Tập 5 Chương 1
Nam Quốc sơn hà Nam đế Cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
LÝ THƯỜNG KIỆT (1019-1103)
Biên niên sử của Triều đình Thăng Long đã ghi lại những dòng sau đây:
Tháng 4, mùa Xuân năm Bính Tuất. Nhằm năm thứ 5 đời Hồ Hán Thương (1406)
Vua sai Trần Mộng Dũ đi đánh dẹp tên soán ngôi Trần Thiêm Bình. Quân Ngô bị tàn sát ở Chi Lăng và Trần Thiêm Bình bị bắt làm tù binh.
Trước đó, có một người phiêu lưu tên Trần Thiêm Bình, tự nhận là dòng dõi nhà Trần, đã đến triều đình Nam Kinh cầu viện để khôi phục ngai vàng của cha ông. Hoàng Đế Minh Thành Tổ quyết định chộp cơ hội này để xâm lăng nước Đại Việt và đã phái 5.000 quân sĩ theo phò tá người tự xưng là hậu duệ Nhà Trần.
Trần Mộng Dũ lãnh đạo quân chinh phạt đã dụ đạo quân kia lọt vào các hẻm núi của ải Chi Lăng rồi tiêu diệt chúng ở đó và bắt được Trần Thiêm Bình.
Các hẻm núi ở Chi Lăng trên vùng rừng núi Lạng Sơn rất thuận tiện cho việc mai phục và đột kích thần tốc mà chính quân Ngô quen gọi là "những cuống họng của người Giao Chỉ".
Nhưng chính đó là nơi quân của Trần Mộng Dũ đã phải dụ đạo binh phò tá "tên vua mạo xưng" lọt vào rồi bất thần để ập ra giáng cho chúng một đòn sấm sét, trong tiếng kèn gào thét và tiếng trống dồn dập cắt đạo binh ấy ra thành từng mảnh và đập tan dày xéo nghiền nát chúng, đến nỗi số còn lại chỉ còn biết cuống cuồng tháo chạy, bỏ lại ông "vua nhà Trần" mà chúng có nhiệm vụ tái lập.
Người ta bắt Trần Thiêm Bình đeo một cái gông nặng và đẩy ông ta cùng với 200 tù binh Trung Hoa vào trong một cái cũi bằng tre bên hông có treo một tấm bảng mang chữ "kẻ tạo phản" viết bằng chữ Nôm để mọi người đều biết. Và người ta đã dẫn độ đoàn quân thất trận ấy trước mắt dân chúng suốt 170 dặm đường để đến Đông Đô, thủ đô phía đông.
Khi đến nơi, Trần Thiêm Bình liền bị tống vào ngục tối và được canh giữ cẩn mật trong khi viên tướng thắng trận lập tức được triệu vào chầu Thiên Tử, được Vua khen và ban thưởng.
Ngay hôm sau, vị Công tố viên tại Tam Tòa mở ngay cuộc xét xử.
Người ta tra khảo tội nhân. Sau năm sáu trận đòn khảo cung tóe máu, tội nhân đã khai tất cả. Tên thật của hắn ta là Nguyễn Khanh90, 32 tuổi, thuộc một gia đình nông dân khá giả, gốc gác ở một tỉnh trù phú tên là Sơn Nam. Một đêm nọ, hắn ta nằm mộng thấy chính vua Trần Nghệ Tông hiện về và phán với hắn như sau:
"Hiện nay nhà Hồ đang ngồi trên ngai vàng. Triều đình suy đồi hơn bao giờ hết. Xứ sở bị bòn rút và muôn dân ca thán khắp nơi. Tình trạng ấy là một vết thương làm lòng ta đau xót. Nên ta ra lệnh cho ngươi phải lập lại trật tự. Vậy hãy hành động như thể ngươi chính là con ruột của ta và để bảo vệ cho quyền kế vị của chính ngươi".
