← Quay lại trang sách

Chương 3

Nguyên soái Trương Phụ tin chắc rằng thành Đa Bang thất thủ đã gây khiếp đảm cho triều đình phía Tây nên ông quyết định phái một cánh quân đến đó. Viên tướng chỉ huy cánh quân này là Hoàng Trung, khi đến nơi thấy thành đã bị bỏ trống, của cải đã bị mang đi và có những đám cháy rải rác đó đây, ông liền nhảy ngay xuống khỏi yên ngựa lên thuyền con mà ông mang theo quay ngay về Đa Bang báo cho chủ tướng biết.

Lúc ấy Nguyên soái Trương Phụ cho phân phát các vật đã thu được và trưng thu lương thực, rơm cỏ cần dùng ở các cánh đồng xung quanh rồi ra lệnh cho hai cánh quân Tàu cùng với hàng ngàn xe, thuyền, hộ tống lên đường chiếm đóng kinh đô. Người ta tưởng chừng như có một đám mây bụi khổng lồ bốc lên từ cuối chân trời, và một rừng gươm giáo cùng với cờ xí đỏ rực tiến lên trong một trật tự tuyệt đối.

Thật vậy, khi đến Đông Đô, quân Minh chỉ gặp một kinh thành hoang vắng. Chỉ nghe tiếng nước vỗ vào mạn thuyền của họ đậu trên sông Hồng và chỉ có tiếng vang vọng của những hồi trống trận của họ trong các cung điện trống rỗng.

Vị Nguyên soái Trương Phụ cùng với toán kỵ binh dừng chân trước sân sau, ngay giữa Cấm thành. Ông chọn điện Kính Thiên, nơi thiết triều của nhà Hồ làm nơi họp Bộ tham mưu, và các phòng khác trong hoàng cung đề làm tư dinh.

Đa Bang thất thủ, Đông Đô bị chiếm, quân nhà Hồ rút lui về phía Nam, các thành phố và yếu địa ở đồng bằng không còn cách nào khác hơn là mở cửa đón kẻ chiến thắng, còn các quan lại văn võ thì còn cách là về quy thuận với Thiên triều. Một số đành khuất phục trước định mệnh oái ăm này mà tan nát ruột gan, số khác thì âm thầm hy vọng: người Tàu đã chẳng tuyên truyền khắp nơi rằng họ có ý định phục hồi triều đại cũ đó sao?

Muốn củng cố niềm hy vọng đó của họ, Nguyên soái Trương Phụ đã cho thông báo đến tận các làng mạc xa xôi hẻo lánh nhất của vùng bị chiếm đóng lệnh của Thiên tử, tức Hoàng đế Vĩnh Lạc, vua đất Bắc, mời con cháu nhà Trần đến trình diện tại Đông Đô.

Ông giãi bày với Mộc Thạnh:

- Bây giờ còn ai đó có thể nghi ngờ những ý định trong sáng của chúng ta? Từ đây chúng ta không còn cầu may như bươi cỏ bắt rắn nữa mà đã nắm chắc phần thắng trong tay.

Ông đã ra lệnh cho quân sĩ hạ trại ở khu Văn chương gần Hồ Tây, ông tạm thời bỏ mũ chiến có gắn phù hiệu chim Phượng hoàng cùng với áo giáp vảy rồng của mình và mặc bộ y phục võ quan cao cấp nhất có thêu hình Kỳ Lân - Và ông chờ đợi.

Lúc này sắp đến Tết Nguyên đán, thời điểm chuyển tiếp từ âm sang dương, từ lạnh sang nóng, từ tử đến sinh. Mặc bao thăng trầm của thời cuộc, cũng như mỗi lần năm mới đến, cây nêu lại được dựng lên ở khắp nơi: trước đình, chùa, miếu, mạo và trước nhà riêng. Đó là một cái cây truyền thống để đón mặt trời sau cái lạnh mùa đông. Các quan, như tục lệ trước đây, ngày đầu năm tụ họp về triều đình làm lễ bái mạng chúc thọ nhà vua, thì bây giờ họ cũng lên Đông Đô vì tin rằng người Tàu đã chứng tỏ rằng họ thật tâm.

Thế là không cần phải chờ lâu mới thấy kết quả của chiến dịch vận động nhằm thu phục nhân tâm mà người Tàu quá biết là phần lớn không ưa gì nhà Hồ. Nguyên soái Trương Phụ rất hài lòng khi thấy trong số những người lũ lượt tìm đến xin gặp ông không phải là những ứng viên của ngai vàng Đại Việt - Vả chăng, nếu có thế thì phải làm gì với họ đây? - nhưng chỉ là những quan lại và những bậc danh sĩ mà lệnh của Thiên tử đã làm họ yên tâm.

Vào đầu năm Đinh Hợi (1407), Nguyên soái Trương Phụ tái khẳng định ý muốn của nhà Minh là lập một Hoàng thân họ Trần lên làm vua nước Đại Việt, và kêu gọi mọi người giúp sức. Mỗi quan chức phải trở lại nhiệm sở cũ hoặc nhận nhiệm vụ mới được giao để xứ sở không còn phải khổ vì việc đổi thay chính quyền này nữa.

Đúng là "Nào ai mấy thước mà đo lòng người!". Trong những người về phe với quân xâm lược, có một số vì thèm khát danh lợi, chỉ tìm cách thỏa mãn các tham vọng của mình như viên Tổng đốc Thái Bình Trần Quốc Kiệt, số khác vì trung thành với dòng dõi vua cũ, họ làm bộ tin tưởng và hợp tác để tìm cách tiến cử những người họ đã nhắm lên ngai vàng bằng cách vận dụng những mưu mô và lời lẽ khéo léo để thuyết phục. Trong số những người sau này, chẳng mấy chốc đã xuất hiện nhiều phe nhóm. Đối với ngài Thượng thư bộ Lễ tên Ngọc và nhóm nho sĩ thì hoàng tử Trần Ngỗi, con thứ của vua Trần Nghệ Tông là người có đầy đủ đức tính của một nhà giáo huấn vĩ đại. Còn đối với Lưu Thúc Kiêm, Viện trưởng Hàn Lâm Viện, chỉ có hoàng tử Trần Quý Khoáng. Phe thứ ba lại đòi phải để cho Trần Cao lên ngôi, vì ông cũng thuộc Hoàng tộc, và từ lúc nhà Hồ soán ngôi, ông đã lui về núi ở ẩn, bây giờ chỉ cần cho người đi tìm. Họ cho rằng ông rất tài ba có thể cai trị đất nước mặc dù ông đã tự nguyện đứng ngoài vòng danh lợi.

Vị Nguyên soái đón tiếp tất cả, nhận tặng phẩm của mọi phe và lắng nghe lời biện hộ của phe này hoặc phe kia với cùng một vẻ thật thà đôn hậu như nhau. Với phe nào ông cũng đưa ra những lời hứa hẹn như nhau. Ông lấp lửng nước đôi như thế để cho cá cắn câu nhằm tạo chia rẽ mà không ai hay biết. Một mặt ông kín đáo tạo các phe nhóm kình chống nhau, mặt khác ông bắn tiếng cho các quan lại người Việt vừa được cất nhắc lên các địa vị cao quý biết ý kiến của ông là thật khó chỉ định một người được xem là dòng dõi nhà Trần mà lại không gây chia rẽ. Rồi các mật sứ còn thêm rằng: Do lòng rộng lượng của Đức Thành Tổ Hoàng đế phải đưa một Hoàng thân họ Trần lên ngôi vua Đại Việt, nhưng vì lợi ích của chính xứ sở này, nghĩ cho cùng có nên tái lập một triều đại mà do sự bất lực và sự bại hoại gia phong của nó đã dìm dân tộc vào cảnh tối tăm lạc hậu hay không? Trở về với đại gia đình của người anh ở phương Bắc mà những người ở phương Nam là con em, nước Đại Việt và cả các dân tộc khốn khổ của nó sẽ có cơ phục hồi. Lòng khoan dung đại độ của nước Tàu đầy quyền năng đổ tràn xuống cho họ sẽ đủ sức làm thay đổi cả đất trời. Vậy thì tại sao không ký vào đơn thỉnh nguyện rằng: Vì dòng dõi nhà Trần đã tuyệt diệt và vì xưa kia Đại Việt vốn là quận "Giao Chỉ", xin được phục hồi trở lại địa vị cũ là một quận của Trung Quốc.

