← Quay lại trang sách

Chương 2

Vào tháng 5 năm Bính Tuất (1406) nước Đại Việt sống những ngày thanh bình cuối cùng.

Mọi người đều cảm thấy điều đó. Làm sao có thể quên đi cái nguy hiểm hằng được nhắc nhở bởi sự chuyển dịch không ngừng của các toán quân, bởi các công việc phòng thủ, đào hào, đắp lũy cùng những ụ trú ẩn nổi lên rải rác khắp nơi.

Ở thôn quê, nông dân tự hỏi không biết họ còn kịp gặt lúa vụ tháng 5 trước khi nhập ngũ hay không. Còn vụ mùa tháng mười, là vụ chính vì vào mùa mưa thì họ không dám mơ đến. Những người thu hoạch được nhiều hơn thì lo chất lương thực vào thật sâu trong những nơi chôn giấu.

Tại Đông Đô cũng như ở Tây Đô, những người giàu chôn giấu vàng bạc châu báu trong hang động. Người nghèo thì chỉ cần cứu lấy mạng sống và họ đã giấu thuyền bè bên bờ sông, trong những bụi lau sậy. Người ta đóng chặt thêm những cọc bằng gỗ lim trong các hào xung quanh hoàng thành. Người ta tăng cường canh gác các cửa ngõ vào thành và không ai đi qua mà không bị lục soát. Các huấn luyện viên quân sự của các toán quân cảnh vệ suốt ngày hò hét ra lệnh trên các sân đã được biến thành bãi tập vì nhu cầu đòi hỏi. Các nguyên soái và tướng lĩnh, đứng đầu là Trần Mộng Dũ, khi không phải họp bàn trong các buổi họp tham mưu, hay không bận đi thanh tra thì lại miệt mài luyện tập 18 món binh khí. Các quan sau buổi chầu ban sáng trở về đều có vẻ mặt đằng đằng sát khí. Cả đến 30 tiếng rao hàng nổi tiếng của Đông Đô cũng mất đi âm sắc.

Nguyễn Phi Khanh, Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám và là thành viên của Hàn Lâm Viện tưởng như quay lại 25 năm về trước, lúc mà nước Đại Việt đứng trước giây phút nguy nan nhất của sự đe dọa từ phía nước Chiêm Thành.

Lúc đó Thị Thái, người vợ yêu dấu của ông đang ở bên ông và Hoàng thân Trần Nguyên Đán mỗi ngày đều đến thăm cậu bé Trãi vừa mấy tháng tuổi. Giờ đây, chính ông ta, nay đã là ông nội, khi chiều đến, tới gặp Nguyễn Trãi và vợ là Thị Thanh cùng hai con của họ để nói về chiến tranh như Hoàng thân thuở trước.

Từ lâu, một số người đã linh cảm rằng chiến tranh sẽ đến. Chiến tranh? Nó lẩn lút ở biên giới, chợt ẩn, chợt hiện trong trò chơi bí mật của các sứ thần từ Trung Quốc sang, hay từ nước Đại Việt đi. Chẳng bao lâu nó sẽ đến, không ai còn nghi ngờ nữa kể cả nhà nho ở Đông Đô.

Đâu là lối thoát?

Từ khi hành quyết người tự xưng là Trần Thiêm Bình, nhiều viên quan bảo thủ hoặc còn có lòng trung thành với nhà Trần càng mong mỏi ngoại bang vào để phục hồi lại các đặc quyền của họ và dựng lại triều đại cũ. Vị Tư Nghiệp Quốc Tử Giám không phải không biết điều đó. Tuy nhiên, trong niềm tin tưởng vào triều đại nhà Hồ, ông xác tín rằng mỗi người phải chu toàn một cách trung thành nhiệm vụ của mình. Trong giờ phút hiểm nguy sẽ hỗ trợ và giữ vững được ngôi báu. Nếu không phải tất cả đều hành động với lòng danh dự và tự hào dân tộc thì ít ra họ cũng phải bảo vệ mồ mả tổ tiên, gia đình, quyền lợi và đất đai của họ.

Nhưng Nguyễn Trãi, con trai ông, không đồng quan điểm với ông. Con ông nghĩ rằng chiến thắng chỉ có thể đạt được nhờ vào sự đoàn kết của toàn dân với giai cấp quý tộc quy tụ sau lưng vương triều. Bởi lẽ, một triệu quân bị xâu xé bởi một triệu quan điểm khác nhau thì lấy đâu ra sức mạnh? Các vị quan chỉ xem Hoàng đế như một kẻ soán ngôi. Liệu họ có chịu cổ súy dân chúng hăng say chiến đấu không? Dân chúng được nuôi dưỡng bởi những ảo tưởng và bị đè nặng bởi những luật lệ ngày càng khắt khe hơn thì liệu họ có chịu theo không? Họ có còn nhìn nhận triều đại Nhà Hồ là thuận lòng Trời không?

Đương kim Hoàng đế Hồ Hán Thương đã chọn ngày lành tháng tốt để cử hành một cuộc lễ rất long trọng và có tính cách phô trương thanh thế chưa từng thấy gọi là lễ "Trừ tà và cầu an".

Việc tế lễ của Nhà Vua - diễn ra ít lâu sau cuộc hành quyết Trần Thiêm Bình - do đó mang một ý nghĩa rất quan trọng. Ai cũng biết hồn ma của những tên phản bội và tạo phản bị xử tử hình, báo thù bằng cách gây ra chiến tranh và dịch bệnh.

Khi nhìn đám rước rầm rộ đi qua, người dân Đông Đô cũng nghĩ rằng Đương kim Hoàng đế đang ngự trong cái kiệu vàng được che dưới nhiều tán, lọng do tám người lính khiêng và có tất cả bá quan văn võ trong triều theo sau, tất cả là điều cần thiết, không thể có cái gì kém sút hơn phải làm để xóa tan lời nguyền rủa của tên tử tội Trần Thiêm Bình thốt ra trước khi bị rút lưỡi.

Đúng như Thái Thượng Hoàng Hồ Quý Ly và cố vấn của ông ta và Loan đã trù tính: đoàn chiến thuyền nối đuôi nhau dọc theo bờ sông dài mút mắt, giống như những cánh cò bay, tám vạn lính bộ thiện nghệ trong việc sử dụng giáo dài, trường thương, khiên, kích, dưới sự chỉ huy của những viên Tướng mặc giáp vàng, những vị Tá mặc giáp bạc, và những tên úy mặc giáp đồng dẫn đầu đang cờ dong trống mở rầm rập tiến bước, rồi đến 5.000 kỵ binh trang bị cung tên, và cuối cùng là 500 thớt voi trận với 500 quản tượng ngồi ngất ngưởng trên những cái bành sơn phết lộng lẫy. Tất cả tiến bước rập ràng theo trật tự của một đạo quân khổng lồ, để biểu dương sức mạnh của vương quốc và nâng cao nhuệ khí.

Dân chúng chạy dọc theo bến Đông Bộ Đầu tròn mắt nhìn cuộc diễu binh khổng lồ ấy với vẻ sững sờ thán phục.

Phía nhà vua, quang cảnh cũng không kém phần uy nghi sang trọng. Mười con ngựa và sáu thớt voi danh dự của vua là lộng lẫy hơn cả, các hoàng tử và vương tôn ăn mặc rất sang trọng bao quanh Đức vua, rồi đến đông đảo bá quan gồm đủ công khanh văn võ trong triều đình quần áo đẹp đẽ, đầu đội mũ tùy theo thứ bậc, ngực đeo thẻ bài bằng ngà hoặc bằng ngọc bích. Họ lại được bảo vệ bởi một toán cấm vệ quân gồm những chàng trai lực lưỡng. Gần đó là những đội chiêng, trống, kèn cử nhạc liên hồi.