Giấc mộng quá chính xác, mệnh lệnh quá rõ ràng nên Thiêm Bình tin rằng ông ta lãnh một thiên mệnh và rồi trong đám đông những người đang nguyền rủa triều đình, hắn ta dễ dàng tìm được nhiều người đi theo. Sau đó những câu sấm ngụ ý nói về vai trò Thiên tử nước Nam trong tương lai của hắn ta được loan truyền khắp tỉnh rất nhanh, và chúng được củng cố thêm bởi trò phù phép. Quần chúng đang è cổ dưới các hoại sưu cao thuế nặng đã liên kết lại. Thay vì từ từ chiếm các lộ trấn, hắn lại muốn đánh nhanh và mạnh. Dựa trên nguyên tắc rắn phải có đầu, hắn ta liền cầu viện và liền nhận được sự ủng hộ của triều đình Nam Kinh. Phần còn lại, Đức Vua và các quan lớn trong triều đã biết cả rồi.
Hắn ta vừa nói xong, bản án liền được công bố. Trong danh mục "Mười trọng tội" thì tội chống lại đất nước và Nhà vua và tội nặng nhất.
Bản án dành cho kẻ phản nghịch, mỉa mai thay lại được công bố bằng tiếng Tàu.
"Qua" (Lăng Trì).
Quân canh gác lập tức lôi tội nhân đang chết ngất vì nghe lời phán quyết về tận ngục tối.
Mặc dù Thiêm Bình đã thú nhận như thế, nhưng vẫn có lời đồn đại rằng trong mưu đồ tội lỗi của ông có sự đồng lõa của nhiều vị quan khác. Có chứng cứ gì không? Không ai có thể khẳng định. Nhưng mọi người đều hiểu rằng đó là cái cớ để nhiều thủ cấp sẽ rơi. Một số quan lại cảnh giác đến độ tìm đủ mọi lý lẽ để rời xa Đông Đô ngay trong thời điểm ấy. Bầu không khí tại triều nội trở nên ngột ngạt. Những nụ cười ẩn chứa gươm đao, những câu nói ám chỉ nham hiểm. Ở mọi ngóc ngách, nhan nhản những tên do thám dưới bóng dáng đầy đe dọa và hằn thù của Thái Bảo Loan.
Thật vậy, ông này trù liệu rằng tin đồn được dàn dựng một cách khéo léo ấy sẽ làm cho Thái Thượng Hoàng Hồ Quý Ly có một phản ứng quyết hệt mà 6 năm trước đây ông ta đã không có, khi mà các đối thủ công khai lên tiếng trước mặt ông nhưng ông không làm gì để đối phó với họ.
Ông ta khẩn nài:
- Xin Bệ hạ tha lỗi cho kẻ hạ thần. Tình thế bắt buộc phải hành động. Xin Thánh thượng nhớ lại. Ngài đã tốt với họ biết bao, thế nhưng họ đã cả gan chống lại.
Nhà vua đáp:
- Chỉ là một cuộc nổi loạn của đám nô lệ. Chúng sẽ không dám nữa đâu.
Viên Thái Bảo đáp lại:
- Chúng đã dám rồi! Thời gian thật là cấp bách, cổ nhân đã dạy: "Trong thời buổi yên ổn, hoàng đế như nước. Nước làm cho mọi vật tăng trưởng. Trong thời kỳ nguy hiểm đầy thối rữa với những ký sinh trùng khắp nơi, tưới nước chỉ làm trầm trọng thêm sự hư hoại. Cần phải dùng lửa để thanh tẩy".
Ông ta nuối tiếc thầm nghĩ: Xưa kia Lê Quý Ly quyết đoán bạo liệt như lửa và ông ta đã thắng. Hôm nay, Hồ Quý Ly dĩ hòa như một giọt nước. Nhà vua không hề muốn dìm triều đình vào trong bể máu. Trước mắt, để tránh một cuộc tấn công khác của quân Tàu có thể xảy ra, ông ta gửi đến triều đình Nam Kinh một phái bộ có nhiệm vụ thông báo cho nhà Minh biết về gốc tích thật của kẻ phiêu lưu tên Nguyễn Khanh, đã mạo xưng là Trần Thiêm Bình vì muốn chiếm đoạt ngai vàng. Còn việc phái bộ Đại Việt tấu trình với Vĩnh Lạc Hoàng đế Phương Bắc, điều mà Ngài đã rõ, việc ấy không quan trọng. Miễn là phái bộ tỏ ra không nghi ngờ gì về lòng thành của Ngài là được. Điều cốt yếu là dùng lá bài ngoại giao ấy để tranh thủ thời gian cần thiết cho việc chuẩn bị chiến tranh.