Nhiều quan lại bị người Tàu thuyết phục đã ký. Khi ấy Nguyên soái Trương Phụ xét thấy kế hoạch đã thành công được hai phần ba, liền đi đến màn kết thúc. Ông cho gọi riêng từng người đứng đầu của ba phe và với những lời lẽ quanh co khéo léo nhà nghề, ông tuyên bố với từng người rằng ông đã phải chọn người hậu duệ nhà Trần thuộc phe khác với họ. Với vị Thượng Thư bộ Lễ tên Ngọc, ông tỏ vẻ tiếc mà phải đưa ra tên Hoàng tử Trần Cao, còn với người thuộc phe ủng hộ Trần Cao, ông lại đề cập đến tên của Trần Ngỗi, và cứ thế...

Kết quả đúng như ông mong đợi. Lần nào cũng vậy, ông cũng thấy các vị quan trước đây đã từng mở miệng chúc tụng rối rít vì tin chắc mình đã thắng, khi nghe xong thì mặt mày tái xanh, ông liền bảo họ: vì ông không thích ông hoàng được chọn, vậy để tránh những sai lầm của một quyền lực không được thừa nhận, có lẽ nên theo gương của những người đồng hương với ông, ký vào tờ thỉnh nguyện này là khôn ngoan hơn? Ông búng tay một cái, người thư ký thứ hai đến lấy một cái túi gấm thêu từ trên kệ xuống đưa cho người thư ký thứ nhất, và ông này rút từ trong túi ra một cuộn giấy kính cẩn trải ra trước mặt vị Nguyên soái.

Ông này nói:

- Ông hãy xem đây!

Trong lúc họ còn đang xem bản văn thì đúng như kế hoạch đã được sắp xếp trước, những tên lính Ngự Lâm Quân xuất hiện trước bốn cửa phòng, tổng binh khí của họ chạm vào nhau kêu lách cách đầy đe dọa.

Chính bằng cách ấy mà ông ta đã ép được Lưu Thục Kiêm không còn cách nào khác là run run cầm bút ký vào dưới tờ đơn thỉnh nguyện, và ngay sau đó không lâu người đại diện nhóm ủng hộ Trần Cao cũng phải làm như thế. Chỉ có ông Ngọc, Thượng Thư bộ Lễ, là giận dữ đến độ muốn nổ tung cả ruột gan và không chịu ký.

- Xin Ngài cho phép tôi được có thì giờ suy nghĩ kỹ lưỡng về việc này trước đã.

VỊ Nguyên soái đáp:

- Đồng ý. Tôi chỉ yêu cầu ông nhanh chóng suy xét về giải pháp này, phải thực tế khi muốn dẹp yên những rối loạn cho nhiều thế hệ, muốn giảm bớt sự mỏi mệt của dân chúng bằng cách bảo đảm cho họ cái họ cần thiết. Đừng bao giờ quên câu ngạn ngữ: "kẻ nào không biết chộp thời cơ sẽ không bao giờ thành công cả!".

—★—

Ông Ngọc trở về nhà và cho gọi ông bạn già là Hàn Lâm Viện sĩ Trung Ngô đến thuật lại từ đầu đến đuôi cuộc nói chuyện với ngài Nguyên soái Trương Phụ.

- Lợi dụng sự trung thành của chúng ta với nhà Trần và dựa vào sự cả tin của chúng ta, tên Trương Phụ đã phản bội chúng ta một cách hèn hạ bằng cách kích thích những tham vọng tầm thường, sử dụng những mưu mô thô thiển chỉ xứng với phường đạo tặc, sao chúng ta lại mù quáng như thế? Mối ác cảm của chúng ta đối với nhà Hồ soán ngôi đã biến chúng ta thành những kẻ phản bội. Thật đáng xấu hổ! - Ông nghiến răng đau đớn và nói - Nhục nhã quá! Tôi chỉ còn có cách là tự sát để chuộc lại lầm lỗi này mà thôi.

Hàn Lâm viện sĩ Trung Ngô thét lên:

- Đại huynh! Anh muốn hy sinh mạng sống cho quê hương thì làm sao tôi có thể giữ cho lòng trung thành của tôi được trọn vẹn nếu tôi không chết

Và nét mặt của ông vừa đang co rúm bởi hàng ngàn nếp nhăn bây giờ đã trở lại láng bóng và êm ả như mặt nước hồ thu. Nói xong, ông quay về nhà xếp đặt công việc rồi mặc áo đại lễ, đội mũ và quỳ xuống mặt hướng về phía ngai vàng, dùng một dải lụa treo cổ tự tử.

Nghe tin ấy, ông Ngọc kinh hoàng đau đớn la lên: "Trung Ngô đã đi trước ta một bước!" Ông liền chạy ngay đến bên thi thể của người bạn và đích thân canh xác cho đến lúc chôn cất. Đoạn ông trở lại thư phòng của mình, ăn chay ba ngày rồi tắm rửa sạch sẽ, mặc áo đại trào và cho gọi cả nhà quây quần lại.

Khi vợ ông nhìn thấy trên bệ bên cạnh ông có đặt một bàn hương án nhỏ, một ly rượu và ba cái chén, trong mỗi chén có một nhúm gạo, bà liền cất tiếng kêu gào thảm thiết. Cả nhà ùa vào, kể cả người đầy tớ già đang róc cau ngoài sân. Trước mặt ông ai nấy đều kinh hãi, không ai dám can thiệp vào. Các nàng hầu thì lặng lẽ xúm xít quanh bà vợ cả đang khóc như mưa.

Vị Thượng Thư bộ Lễ đưa mắt nhìn xuống các con ông đang quỳ dưới chân bệ kêu khóc như mẹ chúng. Các ngón tay gầy của ông đưa nhẹ một cái làm chúng im phăng phắc, ông nói với chúng:

- Các con không nên đau khổ trước cái chết của ta. Bởi ích gì khi ta kéo dài một cuộc đời bất hạnh? Năm Bính Tuất, chiến tranh nổ ra và ta rất sợ rằng trong năm Đinh Hợi này có thật nhiều người, ngọc đá lẫn lộn, sẽ phải chết. Các con dù có phải bỏ mình trên những miền thượng du độc địa còn tốt hơn là sống chung với kẻ thù! Thà là bị đui, què, cụt còn hơn là bị ô danh vì phục vụ kẻ xâm lăng! Lòng trung thành với Đức Vua buộc phải hy sinh mạng sống mình cho người. Hãy gia nhập quân đội nhà Hồ và chiến đấu đánh đuổi quân xâm lược. Hãy sáng suốt hơn cha các con là kẻ sẽ bị ô danh nếu còn sống với sự phản trắc của quân Ngô.

Nói xong, ông đưa tay cầm ly rượu uống cạn một hơi và bốc nắm gạo thứ nhất, bắt đầu nhai như đang ăn trầu vào một buổi chiều dưới gốc mận trong vườn.

Những người có mặt như bị thôi miên đang đưa mắt theo dõi từng cử động của đôi môi ông mà không nhận ra rằng toàn thân ông đang run lên. Một bé gái đang ẵm em đứng phía sau song cửa sổ tròn mắt kinh hãi nhìn quang cảnh ấy.