Những khẩu đại bác92 do Hoàng Tử Hồ Nguyên Trừng vừa sáng chế được đặt bên cạnh xưởng đóng tàu.

Khi đã xếp đặt mọi sự đâu vào đấy thì ba tiếng trống rời cách nhau khá lâu rền rĩ vang lên và 3 tiếng chiêng cùng hòa nhịp đáp lại.

Nhà vua dâng lễ vật cúng cho vong hồn các tử tội và ma quỷ. Sau đó, Ngài trình bày những lý do khiến họ đáng chịu phạt và bị trục xuất khỏi xứ sở.

Từ xưởng đóng tàu ở phía trên, 3 tiếng nổ lớn rền vang và tiếp theo là hàng trăm khẩu súng xếp thành hàng đồng loạt nổ liên hồi. Tưởng chừng như một cơn bão bất ngờ đổ ụp xuống và tiếng gầm thét của nó làm cho đám đông dân chúng kinh hồn hoảng vía kêu thét lên cũng như làm cho ma quỷ phải chạy trốn. Người ta như cảm thấy chúng ào ào chạy qua, vừa cười nhạo, đấm đá, cào cấu, cắn xé trước khi biến mất như một làn gió. Cõi thinh không, phút chốc được trừ khử khỏi tà ma, trở nên trong trẻo, nhẹ nhàng. Hàng ngàn tiếng reo mừng vang lên trước sự tháo chạy của lũ ma quỷ.

Mặc cho dân chúng vào các hàng quán ăn uống và binh sĩ thì ăn món đồ cúng, Vua Hồ Hán Thương quay trở về cung điện. Tất cả nghi lễ đã hoàn tất.

- Ước gì chúng ta cũng có thể đè bẹp kẻ thù một cách dễ dàng như thế!

Thái Thượng Hoàng hồ Quý Ly đón con ông tại sân chầu bằng lời chúc trên.

Ánh nắng chói chang giữa trưa làm nổi rõ những nếp nhăn của gương mặt gầy với chòm râu và hàng mi bạc phơ, biểu hiện vẻ mặt tàn nhẫn của một con người suốt đời điên cuồng đấu tranh.

Từ khi đạo binh phò tá Trần Thiêm Bình bị đánh tan ở ải Chi Lăng, rồi Trần Thiêm Bình bị bắt và bị giết, Nhà Minh không ngừng trách cứ ông về tội chiếm đoạt ngôi báu. Họ rút các sứ thần về Nam Kinh và bí mật gửi do thám sang để nắm tin tức về tình hình chính trị và chiến lược quân sự của nước Đại Việt. Nước Tàu sai sứ sang đòi lại đất Lộc Châu và nhà Hồ phải nhượng bộ cắt 59 thôn ở Cổ Lâu giao cho Tàu. Trong chiến lược dùng thủy quân chinh phục của Thành Tổ thì nước Đại Việt là con cờ chính yếu mà ông ta rất thèm khát, là một bàn đạp để tiến xuống vùng biển phía Nam. Nhờ vào tên Thiêm Bình mà vua phương Bắc có một cái cớ ngàn vàng để động binh. Chiến tranh không thể tránh khỏi. Vì thế phải chuẩn bị.

Vị Chưởng ấn đại thần vừa thảo một chiếu chỉ triệu tập tất cả bá quan văn võ nội ngoại lại để bàn xem nên hòa hay nên chiến.

Thái Thượng Hoàng đã biết trước câu trả lời: Dứt khoát phải đánh.

—★—

Khi đạo quân phò tá Trần Thiêm Bình bị tàn sát ở ải Chi Lăng và kẻ tự xưng là Thiêm Bình bị bắt, binh lính thiên triều đã tháo chạy về Tàu.

Minh Thành Tổ lúc ấy đang ở tận trong Cửu Cung nghe tin thất trận rất giận dữ liền quyết định động binh.

Vua nhà Minh ra lệnh cho các viên tướng bại trận sát nhập vào đạo quân đang tập trung ở Long Châu và phải hăng say chiến đấu để lập công chuộc tội, trong khi đó đích thân ông ta đến sông Long tế lễ.

Lệnh Vua đã ban ra, và biên niên sử của triều đình Nam Kinh chép như sau:

Triều đại Thành Tổ.

Tháng 7.

Vào tháng 7, Thành quốc công Chu Năng được cử làm đại tướng để chinh phạt các ngoại bang, ông đã thống lĩnh một đạo quân và chinh phục nước An Nam. Hoàng đế sai một đại binh hùng hậu dưới quyền chỉ huy của Chu Năng để đi chinh phạt, có Mộc Thạnh và Trương Phụ làm phó tướng. Theo lệnh nhà vua, còn có 18 vị tướng khác cùng tiến quân theo nhiều ngả.

Lệnh vua ghi rõ:

"Tất cả người An Nam là con cái của Trẫm. Chỉ có cha con Hồ Quý Ly là những kẻ có tội phải chịu gia hình, còn những người theo họ sẽ không bị trừng phạt. Sau khi bắt được cha con Hồ Quý Ly rồi, phải tìm trong đám con cháu Nhà Trần một người tài đức để lập làm vua".

Tháng 9 năm Bính Tuất (1406), bằng hai ngả xâm nhập quen thuộc, đại binh Tàu gồm 200 ngàn người và hàng trăm ngàn tàu thuyền hộ tống đã tràn vào nước Đại Việt.

Theo lệnh của Nguyên soái Trương Phụ, người lên thay đại tướng Chu Năng, chết vào hồi tháng 10, đạo quân đầu tiên xuất hiện từ Quảng Tây đi vào Lạng Sơn đánh lấy cửa ải Pha Luỹ93, đạo quân thứ hai do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam tràn xuống dọc theo thung lũng sông Hồng.

Đến tháng 11, hai đạo quân hội lại ở Bạch Hạc.

Các thống soái Việt từ lâu đã biết trước ý định của người Tàu, nên đã vạch ra một chiến lược sắt thép được hỗ trợ bởi các "máy bắn tài tình"94 của Hồ Nguyên Trừng. Tuy nhiên, bị kẹp giữa những đạo bộ binh và kỵ binh răng trắng khổng lồ, tiến ào ào như thác với khí thế hung hãn, chém giết và nghiền nát tất cả, nên binh tướng nhà Hồ phải rút lui không ngừng.

Trước đà tiến vũ bão của đạo quân tàn sát ấy, có lẽ chỉ có những khối đá lớn nghiền nát được cả một đội quân bằng một cú sấm sét mới mong chặn được bước tiến của quân Ngô. Các đạo quân triều đình Trung Quốc được huấn luyện thuần thục, thương, kích, đinh ba cùng với gươm giáo tua tủa, từ cuối chân trời tràn xuống trong tiếng chiêng tiếng trống vang rền nặc mùi tử khí. Phía trước đoàn quân, phất phới những lá cờ hiệu mang hình Xích Tước, Bạch Hổ, Thanh long và Hắc ủng. Bị tràn ngập, quân Đại Việt cố gắng một cách tuyệt vọng để phá vòng vây, cố lui về cứ điểm đã định: cây cầu bắc sang thành Đa Bang, chốt án ngữ trên đường về Đông Đô. Nhưng mọi đường rút lui đều đã bị bịt chặt và họ không thể nào tiến được một bước.