Hồ Quý Ly cho gọi các Quan chức thuộc Tòa Chưởng ấn để ghi các quyết định của Nhà vua.
Ông ra lệnh đóng cọc ở các cửa sông và những nơi hiểm yếu, xúc tiến việc đóng các thuyền lớn trên có giàn đi lại để chuyên chở binh lính, trưng tập tất cả các thợ giỏi rèn đúc vũ khí, tăng cường đồn trú ở các điểm giao thông chính, và cho phép các công hầu được quyền mộ những người lưu vong làm lính và sau hết dựng lên một chiến lũy dài hơn 700 dặm ở hữu ngạn sông Hồng, rồi sai dân làm nhà sẵn, phòng khi giặc đến thì di tản sang. Sau khi đã gấp rút chuẩn bị mọi sự, vị Thái Thượng hoàng chấp thuận cho tên Loan vốn đã đồng tình với ông trong mọi công việc với tư cách là Quản thủ Quốc Khố, được hưởng một sự đền bù nho nhỏ, một vật hầu như vô giá trị, đó là: phải trừng trị tên phản quốc Thiêm Bình sao cho về sau mọi người còn nhớ đến như một kỷ niệm khủng khiếp.
Cuối cùng nhà vua phán với Loan rằng:
- Vậy ông được toàn quyền xử trí với tên tội phạm.
Được nhà Vua ban phép như thế. Loan với bộ ngực như của một phụ nữ mừng lắm, lui ra và trên khuôn mặt tròn rạng rỡ một nụ cười.
—★—Đối với kẻ đang nằm trong ngục tối chờ giờ chết, thời gian dường như dài vô tận. Một khắc trôi qua tưởng như một năm và một tuần qua đi như là một thế kỷ.
Từ khi tòa tuyên án Thiêm Bình phải chịu hình phạt "Lăng trì" tức phải nhận một cái chết từ từ, người ta đã thay gông cũ bằng một cái gông mới nặng hơn, tương xứng với mức hình phạt: đó là một cái gông nặng bằng gỗ lim và lên nước đen bóng chứng tỏ đã trải qua biết bao nhiêu đời. Mồ hôi của nhiều thế hệ tử tội đã làm xỉn màu một số chỗ, trong khi một số chỗ khác thì bóng loáng như đánh dầu. Dưới sức nặng của loại gông này, khó mà đứng dậy được. Nếu nằm ngửa ra thì hai đầu nhọn của nó lại đâm vào hông, còn nếu nằm nghiêng thì cạnh phải hoặc cạnh trái của nó lại nghiến vào cổ. Những vết thương ứa máu do những trận đòn liên tiếp cứ tiếp tục lở loét do sự cọ xát vào gỗ và càng thêm nhức nhối vì rệp cắn đã khiến tội nhân hầu như phải nằm im bất động. Ngày cũng như đêm, chân của tội nhân bị cùm lại.
Viên cai ngục và lính gác hành hạ ông đủ điều vì khi bị bắt đã bị lột sạch mọi thứ vàng vòng trang sức có thể bán được nên Thiêm Bình không có lấy một đồng để đút lót cho chúng. Thiêm Bình rét run vì sốt trong chiếc Hoàng bào giờ đã đen màu đất, đau đớn vì côn trùng cắn chích, mất hết khái niệm về thời gian trong đáy của cái hốc nhỏ hôi hám này và chấp nhận định mạng bi thảm đã biến mình thành một tội nhân ở đời này rồi ra là một bóng ma ở kiếp sau, nên khi lính gác đến mở cửa gọi ông vào một buổi sáng, ông tưởng chừng như được giải thoát. Họ tháo gông, mở cùm chân cho ông và bảo:
- Hãy đi theo chúng tôi đến một nơi thoải mái hơn để được nghỉ ngơi và ăn uống.
Thiêm Bình không tin những điều tai nghe mắt thấy vì còn nghĩ rằng người ta dẫn mình đến nơi gia hình.
Họ dắt ông đến một căn phòng ở cuối một hành lang mà ông có cảm tưởng như đó là một cung điện của bậc vương hầu, so với ngục tối ông vừa trải qua. Ở đó có một tấm phản và một cái gối bằng gỗ đỏ, một ống nhổ và các thứ đồ dùng để tắm rửa. Ông vừa ngả lưng nằm xuống thì lính gác của cai ngục đã mang thức ăn đến: một tô cháo lòng lớn, một miếng thịt heo chiên gừng, cá kho mặn và một nồi cơm trắng phau thơm phức!