Ăn xong nắm gạo thứ nhất ông bắt đầu nhai sang nắm gạo thứ hai mà mắt vẫn hướng cái nhìn không nao núng xuống đám người đang đứng chết trân chân tay bất động. Khi ông đưa vào miệng nắm gạo thứ ba và cũng là nắm cuối cùng, bà vợ ông thét lên một tiếng thất thanh dị thường vùng khỏi tay các nàng hầu, bà nhào đến trong một cố gắng tuyệt vọng để ngăn cản ông, nhưng rồi bà đành ngã gục xuống bên bục, khóc nức nở. Ông thì thào, ngoài bà ta, không ai nghe được:

- Hiền thê ơi! Sao lại tuyệt vọng như thế? Trong kiếp sau chúng ta vẫn còn duyên nợ trong mảnh hương nguyền.

Tay ông bám chặt tay bà, ông thở dồn dập, hàm cứng lại, mắt dương tròng và ngã chúi về phía trước, tắt hơi.

Người ta phải giữ chặt vợ ông đang đập đầu vào tường tự vẫn, khắp nhà vang tiếng khóc than.

Trong khi vị Ngọc Thượng Thư bộ Lễ và người bạn của ông là Trung Ngô Hàn Lâm Viện sĩ, vì không muốn phản bội đã âm thầm ra đi vào thế giới của tổ tiên, thì Lưu Thúc Kiêm lòng dạ tan nát vì hối hận, mặt mũi biến dạng vì xấu hổ. Và ông ta đã quyết định dùng cái chết của mình để nói lên sự phản kháng mạnh mẽ.

Ông lên kiệu đi đến trước điện Kính Thiên và phía trước còn có một chiếc kiệu trong đặt lư hương và một cái ly. Lúc đó vị Nguyên soái đang chủ trì buổi thăng trướng ban mai. Sau khi những tiếng than khóc của các bà vợ ông đã lôi cuốn sự chú ý của mọi người, ông tuôn ra hàng tràng những lời chửi rủa, thóa mạ.

Trương Phụ đang ngồi giữa bộ tham mưu của ông khi nghe tiếng thét vang như sấm của Lưu Thúc Kiêm mắng ông là con heo đê tiện, đòi moi tim móc gan ông và rủa xả ông bằng hàng tràng những câu nguyền rủa độc địa nhất như là sẽ bị chết thảm khốc, bị tán gia bại sản, bị tuyệt tự, mồ mả tổ tiên bị dày xéo... Mặt mày ông trắng bệch ra và ông trân người sửng sốt.

Ở bên ngoài, Lưu Thúc Kiêm tan nát ruột gan vì phẫn nộ và tuyệt vọng, càng gào to lên:

- Trương Phụ, đồ chó đẻ, đồ súc sinh, sao trời cao đã ban cho mi chiến thắng mà mi lại làm những điều ô nhục như thế! Mi đã dùng cái lưỡi cú vọ để lôi cuốn những tên quan tham lam về với mi và lung lạc một viên quan ngu ngốc là ta để dễ bề lừa gạt và đè đầu đè cổ dân lành! Mi kiêu hãnh vì đã chiếm được xứ sở này, nhưng nếu cái óc heo của mi còn nhớ được thì hãy nhớ rằng: Các vị anh hùng của chúng tao đã đánh bại những triều đại kế tiếp nhau của chúng bay: Ngô Quyền đại thắng quân Nam Hán, Lý Thường Kiệt phá Tống, Trần Hưng Đạo tiêu diệt giặc Nguyên, và chắc chắn sẽ có một người con của nước Đại Việt đứng lên đánh đuổi quân Minh! Ta thề với mi rằng: Cha mi đã uổng công sinh ra mi, mi chưa thấy cái kết cục của đời mi đâu, mi sẽ phải khốn đốn tột cùng, vì sự thất bại của mi sẽ ngàn lần tệ hại hơn sự thất bại của tất cả các tiền nhân mi cộng lại. Mi sẽ phải xấu hổ nhục nhã đến điên lên. Mi sẽ phải sợ hãi đến vãi cứt ra! Ta không được ăn uống máu mi, nhưng những người khác sẽ làm điều đó! Mi tưởng rằng có thể khiến ta đồng lõa với âm mưu đen tối của mi, nhưng "Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc". Quân Mông Cổ đã giết Trần Bình Trọng vì những lời nói ấy cũng như hôm nay mi giết ta. Ta đổ lên đầu mi cái trách nhiệm về cái chết của ta, của Trung Ngô Hàn Lâm viện sĩ, của Ngọc Thượng Thư bộ lễ. Hãy nhớ đến chúng ta, đồ dơ bẩn, trong cái thế giới mà các hồn ma của chúng ta sẽ luôn bám sát gót chân mi!

Lúc ấy từ trong phòng ngự của nhà vua một tốp cận vệ của nguyên soái túa ra chấp hành lệnh bắt ông. Trước quang cảnh dị thường: một đại thần Giao Chỉ mặc triều phục đang giận dữ la hét giữa những người bà con thân thuộc và tôi tớ của ông đang run như cây sậy, viên chỉ huy toán cận vệ ra hiệu cho binh sĩ ông ta dừng lại một lúc. Lưu Thúc Kiêm lợi dụng lúc đó giật lấy cái ly trong tay viên quan tổng giám của ông và uống một hơi cạn sạch, ông gào lên:

- Trương Phụ, hãy nhớ đến Lưu Thúc Kiêm này khi nhà ngươi vào địa ngục để lưỡi mi chịu cày nát ra.

Ông phất tay ra hiệu cho những người thân đang khóc lóc đi về và mỉm cười nhìn toán quân Tàu đang băng ngang sân chầu đến gần.

Dù họ chỉ còn cách ông không đầy một tầm tên bắn, nhưng đột nhiên toán quân mờ đi trước mắt ông như trong sương mù. Rồi bỗng chốc bầu trời ban mai vụt tối sầm lại, những tiếng động chìm xuống, binh lính và những người đứng xem xung quanh chỉ còn là những bóng đen mờ mờ. Một cơn lạnh buốt làm ruột ông cứng lại và bóp nghẹt tim ông.

Cơ thể ông co giật mấy cái thật mạnh. Rồi ông ngừng thở và ngã vật xuống. Những tên lính Tàu chỉ còn cách vài bước nữa là tóm được ông. Ông còn nẩy người lên lần cuối đầy căm hận trước khi quẳng cho chúng cái xác của ông mà trên nét mặt vẫn còn hằn một nụ cười thách thức.

—★—

Tháng 12 năm ngoái, khi Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi ghé vào Côn Sơn với ý định để gia đình trú ngụ tại đó rồi hai ông lại ra đi ngay đến với nhà Hồ ở phía Nam, lúc ấy làm sao hai ông có thể biết trước được rằng Trời đã ngăn cản dự định ấy?

Trước tiên, sản phụ trẻ nằm trong kiệu vượt qua những chặng đường dài gồ ghề lồi lõm đã bị dằn xóc mạnh nên khi đến Côn Sơn thì đã kiệt sức vì bị băng huyết nặng. Còn ở Côn Sơn, sau những lần tái phát nguy kịch và những đợt thuyên giảm ngắn ngủi, dù đã được chăm sóc tận tình, cơn bệnh vẫn không dứt. Tình trạng của sản phụ xấu đến nỗi Nguyễn Trãi không thể nghĩ đến chuyện rời bỏ nàng. Mất máu và suy kiệt, trong suốt sáu tuần liền, nàng thở có vẻ rất khó nhọc. Các ngày tết đã trôi qua mà không ai trong nhà có lòng dạ nào để vui xuân. Đến một hôm nọ, Nguyễn Trãi đang thất vọng, chợt trông thấy trong tủ sách của ông ngoại ông một quyển sách của Tuệ Tĩnh. Ông buộc thầy lang trong làng áp dụng những bài thuốc của vị lương y nổi tiếng ấy. Nhờ tác dụng của những thang thuốc bổ, trong đó có vị nhân sâm, người bệnh đã phục hồi sức lực và lòng can đảm để thúc giục chồng phải ra đi lập tức, không nên chậm trễ một ngày nào nữa.