Tiếng hò réo vang trời đinh tai nhức óc. Tiếng tù và inh ỏi. Tiếng trống da trâu rền dội. Tiếng đại bác gầm vang. Tên bay dày đặc, rơi xuống như mưa. Một dũng sĩ phóng vọt lên trong đám hỗn chiến, lưỡi rìu sắp bủa xuống thì một nhát chém lia ngang, thủ cấp anh ta bay vút lên không. Một người nữa vọt lên, lại gục ngã. Rồi một người khác lại tiến lên theo. Các kỵ binh bị trúng đao ngay giữa ngực rơi khỏi yên ngựa, ánh thép vung loang loáng. Choáng váng, tượng binh của quân Đại Việt luống cuống. Dưới những làn đạn liên tục pháo binh, một sản phẩm của ma quỷ, binh lính vua Nam tan rã. Những người khác tán loạn giữa trận bão tên và đạn bay loạn xạ như một đống lông ngỗng được tung ra tứ phía. Chiến bào nhuộm đỏ máu tươi, người thì què cụt, người thì bị ngọn giáo cắm ngập giữa bụng, và những lưỡi rìu vun vút đốn ngã thân người như đẵn cây. Đội hình quân Hồ bị những lỗ hổng to tướng. Thật đúng là một trận mưa máu.

Chẳng mấy chốc, đội quân chạy tán loạn trước sức tấn công không thể địch nổi. Tiếng chiêng thu quân vang lên, cố gắng gom các đám tàn quân còn lại sau cuộc tàn sát để mở một con đường rút lui chiến thuật.

Nguyên soái Trần Mộng Dũ trên lưng con ngựa mông to của đất Việt, tay cầm gươm báu, tay nắm ngọn giáo sáng ngời oai phong lẫm liệt cùng với đám gia binh đang dốc hết sức bình sinh với tinh thần dũng cảm vào cuộc chiến. Sự can đảm của ông có một không hai. Chùm lông thẳng trên chiếc mũ trụ khảm vàng của ông quay tít. Với đôi tay cường lực, ông đã mở được một con đường máu để tất cả các tướng lĩnh của ông chạy theo được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Họ đang phi nước đại về hướng cái cầu và đường vào đồn mà bất cứ giá nào cũng phải mở được lối này, thì một đội kỵ binh của đối phương phóng đến chặn đường.

Với một sự dũng cảm thần kỳ, Trần Mộng Dũ nhấn bàn đạp phóng thẳng lên, tả xung hữu đột giống như "Phù Đổng Thiên Vương" xưa. Được cổ vũ bởi tấm gương của ông, các sĩ quan thuộc hạ và phần lớn những toán quân Việt đã tập họp lại được bỗng nhiên lao vào cuộc hỗn chiến với một sự can đảm phi thường, bất kể gươm giáo đao thương của họ đã hư, gãy hoặc sứt mẻ. Nhưng, đã có một toán quân cứu viện từ trong thành cố hết sức bình sinh vượt qua chiến lũy đến đánh tập hậu quân địch.

Kỵ binh Tàu rối loạn hàng ngũ. Số binh lính Việt còn sót lại biến mất hút vào trong cổng thành Đa Bang như một đám mây gió thổi tan đi. Rồi cửa thành sập xuống. Những người chạy thoát không kịp đã bị quân Ngô tàn sát. Chúng rượt theo những người chạy trốn và thẳng tay chém giết. Đáp lại những tiếng kêu tuyệt vọng là những tiếng rên rỉ đau xót của những người hấp hối. Chưa bao giờ thấy một cuộc tàn sát khủng khiếp như vậy.

Bây giờ đại bác đã ngừng bắn. Qua màn khói bắt đầu tan dần, cánh đồng hiện ra rải đầy những xác chết không toàn thây, có những chỗ chỉ là một đống bầy nhầy đỏ lòm thật kinh hoàng.

Các Thống soái và tướng lĩnh nhà Hồ họp bộ tham mưu lại trên thành lũy, đứng nhìn ngậm ngùi cái cảnh tượng đau đớn của tất cả những con người dũng cảm đã chết vì chiến đấu cho Tổ quốc và từ bây giờ hồn họ đang tìm đường vào cõi u minh.

Từ xa, trong tiếng chiêng vang dội biểu lộ niềm vui ở đằng kia và nỗi buồn ở đây, kỵ binh cùng bộ binh Tàu đang chỉnh đốn hàng ngũ, tập trung dưới cờ hiệu của từng đơn vị và bao vây thành.

Nhìn thấy quân Ngô hạ trại và chuẩn bị bao vây, bộ Tổng tư lệnh hội các tướng lại.

Tin tưởng vào sự kiên cố của vị trí đóng quân, có một chuỗi những đồn nhỏ kề cận nhau và một chiến lũy bằng những cọc gỗ liên tiếp nhau suốt bao nhiêu dặm, ngăn không cho thuyền địch cập vào, nên các Thống soái và tướng lĩnh đồng quan điểm cứ kéo dài cuộc kháng cự để làm cho quân Minh mỏi mệt.

Với bản tính hăng say cố hữu, Nguyên soái Trần Mộng Dũ nghĩ rằng đó cũng là một sai lầm giống như đem quân ra trực diện đối đầu với đạo quân khổng lồ của Tàu. Ông lên tiếng:

- Làm thế thì nếu thua trận hoặc mất thành sẽ kéo theo sự sụp đổ của cả một vùng. Làm sao các ông dám nghĩ là mình có thể thắng quân thù bằng cách nằm im lẩn trốn tận bên trong thành? Các ông nói rằng để làm cho đối phương mệt mỏi, nhưng các ông có thể hy vọng kéo dài được không khi hàng ngàn binh sĩ đóng trong thành Đa Bang chẳng mấy chốc sẽ cạn lương thực, không còn sức và mất khả năng chiến đấu? Trong khi các ông tự nhốt mình ở đây thì ngoài kia quân xâm lăng dùng giọng lưỡi thâm độc của loài cú vọ lừa gạt dân chúng, tuyên truyền những điều láo toét. Bị mê hoặc bởi lời hứa hẹn xảo trá về việc phục hồi triều đại cũ, dân chúng sẽ không kháng cự nữa, sĩ quan và binh sĩ sẽ buông vũ khí không chiến đấu nữa. Sao các ông dám quên điều đó? - Bộ tham mưu nhìn nhau bối rối. Ông tiếp - Chúng ta hãy nắm lấy dân chúng, gây lại niềm tin để được họ hỗ trợ và đừng làm mất tinh thần quân đội bởi những trận chiến lớn làm hao tốn sinh mạng nhiều như trận chiến hôm nay, cuối cùng rồi chỉ dẫn đến đại bại.

Áp dụng nguyên tắc: kẻ địch cậy số đông thì phải lấy ngắn địch dài, chúng ta phải cho quân mai phục từ thành Đa Bang đến biên giới để chặn viện binh bên Tàu sang. Khi một đạo quân tiến binh lộ liễu thì sẽ dễ tiêu diệt. Chúng ta phải dụng mưu và kiên nhẫn như con tằm ăn lá dâu và áp dụng chiến thuật chớp thời cơ như trong một ván cờ.

Theo kế hoạch ấy, một phần đạo quân chịu trách nhiệm bảo vệ thành Đa Bang và con đường dẫn đến Đông Đô, phần còn lại sẽ bí mật dùng thuyền ban đêm đi theo sông Hồng quấy rối hậu quân Tàu và chặn đường tiếp viện.