Bàng hoàng khi thấy những kẻ vừa mới hành hạ mình hôm qua thì hôm nay lại hăng hái khúm núm phục dịch mình, Thiêm Bình tự hỏi: "Thế này là thế nào?". Vốn từng nghe quá nhiều lời đồn đại về thứ thuốc độc khủng khiếp lấy từ rau cọp, nên ông ta không dám nếm thử gì cả. Bởi vì rõ ràng là ông ta đã bị kết án tử hình một cách đau đớn nhất!
Những tên phục vụ, là người vùng cao nguyên, da sậm, kệch cỡm, mặt mũi thô kệch, cười phá lên:
- Ông sợ gì vậy?
Vừa nói, họ vừa bốc lây vài miếng và nuốt chửng.
Khi người tù đã ăn no, họ mang đến cho anh ta một bình nước, một cái áo sạch sẽ và một hộp cao để xức các vết thương. Rồi họ quay đi và khuyên ông hãy nghỉ ngơi cho lại sức. Đến chiều họ mang đến cho ông một bữa ăn cũng ngon như hồi sáng, ít phút sau họ còn mang đến một bình trà và một cái điếu cày
Người tù run sợ tự hỏi: "Tại sao bỗng nhiên lại có chế độ ân huệ này đây?".
Được tháo gông cùm, được bồi dưỡng no nê, ông lăn ra ngủ một giấc thật ngon lành. Sáng sớm hôm sau, bọn lính lại xuất hiện, trên tay không có gì cả. Thiêm Bình cảm thấy lạnh buốt tận ruột gan và tự nhủ: "Lần này là đến giờ rồi đây".
Nhưng họ không làm gì khác hơn là dẫn theo một người bé choắt, lanh chanh như một con lươn, và sau khi tội nhân đã súc miệng, hắn cạo râu, búi tóc cho tội nhân. Thiêm Bình nghĩ: "Họ muốn chải chuốt mình coi cho được để đem đi hành hình đây!" ông thợ cạo thu dọn dụng cụ, cúi chào rồi bước ra.
Sau đó không còn ai đến nữa, trừ những người phục vụ mang đến một tô miến to tướng và một đĩa thịt heo kho tàu ngon lành. Thiêm Bình thở phào, ông ăn xong, họ mang tô đĩa bẩn ra đi, mời ông ta nghỉ ngơi và để ông lại một mình.
Người tù âu lo tự hỏi: "Họ đã kết án tử hình ta và hiển nhiên ta phải chết. Thế thì còn bày ra cái trò này để làm gì?".
Đến giờ Ngọ, lính lại đến mang bữa ăn trưa cho ông. Lần này, không còn cầm lòng được nữa, ông nói:
- Họ đã kết tội ta là kẻ phản nghịch và đã tuyên án ta phải chịu một cái chết kéo dài, thế thì tại sao các ông lại đãi ta những món ngon và lại quá quan tâm đến sức khỏe của một tội nhân như vậy? Hãy trả lời cho ta rõ: Aisai các ngươi?
Người lính già nhất trả lời:
- Chúng tôi đã được lệnh và chúng tôi cứ thế mà thi hành. Lệnh ấy từ viên cai ngục. Còn ai ra lệnh cho viên cai ngục thì chúng tôi không biết. Theo lệnh thì chúng tôi phải phục vụ ông cho đến khi nào sức khỏe ông bình phục và các vết thương lành hẳn. Còn điều gì khác nữa thì ông có hỏi chúng tôi cũng vô ích thôi!
Những người giúp việc hàng ngày tiếp tục mang bữa ăn đến cho ông, nước nôi cho ông tắm giặt, cả trà và thuốc hút. Họ xem xét sẹo trên các vết thương của ông với vẻ bằng lòng. Và một tuần đã trôi qua.