Bà nói với chồng:

- Bây giờ em đã hoàn toàn bình phục. Theo em thì anh không nên để cha chúng ta phải lưu lại đây lâu hơn nữa và hao mòn vì chờ đợi trong tình trạng không biết gì về những điều đang xảy ra và không thể hành động gì cả. Anh yêu dấu, trái tim em xót xa vì sắp phải chia tay anh bao nhiêu thì nó càng đau đớn hơn gấp bội nếu nữ tì của anh làm cản trở anh trong việc thi hành bổn phận. Anh hãy yên tâm ra đi, lúc vắng anh, ngày và đêm em sẽ luôn ở trên Núi Vọng Phu.

Nguyễn Trãi đành phải ưng thuận.

Sau khi đã chọn ngày tốt, hai cha con đến Miếu khấn vái cầu xin phù hộ, rồi lên đường cùng với Phi Hùng là em của Trãi. Vì Phi Hùng nài nỉ quá nên cuối cùng được cho đi theo. Vừa ra khỏi làng, họ gặp Hội Đồng Bô Lão. Sau những lời chào hỏi theo tục lệ, các bô lão chặn họ lại. Các bô lão này đều cao tuổi nên đều biết Hoàng thân Trần Nguyên Đán, và vì thế dám xen vào chuyện riêng tư của họ dựa vào một sự quen biết thân mật.

Các vị bô lão nói rằng:

- Có thể do vận may, hai sĩ phu ưu tú của chúng tôi thoát được khỏi tay bọn cướp đường lặng lẽ bám theo những lữ khách để rồi cắt mũi, xẻo tai họ, nếu không xả ra thành từng lát như thịt trâu bán ngoài chợ, thí dụ như băng cướp Ba Cụt và cháu hắn, thì liệu hai ngài có thể thoát khỏi mạng lưới kiểm soát chặt chẽ của quân Ngô dày đặc ở vùng đồng bằng hay không? Khắp nơi nhung nhúc những tên do thám, các đường đèo cũng như bờ biển đều bị án ngữ và chiếc tam bản cuối cùng cũng đã bị trưng thu. Không còn con đường nào để đi vào Nam cả.

Người đứng đầu các bô lão vuốt chùm râu dài bạc phơ và nói:

- Nếu đi thì sẽ về chầu Trời ngay thôi.

Vị bô lão thứ nhì nói thêm và các bô lão khác đều tán đồng:

- Nếu các ngài nghĩ rằng chúng tôi phóng đại thì xin mời đến tại đình làng ngay để hỏi người lính vừa từ đồng bằng đến đêm nay. Xin các ngài đến gấp trước khi người lính ấy về với tổ tiên.

Người lính mà họ nói đang nằm trên một tấm phản trong gian giữa của đình làng, xung quanh là đám đông dân làng đang ngồi chồm hỗm nhai trầu, hút thuốc hoặc trò chuyện. Ba chữ xăm ngang trên trán cho biết anh ta là lính triều đình, và chiếc áo chẽn cùng cái quần lụa tím sẫm nói lên rằng anh ta thuộc đội cấm vệ. Cái áo giáp da phủ sơn, cái nón chóp bằng tre cũng như thanh gươm và tấm khiên mây với những quai đeo đẫm máu đang chất đống dưới chân anh ta. Anh nhiều lắm là hai mươi tuổi, và những vết thương khủng khiếp trên đầu anh ta có vẻ như do một trong những thứ vũ khí quân Tàu gọi là "nanh chó sói" gây ra.

Thấy các ông đến, anh ta ngước đôi mắt thơ ngây đầy ngạc nhiên vì đã đau đớn quá mức mà thấy mình vẫn còn sống.

Nguyễn Phi Khanh xót xa thương cảm đưa cho anh ta nếm vài giọt trong bầu rượu của ông. Sau khi nhấm chút rượu, anh ta có thể mở miệng nói và thuật lại tấn thảm kịch mà anh vừa thoát ra được chỉ nhờ ý muốn cố quay về chết ở quê nhà, đúng như câu ngạn ngữ: "Cáo chết ba năm quay đầu về núi".

Qua những lời nói bập bẹ của anh ta, sự thật khủng khiếp được phơi bày như sau: Binh lính nhà Hồ đã bị nghiền nát. Hàng chục95 đã bị tàn sát! Hàng ngàn tử thi rải đầy trên mảnh đất Đại Việt! Điều đó diễn ra vào ngày 18 tháng 3 năm Đinh Hợi (1407). Lúc đó quân nhà Hồ đang ngược sông Hồng để đến Hàm Tử Quan thì bị tập kích bất ngờ. Bên phải là đạo quân của Nguyên Soái Trương Phụ, bên trái là đạo quân của Tướng Mộc Thạnh, và đoàn chiến thuyền của Tướng Liễu Thăng thì thọc vào giữa đội hình quân nhà Hồ. Bị kẹt giữa ba gọng kìm này, binh lính đã chiến đấu dũng mãnh như hùm beo. Số này thì ra sức chạy thi với ngựa để cướp lấy cờ của địch. Số khác thì đánh giáp lá cà để chặn thuyền của đối phương ngay giữa dòng sông. Nhưng quân Tàu quá đông, lại thêm đạn lửa và tên bắn như mưa. Chúng vây chặt và tàn sát quân nhà Hồ! Khi biết rằng đoàn tàu mà họ mong đợi để đến đánh tập hậu quân địch đã bị tiêu diệt trên sông Đáy, thì sức kháng cự của quân Đại Việt tê liệt hoàn toàn. Tiếng kêu la tháo chạy thoát thân thay cho tiếng hô xung trận. Đạo quân nhà Hồ bị đánh tan tác chạy tản lạc khắp nơi và bị quân Ngô đuổi theo bén gót thẳng tay tàn sát: chém chặt băm vằm bất cứ gì dưới tầm những lưỡi kiếm, mũi đòng và nhát búa của chúng. Từ lúc ấy, không ai còn nghĩ đến chuyện bảo vệ cho nhà vua rút lui. Anh ta bị thương trong khi ra sức siết chặt hàng ngũ bảo vệ Mình Rồng. Trước lúc cảm thấy đầu mình như muốn vỡ tung ra, anh còn kịp thấy chiếc thuyền chở Đức Vua đang xa dần trên dòng sông. Sau đó anh không biết đã nằm mê man giữa đống tử thi trong bao lâu. Khi anh mò mẫm giữa đống xác chết do một ý nghĩ duy nhất thôi thúc là làm sao tìm đường trở về quê nhà, khi ấy mặt trời đã lặn. Trong bóng hoàng hôn, một mùi hôi thối nồng nặc xông lên từ các xác chết đã trương sình mà hàng đàn ruồi nhặng đang bu đầy. Dòng sông đã ngốn đầy xương thịt người, không còn nước để chảy nữa mà chỉ toàn máu là máu, cũng là cái dòng máu sền sệt đang chảy từ đầu xuống vai dọc theo cánh tay và xuống đến các ngón tay anh đó... Bây giờ sau khi hồi dương được một lúc, anh biết rằng mình sắp phải chết ở đây mà không về được đến quê nhà, và một giọt lệ lăn xuống thái dương rồi mất hút trong lớp da tróc vảy sạm đen của các vết thương.

Nghe những lời đó, ít có ai trong dân làng không cảm thấy xúc động. Phi Hùng cảm thấy xấu hổ vì tuổi trẻ của mình đã được che chở bao bọc an toàn quá khi đứng trước cảnh người thanh niên trạc tuổi mình sắp chết trong chiều nay. Anh đưa đôi mắt khẩn khoản nhìn Nguyễn Trãi, người anh có thể làm được mọi chuyện. Nhưng Nguyễn Trãi vẫn đứng im bất động, hai tay khoanh vào trong hai ống tay áo, quai hàm cắn chặt.

Nguyễn Phi Khanh nói với chàng trai đang hấp hối:

- Này con, con đã hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ tính mạng của Hoàng Thượng, con đã giữ trọn lời thề trung thành và đã hoàn thành nhiệm vụ một cách cao cả. Hành động đáng tán dương ấy đã làm vinh danh cho gia đình con, cho làng quê con và cho toàn thể đất nước. Bàn thờ con lúc nào cũng sẽ nghi ngút khói hương tưởng nhớ.