Hai vị tả hữu phó tướng của nguyên soái Trần Mộng Dũ hoan nghênh kế hoạch này:

- Đề nghị của chủ tướng giống hệt với ý kiến của chúng tôi.

Kế hoạch ấy vừa được Bộ tham mưu quân Việt tán thành thì kẻ thù đã không để cho họ còn đủ thời gian thực hiện.

Ngay canh tư đêm ấy, Trương Phụ, Đại tướng thống lĩnh quân Tàu đã sai thuộc hạ cùng binh lính mang theo đuốc và tù và, vượt qua các đường hào, dùng thang leo lên các cọc gỗ của cả hai mặt: bờ sông cũng như đất liền, và làm một con đường vững chắc liền một mạch đến bên thành.

Người đầu tiên vượt lên bờ thành là Đô chỉ huy thanh nhã và dũng mãnh Thái Phúc. Lẫn vào bóng đêm, những người khác nối đuôi nhau, không gây một tiếng động.

Thế rồi giữa hàng ngàn ngọn đuốc bùng lên đỏ rực cùng với tiếng tù và inh ỏi tạo thành một thứ tiếng gầm thét đinh tai nhức óc, họ tấn công như vũ bão.

Binh lính Đại Việt bàng hoàng hết hoảng vì bị bất ngờ. Dưới mưa tên và hỏa pháo, mọi người ào lên bờ thành, người thì cố dập tắt lửa, người thì chém xả vào những kẻ đang bám vào tường thành. Cuối cùng, cuộc tấn công đã bị đẩy lui.

Tổng chỉ huy quân Việt phấn khởi bởi chiến thắng này đã quyết định ngày mai sẽ cố dùng voi để đánh mở một lối ra, không thèm nghe lời can ngăn của Tả quân Trần Mộng Dũ. Số phận của cuộc chiến tùy thuộc vào quyết định này.

Tảng sáng, các cửa thành được mở ra và vị Tổng chỉ huy đạo Trung quân cho triển khai đàn voi xung quanh bờ thành. Rồi người và vật nhất tề lao tới trong tiếng trống vang rền, tiếng reo hò dậy đất và dưới rừng cờ hiệu phần phật bay trong gió.

Ngay lúc đó, một đạo quân mang hình Cọp và Sư tử bất ngờ xuất hiện trước mặt họ giữa những ngọn lửa cao hơn núi. Mưu kế ấy đã làm cho đàn voi kinh hãi, chúng lùi lại và quay lộn lại phía sau, húc ngã và dày lên bộ binh cùng kỵ binh đi theo. Một vài con bị thương ở mắt lồng lộn lên và gây ra một sự náo loạn khủng khiếp trong hàng ngũ.

Giữa bãi chiến trường, ai còn dám nghĩ đến sự sống và mạng số? Xương gãy nát, gân đứt lìa, mặt mày cũng không tránh khỏi thương tích. Tiếng gào thét vang lên, các binh lính té nhào, nếu không bị dẫm lên thì cũng bị thương vì sự va chạm khủng khiếp với vũ khí của chính mình, hoặc bị trúng đạn của đối phương mà quỵ xuống.

Trong tình trạng hỗn loạn ấy, quân Việt không còn cách nào khác hơn là hoặc bị tiêu diệt tại chỗ hoặc phải vừa đánh vừa rút thật nhanh vì quân Ngô đang đuổi theo.

Quan quân Việt ùa chạy vào thành nhanh như gió và ngỡ là được cứu thoát. Nhưng hỡi ơi, các cánh cửa đã được mở toang ra hồi sáng bây giờ không thể đóng lại kịp nữa. Quân địch đã tràn vào theo sau họ và đã chiếm thành Đa Bang sau khi thẳng tay tàn sát.

Đạo quân của Trần Mộng Dũ được sai đi trước lúc bình minh để bảo vệ thủ đô với số lính mà các chiến thuyền có thể chứa được, đang ngược sông Hồng. Và khi nhìn thấy khói bốc lên từ thành Đa Bang, ông hiểu rằng thành đã thất thủ.

Từ đó, tức từ tháng 12 năm Bính Tuất, đường vào Đông Đô đã mở ngỏ cho quân Minh.

Lúc ấy ở Đông Đô, dân chúng trốn như thỏ, chạy như chuột giữa khói lửa mịt mù. Trong ánh lửa đỏ rực của các đám cháy, chỉ thấy những bóng người quơ vội bàn thờ tổ tiên và ít của cải quý giá chạy trốn. Tiếng rên xiết của người già hòa với tiếng kêu khóc của trẻ con. Khắp nơi vang lên những tiếng kêu bi thương thống thiết.

Bóng một đoàn người đang cuồn cuộn đổ về bến Đông Bộ Đầu giữa khói lửa mịt trời là những ai vậy?

Theo sau những cấm vệ binh đang dùng giáo mở đường là một đám đông hỗn độn, gồm từ Hoàng Thái Hậu, Hoàng hậu và các vương tôn công tử, các hoạn quan rồi đến phi tần, cung nữ, các quan lại trong triều... đang bị dân chúng xô đẩy chen lấn nháo nhào. Những lưỡi gươm vung lên trước mặt. Những ngọn giáo phóng vào đám đông, có người bị đâm trúng ngã lăn ra, có kẻ bị dẫm lên. Người ta có thể nói rằng:

Họ muốn trốn khỏi nơi bị tàn phá và họ chạy theo đám đông mà không biết rằng trong cuộc tháo chạy đó, họ đã giẫm đạp lên nhau.

Ngựa dậm chân, các kỵ binh quý tộc làm rơi vãi dọc đường những nén vàng bạc mà họ đã hấp tấp nhét đầy túi. Các đầy tớ thì lảo đảo bước đi dưới sức nặng của các loại bình, các vật dụng bằng đồng, những bộ đồ tự sự và kiệu, cáng của nhà vua từ trong cung tuôn ra. Bò, ngựa cong lưng vì chở nặng. Các sư sãi thì trên tay ôm chặt như bồng ẵm con thơ những tượng Phật và tượng chư thần chư thánh mạ vàng lên đường trốn xa các chùa chiền đền miếu. Những bức tượng thần Hộ pháp khổng lồ lắc lư trên những đôi vai vững chắc đưa đôi tay gỗ to tướng hướng lên trời cao. Những phi tần mỹ nữ bị lôi ra khỏi cung điện là nơi trú ngụ xưa nay của họ, bị ném vào giữa những biến cố như vậy không còn ai hộ vệ, không còn người để nương tựa, họ phải dấn bước cùng với thác người hỗn độn với nét mặt xanh xao đầy sợ hãi. Có hai chị em công chúa vai kề vai mang hài thêu bước khập khiễng trên mặt con đường cầy nát dưới bánh xe bò và dấu chân ngựa. Một bà hoàng thái hậu khả kính đã mù từ lâu, đi lạc trong đám đông, tay đang nâng niu giữ chặt một cái tráp thì có ai đó giật mất. Các công tử còn bé, nằm lắc lư trong đôi tay của những nô bộc, khóc thét lên.

Thật là một quang cảnh khủng khiếp đập vào mắt ta.