Vì không còn một dấu hiệu gì cho thấy là người ta muốn giết mình, Thiêm Bình dần dần bỏ đi các ý nghĩ rằng người ta vỗ béo mình là để chọc huyết mình cho tuyệt hơn. Và càng lúc ông càng tin rằng quân Tàu cứu viện đã đến bên cổng thành. Chính vì sợ bị báo thù mà vua Hồ Quý Ly đã ra lệnh đình chỉ việc hành hình ông. Bởi vì suy cho cùng, dưới mắt của triều đại Nam Kinh, ông chẳng phải là hậu duệ chính thức của nhà Trần sao? Một tuần nữa trôi qua. Đến cuối tuần những người giúp việc thấy rằng sự chăm sóc tận tình của họ đã có kết quả. Cái thân thể gầy gò sắp chết của người tù trước kia giờ đây đã lấy lại vẻ cường tráng và phong độ, da mịn và bóng, trắng nhạt như màu ngà, đôi mắt xếch dài của ông ta lấp lánh. Họ báo cáo cho viên cai ngục, và ông này sau khi kiểm chứng lại, đã thảo một bản báo cáo cho viên Giám ngục, ông này gửi nó vào hoàng cung. Liền sau đó có lệnh do vị Thái Bảo ký gửi đến ngục thất như sau: "Chuẩn bị sẵn sàng. Ngày mai hành quyết".
Khi đoàn dẫn độ người tử đội dẫn đầu bởi tiếng chiêng bi thảm ra khỏi Hoàng thành qua cửa Tây, một đám đông đang đứng chờ sẵn, họ tuôn đến từ mọi ngõ ngách và làng mạc lân cận Đông Đô để xem hành hình kẻ phản nghịch đã rước quân Ngô vào.
Thiêm Bình đi trước, cổ mang gông nặng, hai bên có hai đao phủ cầm đoản kiếm đi kèm và theo sau là một đội Cấm vệ quân hùng hậu, gươm giáo sáng ngời. Kế đó là các thớt voi của các vị pháp quan. Tiếng chiêng vang lên từng hồi đều đặn.
- Tránh ra! Tránh ra!
Những người lính dùng cán dao quơ qua quơ lại để mở đường. Khi đến giữa sân chợ Cửa Đông, đám rước dừng lại dàn ra. Đao phủ tháo gông cho tội nhân và xô hắn quỳ xuống để nghe đọc bản án.
Một vị pháp quan, đội mũ lụa xanh có quai sắt bọc dưới cằm, cầm ống loa mạ vàng tuyên đọc bản án như sau:
"Xét vì tên Nguyễn Khanh, người tỉnh Sơn Nam, tự xưng là Trần Thiêm Bình, đã phạm tội phản loạn, xét vì hắn là người chủ xướng một mưu đồ phản nghịch nhằm chống lại chính đất nước của mình và phục vụ bọn phản loạn, xét vì hắn đã phạm hai trọng tội trong số "Mười tội đại ác", tên Nguyễn Khanh vì thế bị kết án phải chịu hình phạt "Lăng trì" và "Bá đao".
Vị pháp quan hét to qua ống loa:
- Thi hành ngay lập tức!
Đao phủ túm lấy tử tội, lột quần áo ra và xô ngã xuống đất. Thiêm Bình cất tiếng thầm thì kêu lên trời ở trên đầu, nhưng trời cao quá! Tất cả đã sụp đổ, nhưng đầu óc ngập tràn những mộng tưởng ngông cuồng và thân xác mềm nhũn sau thời gian được nghỉ ngơi và bồi bổ của hắn ta không thể chấp nhận được sự thật phũ phàng ấy.
Hắn hét lên với đám đông:
- Ta là Hoàng tử Trần Thiêm Bình. Hỡi tên Hồ Quý Ly, triều đại của mi và con trai mi sẽ diệt vong. Trời cao đất dày nguyền rủa mi!
Nghe tiếng thét ấy dường như phát ra từ trong lòng đất, đám đông yên lặng như tờ và ớn nổi da gà. Viên pháp quan ra hiệu và đao phủ thủ thọc tay vào miệng tử tội. Rồi hắn rút kìm ra và quăng xuống đất một miếng thịt đỏ lòm. Thế là từ đó yên lặng.
Tay đao phủ cúi mình trên một thân thể vặn vẹo như đang nằm trên một chiếc giường đầy than hồng, dùng kìm nguội rồi kìm nung đỏ rứt ra từng miếng thịt của tội nhân. Không khí ban mai đầy tiếng rên rỉ và khét lẹt. Mùi thịt nướng át hết mọi mùi khác. Tiếp đến người ta lóc thịt chân rồi dùng tre đập liên hồi vào các ống xương đã lóc thịt ấy. Người ta không còn có thể đếm được những cái vùng vẫy của tội nhân.