Một tia sáng xa xăm chợt ánh lên trong đôi mắt đã mờ tối của người lính bị thương. Đôi môi khô khốc và tím ngãi của anh còn cố phát ra vài lời nữa nhưng chỉ nghe một âm thanh ùng ục. Người lính trẻ đã tắt thở giữa Nguyễn Phi Khanh và các con cũng như các bô lão và dân làng đang vây chặt xung quanh anh.

Khi đã xếp đặt việc mai táng cho người xấu số và ghi tên họ, quê quán của anh ta xong, Nguyễn Phi Khanh nhắc lại dứt khoát ý định tiếp tục cuộc hành trình. Thật bất ngờ! Kể cả Nguyễn Trãi, vốn quen với tính cương quyết của cha mình, cũng không ngờ.

- Nhà Vua còn, thế thì hy vọng tiếp tục cuộc kháng chiến chưa mất hết! Trong tình huống khó khăn như lúc này, hơn lúc nào hết Hoàng thượng rất cần đến những ý kiến sáng suốt. Vậy làm sao các ông có thể khuyên tôi khoanh tay ngồi yên chờ quân Tàu đến nhà mà sai khiến tôi? Giúp Vua và hy sinh cho tổ quốc là bổn phận thiêng liêng của mỗi người. Làm sao dám cho rằng mình trung thành với Đức vua của mình bằng một thái độ như thế?

Ai nấy đều lặng im nín thở. Lúc ấy, vị bô lão già nhất tên Sinh lên tiếng:

- Xin ngài tha thứ cho những lời mạo phạm của lão già này. Sao một sĩ phu nổi tiếng như ngài mà lại cố chấp đến thế? Tôi không muốn quấy rầy ngài, nhưng nếu lòng yêu nước thôi thúc thì ít ra ngài cũng đừng nên ra đi một cách mù quáng. Sách Luận Ngữ có viết: "Phải dùng Lễ để cai trị bầy tôi và bầy tôi dùng Tín để phục vụ Vua của mình". Vậy thì Đức vua của ngài sẽ được gì khi có một bề tôi trung thành tự dẫn mình vào chỗ chết? Ngài có dám bảo rằng cái chết của ngài cũng có ích như cái chết của người lính kia không?

Vị bô lão thứ nhì nói thêm:

- Ngạn ngữ có câu: "Khôn sống, mống chết": ngài nên suy đi nghĩ lại thật kỹ về chuyện này.

Còn các bô lão khác đều gật đầu tán đồng ý kiến của vị bô lão già thứ nhất.

Nguyễn Phi Khanh chỉ trừng mắt nhìn họ.

Chắc chắn không lời lẽ nào có thể thuyết phục ông thay đổi quyết định trên đây. Nguyễn Trãi nhân cơ hội đứng bên đầu giường người hấp hối đã đề nghị với cha dời lại đến sáng mai hãy lên đường. Nguyễn Phi Khanh cuối cùng đã chấp thuận lời đề nghị đó với một nụ cười lạnh lùng để rồi khi vừa bước ra khỏi làng ông lại bừng bừng cơn giận như bó củi khô bén lửa hồng nhiếc móc các bô lão toàn là một đám hèn nhát chỉ mới trông thấy lưỡi gươm là đã run lên rồi, và dù đã kề bên miệng lỗ mà cũng còn tiếc cái miếng da cóc sần sùi của họ! Trong lúc triều đình lâm nguy, quân đội tán loạn thì những kẻ phản bội này lại dám quay lưng lại với Đức Vua của mình. Họ chẳng biết xấu hổ là gì? Chính họ, do ảnh hưởng của mình, đã làm nhụt nhuệ khí và lôi kéo theo sự sụp đổ của vương triều và giúp sức cho quân xâm lược. Cậy vào các chức vụ Cai Tổng, Phó Tổng của họ trước kia, đó là chỉ nói đến những kẻ có chút địa vị, hoặc dựa vào chút ít chữ nghĩa, họ thống trị một cách độc đoán đám dân làng ngu dốt, bằng tất cả quyền uy của những ông già ích kỷ và xấu xa, chỉ muốn nhìn đất nước theo cái tầm nhìn hạn hẹp của họ. Họ có quan tâm gì đến vận mệnh tương lai của đất nước không? Họ chỉ cựa quậy khi thấy có chút ít lợi lộc nào đó thấp thoáng xa xa để tranh giành và cấu xé nhau! Mô Phật! Ai có thể làm ông nguôi cơn thịnh nộ đang làm ông muốn nghẹt thở. Ông ghét cay ghét đắng bọn lừa gạt lắm lời này. Họ không chịu nằm yên trong sự hèn nhát của họ mà còn muốn lôi cuốn kẻ khác theo nữa!

Phi Hùng sợ xanh mặt, thỉnh thoảng liếc nhìn người anh đang trầm tĩnh bước đi bên cạnh.

Khi nhìn thấy cây thông và căn nhà mà ông không hề muốn trở về để nhìn thấy lại, cơn giận của vị sĩ phu già càng bùng lên mạnh mẽ, trong khi đó trái tim của Nguyễn Trãi lại run lên hoan hỉ.

Người nữ tì tên Nụ Nhài trông thấy, la lên rồi biến mất. Và bà Thị Thanh, vợ Nguyễn Trãi, đỏ mặt vì xúc động chạy ào ra đón họ trong bộ quần áo đơn giản mặc trong nhà. Những giọt nước mắt tái ngộ thay cho những giọt lệ chia ly.

Trong bữa ăn chiều dưới mái ấm gia đình, Nguyễn Phi Khanh vẫn giữ nét mặt nhăn nhó, ngay cả những trò đùa nghịch của hai đứa cháu với những chỏm tóc thẳng trên cái đầu cạo nhẵn cũng không làm ông khuây khỏa.

Việc còn nán lại Côn Sơn này thay vì lẽ ra phải vượt ngàn trùng nguy hiểm để đến gặp Vua Hồ rõ ràng là một cực hình đối với ông.

Nguyễn Trãi thì nóng nảy rít những hơi thuốc lào dưới cái nhìn trìu mến của người vợ đang ru đứa bé mới sinh. Ông tự hỏi: "Ta không có lòng yêu nước bằng cha ta ư?".

Từ lúc ấy ông không ngừng tự vấn!

Đêm ấy, sau khi đã vui thú gối chăn, Thị Thanh đang nằm im bất động như người chết, thì Nguyễn Trãi đưa tay vuốt má vợ đẫm đầy nước mắt, và hỏi:

- Vì đâu nàng quá sầu não như thế?

Nàng bắt đầu nấc lên:

- Hôm qua em đã nhìn thấy nét mặt của cha. Không còn nghi ngờ gì nữa, anh và cha sẽ ra đi khi gà gáy sáng. Từ khi biết anh sắp phải đương đầu với bao nỗi hiểm nguy, em tìm đâu ra lòng can đảm một lần nữa để nói lời tạm biệt với anh?

Và nàng lại càng nức nở.

Lòng dạ tan nát, ông siết chặt nàng vào lòng, vuốt ve cho đến khi nàng dịu lại.

- Phục vụ hay rút lui, hãy mặc cho số phận định đoạt.

Thực ra, ông đã cố tỏ vẻ thanh thản, nhưng trong thâm tâm thì trái ngược: một phần trong con người ông bảo ông phải theo gương cha, phần khác lại phản đối vì tin rằng bây giờ có chạy đến tiếp cứu cũng vô ích, và tiếp cứu ai đây? Nhà Hồ ư? Hết phương cứu chữa rồi vì họ đã đánh mất quần chúng. Cái quần chúng mà các bô lão là người phát ngôn của họ và đã làm cha ông nổi giận. Dù các bô lão ấy nhát như rắn mùng năm, nhưng họ cũng không kém khôn ngoan. Làm sao họ có thể đoán được những lý do khiến cha ông cố chấp như thế? Nó nằm ở một chỗ sâu xa hơn cái bổn phận trung thành của một bề tôi đối với quân vương, nó xuất phát từ nỗi hàm ơn của một nhà nho đã từng bị tiên triều gạt bỏ đối với triều đại đã trọng dụng mình. Liệu Nguyễn Phi Khanh có nhìn nhận điều này không?