Khi đến bến đò, các Cấm vệ quân phải hết sức quyết liệt mới mở lối cho các vị trong triều đình xuống thuyền được. Tiếng kêu thét xé lòng của những gia đình bị ly tán tràn ngập cả không gian. Các phụ nữ bị cưỡng bách lôi đi đang tìm con, tìm mẹ, tìm chồng, có những kẻ chui qua các cửa sổ bên hông tàu và lẻn vào hầm, giết các tay chèo rồi chiếm chỗ họ. Xác người từ trên mạn thuyền rơi xuống. Các thuyền lớn của quan quân chở quá nặng nên xoay trở khó khăn giữa đám xuồng tam bản ào ào lướt tới. Nhiều chiếc tam bản bị lật úp. Các tay chèo dùng mái chèo đập chết những người cố bám leo lên thuyền. Người ta cố chết vẫy vùng vật vã giữa dòng nước. Những cái miệng đầy nước mở to phát ra tiếng kêu tuyệt vọng. Những cánh tay quơ quơ cầu cứu mà không ai nắm lấy. Những cái đầu không ai đỡ lên. Tất cả đã chìm xuống đáy sông.

Dân chúng đổ xô vào bất cứ thuyền bè nào với ước mong tuyệt vọng được lên thuyền bằng bất cứ giá nào. Có các bà mẹ tháo đôi hoa tai, dây chuyền, là những thứ quý nhất của họ đưa ra để van nài người ta chỉ với con họ thôi. Nhưng đây là lúc mà mạng sống hơn đống vàng. Dù đem cả gia tài ra đổi lấy một chỗ ngồi trên thuyền cũng chẳng có ai chịu đổi.

Khi tất cả các loại thuyền bè lớn nhỏ và ngay cả những lâu thuyền chuyển ra từ Hồ Tây đã ra đến giữa dòng và lần lượt mờ dần, đám đông còn rớt lại bắt đầu chạy dọc bờ sông hướng về phía biển với một mục đích duy nhất: tránh quân Tàu, càng xa càng tốt.

—★—

Tiểu Mai ngồi trong nhà ở gần bến Đông Bộ Đầu đã chứng kiến tất cả quang cảnh bi thảm của cuộc di tản bằng thuyền ấy. Minh Nguyệt và Phương Thảo cùng những người khác ngồi bên cạnh cô đều bàng hoàng và khóc. Chỉ đôi mắt của người ca nhi xinh đẹp kia là ráo hoảnh. Những bậc quyền quý đã chạy trốn cả, cùng với các phu nhân cao sang của họ. Mới đây thôi, những người này lúc chén tạc chén thù ở nhà cô đã dám quyết rằng nếu đưa một người trong họ Trần lên ngôi ngay lập tức thì không có gì phải sợ quân Ngô. Đó là những luận điệu láo toét mà quân Tàu đã gieo rắc dọc theo các sông lạch. Chính Tiểu Mai đã lượm được ở gần bến đò một trong vô số những thẻ tre mà đế quốc phương Bắc đã dùng để tuyên truyền ý định của họ là tái lập triều đại cũ và kêu gọi sự hợp tác của dân chúng.

Trăm nghe không bằng một thấy! Làm sao những người sành sỏi về chính trị như Quan Tổng đốc Trần Quốc Kiệt, một người hãnh tiến nhưng thông minh, hoặc như quan Hành tẩu bộ Lễ, ông Ngọc, vốn có cảm tình với Tàu nhưng dù sao cũng là một người yêu nước, lại đi tin vào những lời lẽ như thế? Hận thù nào, lợi lộc nào đã làm mờ mắt họ? Giờ đây, đứng trước cuộc xâm lăng hợp với ước vọng của họ thì họ lại chạy trốn! Còn cô, một cánh bèo khiêm tốn, cô đã quyết định ở lại, ngay cả trước khi sắc lệnh triệt thoái khỏi thủ đô được ban bố.

Các bạn của cô cũng tuyên bố:

- Chị cả ở lại thì chúng em cũng ở lại.

Bây giờ, khi bóng hoàng hôn trải dài trên mặt sông vắng lặng, bến đò mang một vẻ chết chóc cũng như kinh thành đang bừng cháy nổ răng rắc như một đống lửa. Đằng xa, từng đụn khói đen tiếp tục bốc lên từ các bức tường của hoàng thành. Trong khoảng thời gian giữa lúc ra đi của những người đồng hương và lúc quân Tàu đến tiếp thu, dường như Tiểu Mai là người tạm thời canh giữ kinh thành cùng với những kho báu của nó bị bỏ lại, đó là: Chùa Một Cột, Văn Miếu, Tháp Báo Thiên, Cấm Thành. Cô buồn bã thở dài rời khỏi khu vườn cạnh bờ sông và bước vào phòng ngoài.

Trong nhà có giọng nói thân thuộc của Hồng Đào và Thúy Liễu. Cây đàn tranh bị cô bỏ rơi từ lúc nghe tiếng huyên náo trên bến đò vẫn còn nằm trên chiếu.

Như mỗi lần nỗi buồn và tình yêu tràn ngập cõi lòng, dưới những ngón tay cô, cây đàn lại trỗi lên âm điệu của bài ca trữ tình mà cô đã hát cho Nguyễn Trãi nghe trong lần đầu gặp gỡ. Gương mặt cao quý của chàng trai cùng với dáng vóc cao nhã đã từng cuốn hút nàng vẫn không thay đổi chút gì, chỉ có con người sĩ phu đã tỏ mình qua khóa thi Tiến Sĩ là lớn lên! Tiếng tăm của chàng vang xa từ lúc ấy. Dù người ta thường nghĩ rằng với lối trang điểm duyên dáng và với mái tóc trau chuốt thật khéo của nàng, nàng vượt trội hơn hết các phu nhân trong triều, nhưng Ngài Ngự sử Nguyễn Trãi chỉ xem nàng như là một ca nhi. Nàng chỉ là người đã đứng trên bến đò nhìn người tình của một đêm ân ái rời xa dần trên chiếc thuyền tam bản.

Nghĩ đến đó, nàng ấn mạnh những ngón tay ngà ngọc lên những sợi tơ vàng của cây đàn. Ai có thể cảm thông với nàng? Những kỹ nữ chuyên nghiệp như nàng đến với những bậc tài tử cao nhã, hoặc tại nhà họ hoặc tại nhà mình, hoặc trên một chiếc thuyền trôi theo dòng một con sông vắng giữa đêm khuya, họ chẳng thuộc về một loại nào cả. "Xướng ca vô loài!". Một mặt, người ta mến mộ tài nghệ của họ, mặt khác, người ta khinh rẻ họ. Họ nổi tiếng về tính lẳng lơ nên phần đông nghĩ rằng họ không thể có một tình cảm chân thật. Ai mà có thể tưởng tượng rằng một trong những ca nhi ấy, những người mà không một vị quan nào dám cưới làm vợ hoặc lấy làm tì thiếp vì sợ bị công kích và giáng cấp, một trong những người đó lại đem lòng yêu thương một sĩ phu xuất sắc?

Nhưng người hoa khôi Đệ nhất kỹ nữ ấy đã được giáo dục đầy đủ để có thể có được một tình yêu đích thực. Chỉ vài năm, tình yêu của nàng đã lớn mạnh trong niềm ngưỡng mộ. Dù rất hiếm khi được gặp Nguyễn Trãi và thường là gặp chỗ đông người, nàng cũng cảm thấy rất gần gũi với chàng như môi với răng. Trong đám đông những bậc quyền quý vừa xuống thuyền khi nãy, nàng không dõi tìm bóng dáng cao nhã của chàng, vì bằng một trực giác kỳ diệu nàng biết rằng chàng cũng không rời bỏ kinh thành. Ít nhất là cũng chưa rời. Người vợ cả của chàng, bà Trần Thị Thanh sắp sinh đứa con thứ ba. Ý nghĩ của nàng chùng xuống vì ghen và thương xót. Nàng nghĩ đến hình ảnh một thiếu phụ đáng yêu có lẽ đang chuyển dạ đau đớn trong kinh thành hoang vắng. Và có thể ngay đêm nay kẻ thù sẽ bao vây kinh thành.