Khổ hình này xong, đao phủ lôi tội nhân đến một cây cọc dựng sẵn cách đó không xa. Họ trói tội nhân lên cọc, căng hai tay ra bằng một thanh sắt để có thể dễ dàng chạm đến mọi nơi trên thân để hắn ta. Họ đứng hai bên tử tội, tay cầm đoản đao lưỡi bén ngót91, chờ lệnh.
Khi hiệu lệnh được hô lên, tức thì có một hồi chiêng vang rền.
Lúc ấy, một tay đao phủ vòng ra phía sau tội nhân rạch một nhát chính xác từ tai này qua tai kia để bóc da sọ lột lên đến đỉnh đầu và lược xuống trước mặt tử tội. Thế là trán, rồi đến đôi mắt kinh hoàng và cuối cùng là cái miệng mấp máy từ từ biến mất dưới mảng da đầu đỏ loét ấy.
Gương mặt của tên phản loạn đã chống lại Đức Vua và Tổ quốc phải biến mất đi như vậy đó!
Những người chứng kiến cảm thấy xương cốt lạnh toát trước cảnh tượng cái sọ màu xám bị lột da và một thân người không còn mặt mũi nữa.
Tiếng chiêng lại nổi lên.
Mỗi đao phủ đứng một bên đưa tay tóm lấy đầu vú của tử tội và chỉ một nhát dao họ cắt phăng quăng xuống đất một miếng thịt còn giần giật. Đến hồi chiêng kế tiếp họ lóc thịt cánh tay. Sau đó đến thịt hông, thịt mông, rồi bắp vế và cứ thế các miếng thịt chẳng mấy chốc vương vãi đầy mặt đất. Khi không còn miếng thịt nào để xẻo, họ cắt bộ phận sinh dục và kết thúc công việc bằng những cái móc sắt. Máu loang đầy người họ. Mồ hôi chảy ròng ròng trên lưng họ. Họ mệt muốn đứt hơi.
Cuối cùng vị pháp quan ra hiệu ngưng. Tiếng chiêng tắt lịm. Đám đông giãn ra. Công việc đã hoàn tất.
Tuy nhiên cái vệt đẫm máu ấy, cái đống bầy nhầy không ra hình thù gì cả vốn từng là một con người ấy, nó vẫn còn sống. Các pháp quan ngồi trên lưng voi phe phẩy quạt, và đàn voi quay đầu lại cùng với đoàn tùy tùng trở về hoàng cung.
Xung quanh những người lính còn ở lại để canh gác gần cọc treo tử lội, đám đông còn nán lại, bàn tán cười nhạo. Những người ở bên ngoài chen lấn để vào xem cái còn lại của một thân thể bị tùng xẻo vẫn còn sống nhăn.
Mặt trời đã lên cao, chiếu những tia nắng xuống trên tử tội, nướng chín những vết thương, bu kín từng đàn ruồi đen. Đoàn người đi xem cứ nối tiếp như một cuộc diễu hành không dứt mãi tới chiều, tử tội vẫn còn thở thoi thóp. Một ngày nữa lại trôi qua, và một đêm nữa lại đến. Người ấy vẫn còn thoi thóp.
Đến ngày thứ ba, khi chỉ còn là một bộ hài cốt xám đen có những vân vàng ở những chỗ mà đao phủ xẻo vào trong mỡ, tử tội giật nảy người lên một lần cuối và tắt thở.
Hồn tử tội lượn vòng trên đầu những người đến xem giống như một con chim khổng lồ vô hình, trước khi bay đến đậu trên cây đa um tùm ở sân chợ để rồi sau đó bay đi báo oán. Một sự báo oán ngàn lần khủng khiếp hơn so với sự trả thù của người còn sống, như mọi người đều biết.
Đao phủ cất thủ cấp của kẻ tin rằng mình là Thiên tử và quẳng xuống sông theo lệnh của vị pháp quan để nó trôi mất đi và để cho tử tội phải làm "Ma không đầu" mãi mãi.
[←90]
Trong sử là Nguyễn Khang
[←91]
Đoản đao: đao ngắn, một loại vũ khí thời xưa. Bén ngót: sắc ngọt.