Ta không? ông nói với Loan.
Cách xưng hô thân mật mà Hoàng Đế ít dùng đó khiến cho viên Thái Bảo xúc động run lên.
- Bệ Hạ chỉ nói một tiếng thôi là họ không còn nữa!
Hoàng đế ngẫm nghĩ lại rồi nói lớn:
- Giết một vị quan thì Trẫm sẽ làm cho cả một gia đình, cả một dòng tộc chống lại Trẫm, vì sẽ có mười người, rồi hai mươi người muốn báo thù cho vị quan đó.
- Một tiếng thôi là họ mất chức, là họ không còn nữa
- Và như thế là Trẫm sẽ làm tăng gấp bội số người chống lại Trẫm sao? - Hoàng Đế tiếp tục nói như tự bảo với chính mình.
Trước đôi mắt đầy tức giận của ngài, gương mặt Hoàng Đế Hồng Vũ chồng lên gương mặt Loan. Nhà vua nghĩ: Hồng Vũ dám làm! Và ông ta đã làm được! Nhưng trái với Hoàng Đế nhà Minh, không phải là dân chúng đã đưa mình lên, mà mình lên được là do nhà Trần suy yếu.
- Bệ Hạ nói một tiếng thôi là bọn chúng không còn nữa - Viên Thái Bảo nhấn mạnh.
- Những người này chỉ có đạo đức ở lỗ miệng, toàn là bọn có thể mua chuộc được!
- Xin Bệ Hạ hãy nghe lời hạ thần - viên Thái Bảo thì thào qua hai hàm răng - Một tiếng! Một tiếng thôi!
Hoàng Đế cười một cách dị thường:
- Trẫm sẽ dùng lòng nhân hậu của Trẫm để chặn họng họ lại. Bây giờ không còn là lúc diệt trừ đối thủ nữa, mà là sử dụng họ. Điều gì Trẫm đã nói là làm!
Viên Thái Bảo cúi gằm mặt xuống. Con người sáng suốt quyết định nhanh chóng, nhờ vậy mà lên được nấc thang cao nhất đó, bây giờ đâu rồi? Hoàng Đế đã sai lầm khi từ khước không làm cái điều mà cho tới nay đã hợp thức hóa quyền hành của ông: lòng sợ hãi. Nhưng hắn không dám phản đối những gì Đấng Quân Vương đã nói. Những gì hắn có thể nói với Tể Tướng Lê Quý Ly không hẳn đã có thể nói với Nhà Vua Hồ Quý Ly.
Sau một hiệu lệnh, các thái giám vào hàng ngũ để đi theo nhà vua. Bên ngoài bức màn, quan Thượng Thư Đỗ Tỉnh yêu cầu cử tọa đứng dậy. Các quan Tuyên Cáo trong cũng như ngoài tuyên bố:
- Buổi triều yết bế mạc! Xin mọi người ra về!
Tất cả mọi người đều thụt lùi rời khỏi điện Kính Thiên và trở về nơi ở của mình. Quan Tham Tri bộ Lễ được em ông, con trai ông và cháu ông dìu về. Ông có biết rằng đó là dấu hiệu ông sắp chết chăng?
Số phận mới trớ trêu làm sao. Chính khi nhà vua vừa xác nhận ý định của ông là từ nay ông sẽ không còn dùng sợ hãi để cai trị nữa thì một trong những vị đại thần của ông đã phải chết vì sợ hãi. Nhưng cái chết của ông không làm thỏa mãn tên Thái Bảo, vì ông Tham Tri này không thuộc nhóm các nhà hủ nho.
Mấy chục ngày lo lắng triền miên, thêm vào đó là những cảm xúc mạnh mẽ về cái buổi họp kéo dài quá lâu ấy đã khiến cho tâm hồn quan Tham Tri Bộ Lễ bất an và ông đã từ trần. Bộ râu mép co quắp của ông quả đúng là một dấu hiệu mệnh yểu. Ông hưởng được 41 cái xuân xanh.