Trống bên phía làng mạc đã điểm canh ba. Nằm bên ông, Thị Thanh đã thiếp ngủ trong khi vẫn còn run run vì những tiếng nấc. Chiếc cổ trắng ngần của nàng ngả trên chiếc gối bằng sứ. Dưới kia, trong đình làng, người lính trẻ đang nằm dài với cái sọ nứt nẻ! Biết bao chàng trai khỏe mạnh đã ngã xuống trên bùn lầy của các cánh đồng, những sự hy sinh hoàn toàn vô ích! Trong cơn lửa loạn ấy, điều gì đã xảy đến với cậu Mộng Dũ? Giờ đây, lúc mà ngọn gió hiu hiu đang lay lay mành trúc, có phải vị Nguyên soái Tả Tướng Quân ấy cũng đang nằm im trên một cánh đồng nào đó, da ngựa bọc thây hay không? Nghĩ đến đó, cổ họng Nguyễn Trãi nghẹn ngào cay đắng. Trong tình cảnh ấy, những bài học của ông ngoại và cha ông phỏng có ích gì, cái hư danh đạt được tại trường thi phỏng giúp được gì, khi mà đêm nay một thực tế chắc chắn và bi đát đang đè nặng lên ông: ý nghĩ về sự bất lực của mình trước nỗi thống khổ của nhân dân.

Trống lại điểm sang canh tư.

Ở phòng ngoài, cạnh bàn thờ, nơi mà bao nhiêu năm trước đây khi Thái Thượng hoàng Trần Nghệ Tông ra thăm Côn Sơn đã ngụ lại, Nguyễn Phi Khanh cũng không tài nào chợp mắt. Ông nằm xuống quyết ngủ để sáng sớm mai lên đường, nhưng những tiếng động nho nhỏ cũng làm ông tỉnh thức: tiếng sột soạt của những tờ giấy dán cửa sổ chốc chốc lại vọng đến như những tiếng thở than bi thảm. Bực mình vì những cây thông trước nhà không ngừng rên rỉ, ông trở mình và thấy cần phải xem xét lại quyết định của mình. Từ lâu, ông đã suy nghĩ về Nguyễn Trãi, và biết rằng Nguyễn Trãi đi theo ông chỉ vì lòng hiếu thảo chứ không phải vì xác tín. Ông có thực sự mong muốn điều đó không? Sự táo bạo của ông biết đâu lại đi ngược với Thiên Mệnh đã bộc lộ trong lá số tử vi của con ông?

Giữa những câu hỏi thiu thiu chập chờn, một giọng nói rất thân thuộc thầm thì bên tai ông:

- Nếu còn lưu giữ chút tình cảm xa xưa nào với ta thì đừng ra đi!

Ông mở bừng mắt ra. Những tia sáng ban mai đầu tiên xuyên qua bầu trời vừa tảng sáng lúc canh năm. Những người dân lành Côn Sơn chuẩn bị mang xác người lính trẻ về làng. Mặt trời mọc lên trên cánh đồng bình yên như thể đạo quân của Trương Phụ còn mãi tận bên Tàu và như thể Thiên Tử Hồ Hán Thương vẫn luôn luôn trị vì nước Đại Việt, ở đây tương đối bình yên an ổn. Còn ở nơi xa xa, trên những cánh đồng, một đạo quân bị đánh tơi tả và một ông vua đang cất bước lang thang. Ông có quyền lôi kéo các con mình vào một công cuộc không chắc sẽ thành công hay không?

- Chúng ta ở lại! - Ông nói với Nguyễn Trãi và Phi Hùng đã nai nịt sẵn sàng đang đứng chờ ông dưới hiên, và không giải thích gì cả.

Và họ đã ở lại, trong khi ấy Nụ Nhài, người nữ tì từ nãy giờ theo dõi cuộc ra đi của họ, chạy ào vào vườn để giấu nét mặt mừng vui.

—★—

Thế là do một trò trớ trêu của lịch sử, chiến tranh đã đưa Nguyễn Trãi về lại Côn Sơn sau 17 năm xa cách. Và rồi bây giờ cũng lại chính chiến tranh đã giữ chân ông lại đó.

Khi mà nỗi lo âu về bệnh tình nguy kịch của vợ ông và viễn cảnh một sự ra đi xa đất mẹ không còn làm bận tâm nữa, lúc bấy giờ Nguyễn Trãi mới khám phá ra rằng mình gắn liền với Côn Sơn và Côn Sơn thiết thân với mình biết bao! Những dây tơ ông đã dệt trong thời thơ ấu đến nay đối với ông vẫn còn thắm thiết như xưa.

Chính nơi đây, trong bầu không khí ẩn dật yên tĩnh này, vào một buổi sáng nọ ông ngoại đã dạy cho ông chữ đầu tiên. Cũng nơi đây, ông đã đọc, tay cầm bút lông để ghi chép những quyển sách đầu tiên, đã soạn những bài luận văn đầu đời. Tóm lại, đây là nơi vạch ra con đường mà ông sẽ đi theo sau này: con đường của một nhà nho.

Chính trên những con đường làng này, ông đã học quan sát theo như nguyên tắc: người ta không thể biết được các sự việc ở đời nếu không bao giờ nhìn thấy công việc cày bừa đất đai, không bao giờ đụng đến một ngọn cỏ và không biết tháng nào là mùa gieo và tháng nào là mùa gặt.

Chính nơi cái xứ sở có những ngọn núi xanh rì này đã sinh ra, lớn lên và định hình cái sức mạnh tiên quyết nâng đỡ mọi người dân Đại Việt: đó là tình quê hương.

Mỗi buổi hoàng hôn, ông đều cảm thấy một niềm sảng khoái y hệt như ông ngoại ông ngày xưa lúc dẫn ông lên đồi chỉ cho ông ngọn suối. Ngày nay, chính ông cũng theo con đường quanh co trèo lên, cảm thấy mình như sống lại những chuỗi ngày xanh, khác nào như ông ngoại ông ngày xưa cũng đã từng như thế, chiếc gậy của ông cũng đang gõ lên con đường xương xẩu gồ ghề nhuộm một màu vàng, theo nhịp những vần thơ mà ông vừa đi vừa sáng tác.

Phía dưới kia, biết bao sự vật đã đổi thay. Trước hết là ngôi nhà cổ, với hàng rào cây đinh tán và cây dâu bao quanh, cây cầu gỗ bị mối ăn, rồi đến cái nóc của túp lều hóng mát mùa hè đã bị một cơn lốc nào đó cuốn đi, và còn bao nhiêu chi tiết khác bị bỏ phế. Còn ở đây trên ngọn đồi, ông đang ngồi với nghiên bút, làn gió nhẹ vẫn vờn các ngọn tre, con suối vẫn reo vui bên bờ đá dốc mà ông và Hoàng thân xưa kia thường ngồi trên đó, và có một ngày nọ ông đã khóc... Từ nơi này nhìn xuống cảnh vật dưới đồng bằng vẫn thế. Và ở phía đông, bên kia rừng thông, những thôn nữ vẫn mãi mãi cúi mình trên những thửa ruộng, cảnh cũng như người tưởng chừng như tồn tại muôn đời. Thời gian không ngừng tiêu hủy rồi lại phục hồi! Nơi đây, ông ngoại đã dạy cho ông biết phải đổi biết bao mồ hôi và lao nhọc mới có bát cơm và sự cao quý của một tấm lòng luôn biết hướng vọng về đỉnh núi của nơi chôn nhau cắt rốn, cho dù có quyền cao chức trọng thế nào đi nữa. Ông xúc động thầm nghĩ: mình đã đỗ Tiến Sĩ và làm quan nhất phẩm triều đình để rồi cuối cùng lại quay về cai quản những khóm cúc cành thông của làng quê cũ, dường như là để trung thành với một lời hẹn mà ông ngoại ông đã đính ước qua bao nhiêu là năm tháng.