Ở các phòng trong, các tớ gái đang chuẩn bị thêm dầu cho những ngọn đèn để đuổi tà ma yêu quái. Bóng của Tiểu Mai trải dài lặng im trên chiếu làm họ giật mình sợ hãi khi họ mang đèn vào.

—★—

Khi thống soái Trần Mộng Dũ cho các chiến thuyền cập bến Đông Bộ Đầu vào khoảng canh tư, ông đã nhìn thấy trước tiên một trong những ngọn đèn đơn độc ấy bên bờ sông.

Bến này trước đây thường rực sáng bởi hàng ngàn đèn lồng, đuốc và đủ loại đèn treo ở mũi, ở lái thuyền, ở ngọn cột buồm, ở vách cửa những căn nhà nổi, nhưng hôm nay nó chìm trong màn đêm dày đặc. Các con tàu và đám đông quen thuộc gồm thủy thủ, dân chài, những tay chèo, những thương nhân và hành khách dường như đột nhiên biến mất dưới một bàn tay phù thủy. Về hướng Tây, trên những ngọn cây trong Cấm thành, nền trời đỏ rực. "Điều này có nghĩa gì?" Thống soái thắc mắc vì ông nghĩ là sẽ gặp lại kinh thành đang chìm trong một trận hỗn chiến. Một đạo quân Tàu thứ ba từ biển vào đã đổ bộ lên đồng bằng và kiềm chế thủ đô phải chăng đang giương bẫy chờ họ? Nếu vậy thì sự thất bại là chắc chắn. Mới sáng nay, ông đã nhìn thấy một đám mây hình đầu người từ phía chân trời thành Đa Bang bay lên, đó là điềm báo sự thất bại!

Chừng hai mươi lính do thám được phái đi dò la tin tức đã quay ngay về thuyền chỉ huy và báo với chủ tướng rằng: Đông Đô đã bị bỏ trống. Để làm bằng chứng, họ thuật lại chiếu chỉ của Nhà Vua dán ở cửa thành. Bất kể mọi chiến lược quân sự, vua Hồ Hán Thương đã quyết định không giáp chiến, ra lệnh bỏ kinh đô phía đông cùng với vùng ngoại ô và các làng mạc, thị trấn của vùng đồng bằng cho kẻ thù. Vị Thống soái chủ chiến Trần Mộng Dũ giận bầm gan tím ruột. Nhưng, đúng như đức tính thứ hai trong 17 đức tính cần có của một vị chỉ huy đòi hỏi, ông không nao núng và quyết định đích thân đến thị sát tình hình tại chỗ.

Với một toán quân cầm đuốc đi trước, chỉ trong một khoảnh khắc vừa đủ nhai giập bã trầu, ông đã vượt qua đường Cây Hòe, đặt chân lên sân chợ Cửa Đông và lọt vào kinh thành bằng cửa phía đông, khắp nơi ông đều thấy quang cảnh của một thành phố bị bỏ đi vội vã. Những đống than hồng bốc cháy kia là để không lọt vào tay kẻ thù những thứ người ta không mang theo được. Phía sau Đại Kim Môn các cung điện trong Cấm thành vừa đổ sụp xuống. Những cái quạt, những dải lụa nằm rải rác đó đây trên những phiến đá cẩm thạch. Chủ tướng nói: "ở lại đây không có ích lợi gì. Tốt hơn ta nên ra biển và tìm cách kết hợp với các cánh quân triều đình ở phía Nam".

Vừa quay đi, ông chợt thấy một lão già kỳ quái mặc áo dài nâu đội mũ đạo sĩ đến trước mặt. Nét mặt người ấy tuy có vẻ cổ quái nhưng trông hơi quen. Lão đạo sĩ này không ở trong am trong cốc mà ra đây làm cái quái quỷ gì đây nhỉ? Lão đạo sĩ cúi mình sát đất và nói:

- Thưa ngài, xin cho phép một đạo sĩ hèn mọn được chào ngài. Trong lúc ngao du đây đó khắp mọi vùng sông nước, tôi đã nghe tên tuổi vĩ đại của ngài. Nhiều lần tôi được nghe người ta ca ngợi lòng dũng cảm, ý thức trọng danh dự và công bằng của ngài. Số mệnh đã sắp xếp cho chúng ta gặp nhau hôm nay.

Chòm râu bạc của ông run run và cái nhìn sắc bén của ông dừng lại trên vị Thống soái trẻ đang mặc chiến bào mà có vẻ như đang nhìn xuyên qua thâu suốt tận cõi thâm sâu.

Nếu không phải bận tâm về cuộc chiến tranh trước mắt, có lẽ Trần Mộng Dũ sẽ quan tâm đến nhân vật kỳ dị này. Hiện tại, đôi mắt còn ngầu đỏ vì giận dữ của ông ta chỉ nhìn lão đạo sĩ một cách lơ đãng. Có lẽ ông ta muốn xin gạo hoặc rượu? Chắc chỉ có thế thôi…

Lão đạo sĩ mỉm cười nói:

- Kẻ hèn này không xin đồ ăn hay thức uống đâu. Dù bất tài nhưng có lẽ cũng có thể nói cho ngài biết điều mà ngài đến đây để tìm kiếm.

Trần Mộng Dũ nhíu cặp lông mày rậm và đen bóng chăm chú nhìn lão già với vẻ kinh ngạc. Lão ta biết điều đó à? Bản tính nóng nảy đã thúc giục ông ta phải chạy vào thành để làm dịu đi cơn "say máu" hơn là để tìm ra một giải đáp nào đó cho tình hình. Vả lại ông ta còn có lựa chọn nào khác hơn là đưa quân của ông đi về phía Nam càng sớm càng tốt. Còn việc triệt thoái kinh thành, chiếu chỉ của Nhà Vua đã rõ ràng đấy rồi.

- Kính thưa sư phụ, ngài còn có điều gì chỉ bảo cho tôi mà tôi chưa biết không?

Chẳng bao lâu nữa quân Ngô sẽ chiếm kinh thành. Không còn thời gian để nói chuyện phiếm. Ông ra hiệu cho đoàn tùy tùng lên đường.

Lão đạo sĩ đáp lại bằng một giọng nhẹ nhàng:

- Ồ! Chỉ vì những liên hệ máu mủ mà ngài đã phải đến đây.

- Ông muốn nói gì?

Trần Mộng Dũ ra lệnh cho đoàn tùy tùng dừng lại.

- Xưa kia tôi đã có vinh hạnh được biết Hoàng thân Trần Nguyên Đán, thân phụ mà ngài thương mến, và được hưởng ơn huệ của người, nên tôi mới dám mạo muội xen vào một chuyện riêng tư. Dù đã có chiếu chỉ triệt thoái khỏi kinh đô, anh rể của ngài là quan tư nghiệp và Hàn lâm viện sĩ là Nguyễn Phi Khanh cùng với cháu ngài là Quan Ngự Sử Nguyễn Trãi không chịu rời khỏi nhà. Kẻ hèn này e rằng họ đang đứng trước một nguy hiểm to lớn.