Vì thế, năm Canh Thìn (1400) là năm rất vẻ vang cho gia tộc Hoàng thân Trần Nguyên Đán, được kết thúc bằng một đám tang đúng như luật Phản Phục của Lão Tử, nghĩa là "cái Họa ẩn dưới cái Phúc".
Trong nước Đại Việt có những nỗi đe dọa phảng phất đó đây, có người tin có người không. Có những lời sấm đáng buồn do chiêm tinh gia của Hoàng Cung loan ra qua việc bói cỏ thi và mu rùa cũng như mọi lời tiên báo khác…
Chỉ tương lai mới có câu trả lời.
—★—Nhiều tháng nữa qua đi sau buổi chầu long trọng ấy.
Nho sĩ Nguyễn Phi Khanh từ đó kiêm nhiệm hai chức, vừa là thành viên của viện Hàn Lâm, vừa là Tế Tửu trường Quốc Tử Giám. Quan Ngự Sử Nguyễn Trãi đã thành thân với Quận Chúa Trần Thị Thanh và sinh được hai người con trai.
Bốn năm nữa trôi qua…
Những của đút lót vẫn tiếp tục được dùng để điều chỉnh những công việc công, và các chức quan vẫn tiếp tục được mua đi bán lại. Những kẻ nịnh nọt được thưởng, còn những người liêm khiết thì vì nói sự thật mà chuốc lấy cái chết. Trong triều đình, các quan từ trên xuống dưới đều điềm nhiên trước tình trạng đó, nhưng cũng đều theo chính những vết xe đổ đó.
Nước Trung Hoa đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng nội bộ và bước vào triều đại Vĩnh Lạc89 với những cuộc thám hiểm hàng hải rất lớn. Và Trung Hoa sai những điệp viên bí mật đi khắp nước Đại Việt để dò la tin tức về tình hình trong nước cũng như những tuyến đường chiến lược của nước Đại Việt. Nhà Minh đã đòi buộc Đại Việt phải nhường lại quận Lộc Chân cho họ, Hồ Quý Ly đành phải chịu mất đất Cô Lâu.
Lúc nào trên đất nước Đại Việt cũng có thể nổ ra một cuộc nổi dậy, hoặc từ dân chúng hiện đang bị khốn khổ hơn bao giờ hết, hoặc từ những bậc đại thần, đặc biệt là phe hủ nho vốn rất ghét nhà Hồ, đã đi đến chỗ mong cho ngoại bang tràn vào để thiết lập lại triều đại nhà Trần cũ, để nhờ đó tái lập lại những đặc lợi đặc quyền riêng của họ…
Theo truyền thống của triều đại nhà Trần cũ, vào tháng 12 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên làm Thái Thượng Hoàng, và nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương lúc ông còn sống. Nhà Minh đã công nhận lễ Tấn Phong của Hồ Hán Thương.
Nhưng cuối năm Ất Dậu (1405), do tình hình càng lúc càng nghiêm trọng, có người tự nhận là dòng dõi họ Trần, tên là Trần Thiêm Bình, đã tới triều đình Nam Kinh để được xin trợ giúp.
[←81]
Dịp Trung Thu hàng năm cũng họp tất cả mọi quan chức trong nước.
[←82]
Một trong ba chức cao nhất trong hệ thống tổ chức các quan trong triều đình Thái Sư, Thái Bảo, Thái úy.
[←83]
Nơi đặt ngai vàng
[←84]
Từ 3 đến 5 giờ sáng.
[←85]
Roi tẩy uế
[←86]
Sông bình an phải nghĩ tới lúc bị nguy hiểm.
[←87]
Vương: các Hoàng thân cùng máu mủ ruột thịt.
[←88]
Tại các vùng cao nguyên, đa số dân chúng bận đồ xanh, còn tại vùng trung châu, người Kinh hay người Việt thường bận đồ nhuộm màu củ nâu, tức màu nâu, do đó có sự đối lập giữa "xứ xanh" và "xứ nâu"
[←89]
Hoàng đế thứ ba của nhà Minh, từ 1403 đến 1424