Bây giờ là giờ Thân, trong bóng chiều từng ngọn tre như nổi bật và các lùm cây bát ngát một màu xanh biếc, Nguyễn Trãi ngồi trên tảng đá dốc bên bờ suối, tà áo dài của ông phất phơ trong gió nhẹ, lặng ngắm cánh đồng phía dưới chân mờ dần trong ánh hoàng hôn dần buông. Ngọn đồi càng có vẻ nhẹ nhàng và lung linh như gần với trời hơn, thì mặt đất trên các cánh đồng càng có vẻ nặng nề hơn và hạ thấp xuống hơn.

Biết bao con đường đã trải qua kể từ lần đầu tiên khi Hoàng thân chỉ cho ông thấy Côn Sơn từ trên cao nhìn xuống, và buổi sáng cuối cùng hôm ấy khi ông đến đây để che giấu nỗi buồn! Ông nhớ lại thuở thiếu thời khi ông đại diện cho các cậu đứng ở đầu giường ông ngoại hỏi những câu hỏi cuối cùng: "Ngoại ơi, sự hài hòa là gì? Lòng khoan dung là thế nào? Và đâu là ý nghĩa của cái chết?". Suốt bao nhiêu năm qua, những câu trả lời của ông ngoại đã dẫn dắt ông như những ngọn đèn trong đêm tối. Những lời giải thích xưa kia làm thỏa mãn thắc mắc của một đứa bé thì nay được đào sâu nơi ông, giờ đây đã là một sĩ phu. Nếu một ngày nào thằng Bảo, đứa con trai đầu lòng của ông đặt những câu hỏi về sự hài hòa, lòng khoan dung và ý nghĩa của cái chết với chính ông, ông sẽ trả lời sao đây? Lập tức ông sẽ nắm tay con và dắt lên đây. Và cứ tiếp tục mãi như thế! Nhưng so với Hoàng thân và cha mình, ông tự thấy mình có một số khiếm khuyết và nhược điểm. Nhất là cái khí chất lãng mạn, căn bệnh mà mọi người trong gia đình đều phải chịu đựng. Thay vì the lụa, ông lại thích ăn mặc xuềnh xoàng. Thay vì cưỡi ngựa như đi gió về mây, ông lại thích chống gậy trèo đèo lội suối, vai mang bầu rượu túi thơ. Lệ thuộc vào hư danh, nhưng ông lại thích tự ví với con chim Bằng! Ông mỉm cười tự nhủ: không biết có tên học trò nào dám noi gương mình không?

Ông đưa mắt nhìn lên bầu trời. Trong tất cả những gì ông còn nhớ, ông đã luôn luôn sống hài hòa với mây, núi, gió và cây cỏ trên ngọn đồi mà từ đó người ta có một cái nhìn cao rộng đối với mọi sự việc trên trần thế. Rồi đây, khi sự bấp bênh của số mạng như siết lấy cổ họng ông, và khi nỗi sợ hãi vì thấy cuộc sống mình lãng phí một cách vô ích làm quặn thắt ruột gan ông, ông lại thích lui về đây ẩn náu với túi thơ ngọn bút.

Mọi việc diễn tiến theo cơ Trời huyền bí, ông tự nhủ khi ngắm vầng dương nhuộm đỏ chân trời. Từ trước đến nay, khoa cử là con đường đưa ông đến danh vọng. Chắc chắn ông đã gặp may mắn khi còn trẻ mà đã đạt được địa vị cao. Nhưng bây giờ nhà Trần đã mất, nhà Hồ đang diệt vong, người Tàu đã chiếm đất nước, ông không thấy được con đường mình phải theo. Đôi lúc ông tự bằng lòng với việc tận hưởng những giờ phút nhàn nhã và sự tự do nội tâm trong khung trời đầy trăng và gió của Côn Sơn, ngâm to những vần thơ ngay khi chúng vừa xuất hiện trong đầu. Nhưng có lúc bị thôi thúc bởi ước mong cháy bỏng muốn lấp bể dời non, muốn đuổi quân xâm lược và xoa dịu những nỗi khổ của nhân dân. Ông lại bị giày vò bởi cảm giác mình bất lực, và siết chặt tấm chăn lạnh giá, ông trằn trọc trên gối suốt đêm. Có khi nào ông điều khiển được thời thế không? Với ông, "rồng có gặp mây, hổ có gặp gió" hay không?96Muốn phục vụ nhưng không biết phò ai. Muốn đến nhưng không biết đến đâu và bằng lối nào. Tổ quốc mà ông có thể lại đến hiện nay chỉ là một "Tổ quốc không có đất đai". Công cuộc mà ông có thể hãnh diện là một công cuộc phù du, và niềm vui mà ông có thể tự phụ chỉ là niềm vui vì biết được đôi ba chữ.97

Lòng đầy phấn chấn, ông hít một hơi thật lâu. Thời tiết tháng ba này thường có những con mưa rào làm cho không khí trong suốt như ngọc. Con suối kề gần bên đang tung tăng giữa các hòn sỏi kêu róc rách. Như một cái quạt được gấp lại, ánh nắng mặt trời đang lặn phía đỉnh đồi xuyên qua những cây tre đong đưa rọi đến chỗ ông. Trong cõi trần ai này, tìm đâu ra nơi ẩn náu hơn ở đây? Ông cảm thấy tình yêu quê xưa bừng dậy trong lòng với sức mạnh của biển Đông, trào lên môi ông bài ca đã được khởi đầu từ nhiều năm về trước. Ông chấm ngọn bút lông vào nghiên mực mới mài chưa khô, và tâm hồn bay bổng, ông viết:

Côn Sơn có khe,

Tiếng nước chảy rì rầm,

Ta lấy làm đàn cầm.

Côn Sơn có đá,

Mưa xối rêu xanh đậm,

Ta lấy làm chiếu thảm.

Trên núi có thông,

Muôn dặm rờn rơn biếc một vùng,

Ta tha hồ ngơi nghỉ ở trong.

Trong rừng có trúc,

Nghìn mẫu in biếc lục,

Ta tha hồ ca ngâm bên gốc.

Ngươi sao còn chửa về đi!

Nửa đời bụi bặm hoài lăn lóc,

Muôn chung, chín đỉnh có làm gì?

Nước lã, cơm rau miễn tri túc.

Ngươi chẳng thấy Đổng Trác ngọc vàng chất đầy nhà?

Nguyên Tải hồ tiêu tám trăm hộc?

Lại chẳng thấy Bá Di với Thúc Tề?

Thú Dương chết đói không ăn thóc?

Hiền ngu dù chẳng giống nhau đâu,

Cũng đều muốn thỏa lòng sở dục.

Người đời trong trăm năm,

Rốt cuộc như thảo mộc.

Vui buồn lo sướng đổi thay nhau,

Một tươi một héo vẫn tương tục.

Cồn hoang lầu đẹp cũng ngẫu nhiên,

Chết rồi ai vinh với ai nhục?

Nhân gian nếu có bọn Sào Do,

Khuyên hãy nghe ta ca một khúc.98

Ngòi bút thoăn thoắt của ông vừa dứt chữ cuối cùng, bỗng ông có cảm giác như có ai đang đứng sau lưng đọc trộm. Quay lại, ông bắt gặp một ông già đội một cái nón kết bằng hoa, mang một sợi thắt lưng bằng dây Nguyệt hạ hương. Ông đứng phắt dậy và nói:

- Thưa ngài du khách đáng kính, xin tha lỗi cho sự đường đột của tôi, tôi đã nhìn lầm vì có sự giống nhau như đúc, vì tôi luôn có cái bệnh mơ mộng hão huyền. Thoạt trông ngài có vẻ giống vị chủ nhân ông của nơi này xưa kia.