Nghe những lời này, Trần Mộng Dũ rối rít cảm ơn. Tức thì ông truyền lệnh cho binh sĩ quay về thuyền và chuẩn bị sẵn sàng nhổ neo, còn chính ông ta cùng với bốn cận vệ đi thẳng đến nhà của anh rể ở hướng Nam kinh thành. Trên đường đi, ông chợt nhớ là chưa hỏi quý danh và quê quán của lão đạo sĩ.

Ông già đáp:

- Tôi là Vô Kỷ... một kẻ tu hành. Ngoài ra... - Ông ta chỉ mỉm cười.

Trần Mộng Dũ thốt lên:

- Thưa thầy, có phải chính thầy là người đã giúp gia đình tôi lúc tang gia đang bối rối khi thầy đã làm công việc của vị chủ lễ để chấm nét cuối cùng cho thần chủ cha tôi cách đây 16 năm về trước? Tại sao thầy lánh mặt đi không cho chúng tôi kịp bày tỏ lòng biết ơn của chúng tôi?

Vô Kỷ mỉm cười nói:

- Những việc làm tốt phải kín đáo như tiếng ù ù trong lỗ tai, chỉ một mình mình nghe mà thôi.

Khi đã đến ngôi nhà, quả nhiên bên trong còn le lói vài ánh đèn, lão đạo sĩ cáo biệt và nói:

- Hiện tại ông đang ở trong cung của sao "Thiên di" hội chiếu với sao "Võ tinh". - Rồi ông buồn buồn nói tiếp - Nhưng tôi e rằng bảy năm nữa trong một cuộc viễn chinh trên biển ông sẽ gặp tai nạn. Tôi không thể nói thêm gì nữa cả.

Trước khi Trần Mộng Dũ chưa kịp giữ ông lại, ông đã biến mất.

Trần Mộng Dũ rụng rời ngẫm nghĩ "Kiếp trước, chẳng biết ta đã phạm tội gì mà bây giờ ta phải trả?". Nhưng bản tính hăng say của ông lập tức lấn át. Ông tự nhủ: "Chà! Trong cuộc sống đầy hiểm nguy và bất trắc này, ít ra ta cũng được bảo đảm là còn sống được bảy năm nữa" và ông bước vào nhà.

Người gác cửa vội vã mở cửa cho ông vào. Vừa nghe báo, Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi liền ra phòng ngoài đón ông. Trông thấy ông bình an khỏe mạnh, họ ứa lệ vui mừng.

Khi xúc cảm của cuộc hội ngộ đã qua, Trần Mộng Dũ nhìn vào gương mặt đầy những nếp nhăn đau khổ của Nguyễn Phi Khanh và gương mặt bóng loáng và trầm mặc của Nguyễn Trãi trước khi mở miệng nói với một giọng cứng cỏi như thói quen xưa nay của ông:

- Thưa anh và này cháu. Anh và cháu là những người biết suy xét và chắc chắn không làm điều gì một cách khinh suất. Vậy tại sao anh và cháu ở lại nơi đây, chấp nhận một sự nguy hiểm vô ích, điều đó chắc chắn phải có lý do chính đáng?

Một nụ cười làm đôi gò má cao của Nguyễn Phi Khanh dịu xuống.

- Chú không thấy cây cung bằng cành dâu treo ở cửa buồng sao? Trong đêm nay trời đã ban cho ta đứa cháu thứ ba. Nếu không vì chuyện đó, chắc chắn chúng ta đã đi cùng với quý phu nhân và tòng giá vào Tây Đô mấy ngày nay rồi. Nhưng bây giờ cậu nên giải thích cho chúng ta biết hoàn cảnh nào đã khiến cậu có mặt ở đây trong một kinh thành không còn cần phải bảo vệ nữa?

Sau những lời chúc mừng thường lệ, Trần Mộng Dụ kể vắn tắt việc quân lính Đại Việt bị vây hãm trong thành Đa Bang, việc mất thành, sự ngạc nhiên của ông khi cùng một toán quân đến bến Đông Bộ Đầu và cuộc gặp gỡ với đạo sĩ Vô Kỷ. Rồi ông bảo họ:

- Bây giờ đại tướng Trương Phụ và quân Tàu hẳn đang trên đường kéo đến Đông Đô. Vậy anh và cháu nên tập họp các phu nhân lại rồi ra đi khi còn kịp. Các chiến thuyền của em đang đậu ở bến chờ lệnh em để đi thẳng ra biển. Chúng ta hãy đến đó rồi sẽ liệu!

- Than ôi! - Nguyễn Phi Khanh kinh hoàng kêu lên, trong khi đó Nguyễn Trãi ra lệnh cho gia nhân chuẩn bị để lên đường ngay lập tức.

- Vậy thì chúng ta đã thua rồi sao? Không còn hy vọng gì để cứu vãn vương triều nữa ư?

- Tình hình thật nguy cấp! Trần Mộng Dũ bắt đầu nói với một thoáng thất vọng để rồi liền sau đó tiếp tục một cách phấn khích. Tuy nhiên tất cả vẫn còn có thể. Giữa trận cuồng phong phải giữ chặt cột buồm và tay lái. Phải trở về với chiến thuật linh hoạt đã từng giúp cho quân đội chúng ta thành công trong quá khứ và đừng bao giờ đương đầu với kẻ địch bằng trận địa chiến, cũng không nên tự giam mình trong các thành trì. Đa Bang mất, kéo theo cả một vùng rộng lớn, Thăng Long trở nên bất lực và cả vùng đồng bằng cùng những tài nguyên phong phú của nó đã lọt vào tay quân Ngô. Một số quan quân của chúng ta bị lừa bởi giọng lưỡi cú vọ của chúng đã buông vũ khí, số còn lại thì mất niềm tin. Tuy nhiên, lúc nào Tổ quốc cũng không thiếu những người con trung thành, những người nghĩa hiệp trung tín, chúng ta phải gom lực lượng lại và tập trung mọi nỗ lực của chúng ta. Anh à! Chúng ta chưa tung ra trận chiến quyết định.

Mặc cho những lời lẽ đầy hy vọng ấy, vẻ mặt của Nguyễn Phi Khanh dưới ánh sáng chập chờn của các ngọn đèn là vẻ mặt của một người đã hoàn toàn suy sụp. Nước da nâu của ông dường như sẫm hơn, gò má trũng sâu hơn và những nếp nhăn cay đắng của cái miệng vốn tinh vi bí ẩn, hằn nét rõ hơn.

Cuối cùng ông nói:

- Kẻ thù đến quá sớm. Vương triều vừa mới được dựng lên và những cải cách chưa có đủ thời gian mang lại những kết quả tốt lành cho dân chúng. Không tìm ra một đại thần nào trung thực dám liều chết để vạch cho Đức Vua thấy những sai lầm của Người và buộc Người phải thay đổi chiến lược hay sao?

Cho đến lúc này, Nguyễn Trãi vẫn im lặng. Có phải vì mải lo cho người vợ trẻ mới lâm bồn giờ phải dẫn theo trên đường chạy trốn không? Hay vì một nỗi niềm dành cho đất nước? Nhìn ông, người ta liên tưởng tới một câu thơ của Tô Đông Pha. "Từ thời cổ đại, sĩ phu là người nhiều ưu tư nhất". Khi ông cất tiếng nói, cha và cậu của ông rùng mình:

- Nguồn gốc tai họa nằm ở rất xa và tiến trình của sự đổ vỡ đang tiếp diễn. - Ông hướng về cha và cậu một cái nhìn sâu thăm thẳm - Từ khi ra làm quan, không có một ngày nào mà con không thấy có những bản thỉnh nguyện của các sĩ phu gửi đến tố giác nhữngvụ lạm quyền và sách nhiễu. Triều đình thối nát, người giàu ngày càng giàu hơn, người nghèo ngày càng nghèo đi. Thế thì trong giờ phút lâm nguy làm sao kêu gọi đám dân chúng khốn khổ bởi sưu cao thuế nặng ấy đứng lên chống giữ? Xin cậu tha lỗi cho cháu vì cháu dám tỏ ra kém tin tưởng hơn cậu. Một cây cột không tài nào chống đỡ được cả một tòa lâu đài đang đổ sụp, một xẻng đất không thể giữ lại được một con đê chực vỡ. Dù đứng ở phương diện nào con cũng nghĩ thấy có bế tắc: một mặt triều đại nhà Hồ đã đoạt được Thiên mạng nhưng không biết cách thu phục nhân tâm mặc dù có những việc cải cách, mặt khác nhà Trần đã vĩnh viễn đánh mất ngôi báu và người Tàu muốn phục hồi lại chỉ vì lợi ích của chúng. Vậy thì chiến đấu cho ai đây?

Trần Mộng Dũ giật nảy người:

- Cho ai à? Cho Tổ quốc chứ cho ai? Người ta có được phép buông tay chỉ vì thiếu một vị Minh chủ? Và không theo nhà Trần cũng không theo nhà Hồ vậy thì theo ngửi phân bọn Tàu à?

Hẳn người cháu có nghệ thuật chọc giận rất cao, và Nguyễn Trãi đáp với một nụ cười độ lượng.

- Xin cậu đừng hiểu lầm ý cháu, vì tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ quốc cũng thôi thúc cháu mạnh mẽ như cậu vậy. Nhưng muốn xoay chuyển một tình thế chính trị, cần đến cái đầu hơn là bắp thịt. Khi Vua Vũ ra trận, tướng sĩ của ông vui vẻ chết vì ông và người của ông hết lòng phục vụ ông. Muốn tập họp mọi người xung quanh mình, cần phải có lòng Nhân Nghĩa. Không có gì sai khi những người như chúng ta, những người có nhiệm vụ soi sáng và hướng dẫn quần chúng, truy vấn cặn kẽ về các phương pháp để chiến thắng và mang lại cho quê hương một nền hòa bình bền vững. Giữa một bên là những người tự xưng là con cháu nhà Trần do Hoàng đế phương Bắc đặt lên và một bên là nhà Hồ, không lẽ không có một con đường khác khó tìm và cam go hơn, nhưng sẽ thuận ý Trời và hợp lòng dân hơn hay sao?

Trần Mộng Dũ lắng nghe và gục gặc đầu. Những lời nói này đối với cơn giận của ông giống như những cánh hoa mới trên mặt gấm và mưa trên các chồi non.

- Cháu nhìn xa và có lẽ đúng. Còn ta, vì nhiệm vụ của ta là chiến đấu trong hiện tại nên đã khiến cho cái nhìn của ta thiển cận hơn. Thiển cận đến mức giờ đây ta giục cháu hãy đi theo ta trước khi quân Ngô đến làm tan vỡ những giấc mộng tương lai của cháu.

Trong khi Nguyễn Trãi đi vào lo gấp rút chuẩn bị, Nguyễn Phi Khanh còn lại một mình với Trần Mộng Dũ, ông ngồi trầm ngâm. Những lời lẽ của con đã làm ông xao động. Vấn đề này vẫn thường được nêu lên trong những cuộc tranh luận giữa hai cha con mà đôi khi có cả công chúa Trần Thị Thanh tham gia. Công chúa vẫn luôn mong mỏi một người thuộc dòng dõi nhà Trần đích thực, chứ không phải do quân Tàu dựng lên, sẽ thu phục lại giang sơn (và tại sao đó lại chẳng phải là người chú mà bà quý mến: Hoàng tử Trần Ngỗi?). Đây là lần đầu tiên Trãi ám chỉ đến con đường thứ ba, và một sĩ phu như ông khi nghe ý kiến đó đã cảm thấy một niềm phấn khích kỳ lạ trộn lẫn với âu lo không ít. Bởi vì nếu tin vào lời của Nhạc mẫu ông và nhà chiêm tinh thuở trước, thì ở đoạn cuối của một chuỗi bí ẩn những biến cố thì máu sẽ lại chảy lênh láng... Tuy nhiên chỉ vài tháng sau trên đường lưu đày sang Tàu, chính ông đã nhắc lại cho Nguyễn Trãi con đường thứ ba đó và khuyên con ông hãy quay về rửa nhục cho quê hương.

Bấy giờ một chiếc cáng màn vây kín đã được chuẩn bị xong cho sản phụ mới lâm bồn và đoàn người ít ỏi lên đường đi thẳng ra bến. Trời đêm tháng 12 trong và lạnh. Ở cửa sông Tô Lịch vẫn còn một ánh đèn đơn độc mà Trần Mộng Dũ đã nhìn thấy khi cập bến.

- Ai không ra đi mà còn ở lại đây vậy?

Một sĩ quan đáp:

- Thưa ngài có lẽ đó là nhà của Đệ Nhất kỹ nữ nàng Tiểu Mai. Tại sao cô ta phải ra đi? Với loại người này, chủ của họ là người trả tiền cho họ.

Các tay chèo được lệnh dốc hết sức và đoàn chiến thuyền, cờ phần phật bay trong gió, lao thẳng về hướng hạ lưu, ra biển.

Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi muốn đến Côn Sơn trước để vợ và các con được an toàn ở lại đó nên trước lúc trời sáng họ đã ghé lại một làng ven sông thuộc tỉnh Hải Dương.

Trần Mộng Dũ nói:

- Trong thời buổi loạn ly này không biết chúng ta có còn gặp lại nhau không. Thân phận của một chiến binh là da ngựa bọc thây, chết nơi biên ải hoặc giữa trận tiền. Trãi, cậu là người cuối cùng của một gia đình trước đây rất đông con trai. Cháu hãy hứa sẽ thay cậu khi cậu vắng mặt, hàng năm đúng vào ngày 18 tháng 7 âm lịch, đến cúng tại miếu rắn theo như ước nguyện của cha cậu. Và nếu cậu có chết đi thì cũng hãy cứ giữ lệ đó.

Nguyễn Trãi rất xúc động đáp:

- Thưa cậu, cháu xin hứa.

Lát sau, công chúa Trần Thị Thanh vén rèm kiệu ló mặt ra, một khuôn mặt kiều diễm và xanh xao. Họ cùng nâng chén ly bôi và chia tay trong tiếng nghẹn ngào.

[←92]

Một loại "đại bác" do Hồ Nguyên Trừng, con trai cả của Hoàng đế Hồ Quý Ly, sáng tạo. Có khả năng phóng một số lượng lớn các vật phóng (đá, v.v.) và cao cấp hơn với máy của người Tàu thời bấy giờ.

[←93]

Tức cửa ải Nam Quan ngày nay.

[←94]

Máy bắn tài tình: một loại "đại bác" do Hồ Nguyên Trừng, con trai cả của Hoàng đế Hồ Quý Ly, sáng tạo. Có khả năng phóng một số lượng lớn các vật phóng (đá, v.v.) và cao cấp hơn với máy của người Tàu thời bấy giờ.