Nguyễn Trãi chào mừng ông già, và sau khi chào hỏi nhau xong, họ cùng ngồi xuống. Ông già vui vẻ nói:

- Anh có phải là vị Đình Nguyên được cử làm quan Ngự Sử cách đây bảy năm không?

- Thưa vâng ạ! Nguyễn Trãi đáp. Sao ngài biết?

- Ở Thăng Long và cả nước ai lại không biết anh? Ở chỗ tôi cũng có nghe tiếng tăm vang dội của anh. Tôi đã nghe kể rằng thời niên thiếu anh đã biết cần mẫn tích lũy kiến thức, anh rành từ binh pháp của tướng Trần Hưng Đạo đến y lý của Tuệ Tĩnh, cả đến thiền học của vua Trần Nhân Tông cũng rất gần gũi với anh, cũng như tư tưởng của Trương Hán Siêu và Chu Văn An. Đồng thời anh cũng rất sâu sắc trong việc so sánh các truyền thống dân tộc chúng ta với các truyền thống dân tộc Trung Hoa... Cho nên hôm nay may mắn được gặp anh, tôi rất thích được trò chuyện với anh

Nguyễn Trãi cúi mình nói:

- Xin ngài du khách đáng kính, chớ tin vào những tiếng tăm hão xung quanh tên tuổi của kẻ hèn này, một kẻ mà trong thời buổi loạn ly này không biết cách nào và dựa vào ai để tránh cho dân lành khỏi nạn can qua.

Vị du khách đáng kính mỉm cười đáp:

- Nghe lời lẽ của anh tôi hiểu rằng anh rất nôn nóng hoạt động. Nhưng tôi e rằng anh còn phải chịu bó tay trong nhiều năm nữa. Con Phượng hoàng buộc phải bay đi một thời gian lâu, đang lúc đó con diều hâu sẽ tự do tung hoành.

Vì kính trọng, Nguyễn Trãi không dám nhìn thẳng mặt lão tiền bối, chỉ dám nhìn lén. Rõ ràng ông ta rất giống Hoàng thân. Có lẽ nào như thế chăng?

- Không biết tôi đã có vinh hạnh gặp ngài ở Côn Sơn lần nào chưa? Trông ngài rất quen. Giọng nói của ngài cũng vậy!

Người đối thoại không đáp mà chỉ mỉm cười. Nguyễn Trãi tiếp:

- Từ khi chiến tranh xảy ra trên quê hương chúng ta, sự cô tịch của quê nhà giữ chân tôi lại. Nhưng vì có học nên tôi phải... Tôi chỉ có một hoài bão: nhìn thấy quê hương thanh bình dưới quyền cai trị của một bậc minh quân. Nhưng làm sao nhận ra người ấy? Những năm dài dùi mài kinh sử đã dạy cho tôi mọi điều, lẽ nào lại thiếu sót điều này? Từ khi trở về Côn Sơn, lúc nào tôi cũng bị ám ảnh bởi cảm giác về sự vô dụng của việc học. Chỉ có thi ca là đem lại cho tôi chút ít nguồn vui.

Người sĩ phu trẻ kinh ngạc vì thấy tự nhiên mình lại đi bộc bạch tâm can cho một người xa lạ như thế! Tuy nhiên ông không thấy xấu hổ tí nào, mà chỉ có cảm giác được nguôi ngoai thoải mái.

Ông già nghe anh nói, gật đầu:

- Kiên nhẫn! Kiên nhẫn! Hỡi con! Xin con cho phép lão già này xưng hô một cách thân mật như thế. Con là một trong những người chỉ chọn minh chủ vì lợi ích của nhân dân. Khi thời điểm đến, chính cha con, là người được biết về thiên mệnh của con, cũng sẽ phải nhường bước. Và chỉ có một mình con, một mình con mà thôi, sẽ phải dấn thân hành động.

- Thưa ngài du khách đáng kính, do đâu mà thiên mạng con lại quá đặc biệt như thế? Con đã bước vào tuổi 27 và con chưa làm được gì ngang tầm với những ước mơ của con. Nỗi ám ảnh muốn phụng sự Tổ quốc và nỗi lo sợ không được dùng luôn luôn đeo đuổi con. Trên bước đường công danh, ngay khi vừa chiếm được bảng vàng, nỗi lo sợ và ám ảnh ấy đã bám theo con rồi. Con có giữ đúng lời hứa với Hoàng thân Trần Nguyên Đán, với bà Hoàng và với người mẹ đáng kính của con không? Các ngài có thực sự lấy làm vinh dự và vui lòng không? Ôi! Xin ngài thứ lỗi. Cuộc trò chuyện này chỉ xoay quanh cái tôi vô vị của con. Con người con không đáng được quan tâm nhiều như thế. Vừa rồi vì bận nghĩ đến bài thơ mà con quên chưa hỏi quý danh ngài.

- Ta là ai, điều đó không quan trọng. Nói về một ông già thì ích lợi gì đâu? Nỗi âu lo sâu sắc và chân thành của con là điềm báo một thiên chức cao cả, và - ông già ranh mãnh nói thêm - cũng là của lòng kiêu ngạo. Người khờ không đặt quá nhiều câu hỏi như thế! Nhưng đặt quá nhiều câu hỏi thì cũng dễ lỡ dịp. Con phải hành động sáng suốt vào đúng thời điểm con đã chọn. Thời điểm ấy chưa đến đâu. Trước đó con sẽ phải chịu những điều phiền nhiễu, những lời nhạo báng và châm chọc của những kẻ phản bội và những tên ngu ngốc, những áp lực và đe dọa của kẻ thù. Con cần phải có thật nhiều nghị lực và lòng chính trực trước khi gặp được Rồng Thiêng. Nhưng - ông già nhìn vào bài thơ kẹp giữa các ngón tay của chàng trai đang lay động trước gió chiều - tài nghệ vô song của con sẽ giúp con. Con đã bảo ta rằng ông ngoại con là chủ nhân của nơi này phải không? Hãy tin ta, con người của đồi núi ấy hiểu Nguyễn Trãi, đứa cháu của ông ta, cũng là một con người của đồi núi, rõ hơn ai hết! Sẽ có ngày con gặp một cánh đồng với những dòng nước êm ả, và ngày đó số mạng con sẽ được ấn dấu dứt khoát. Hãy kiên nhẫn, Nguyễn Trãi…

Lúc ấy dường như bóng tối dày thêm và nuốt chửng ông già. Vị du khách đáng kính cứ từ từ xa dần. Chỉ còn một cái bóng mờ đi trong bóng tối, và trước khi khuất hẳn, ông già còn nói những lời cuối cùng như sau:

- Hãy tận hưởng thời gian tạm lưu lại quê nhà. Côn Sơn đối với con mãi mãi sẽ là những chặng đường hạnh phúc trên cuộc hành trình dài tiến về định mệnh của con. Hãy gìn giữ chu đáo ngôi miếu của ông ngoại con để luôn tưởng nhớ đến người. Than ôi! Tài và Đức là nỗi bất hạnh cho những kẻ được chọn, và "chữ tài liền với chữ tai một vần". Con hãy nhớ lấy lời ta: thiên mệnh của con sáng chói cho dù cả ngàn năm trôi qua cũng không làm lu mờ ánh hào quang của nó...

Người du khách biến mất một cách bí ẩn cũng như khi xuất hiện.

Thâm tâm Nguyễn Trãi biết rằng có gọi có tìm cũng vô ích. Dù vậy, chàng thanh niên vẫn tiếp tục gọi và tìm kiếm khắp ngọn đồi khá lâu, vừa để xoa dịu đầu óc căng thẳng, vừa để giảm bớt sự nuối tiếc gay gắt đột nhiên bùng lên trong lòng... và nếu đó là... Nhưng cả ngọn đồi tuyệt không một bóng người, chỉ có những bóng hàng tre san sát rung rinh.

Nguyễn Trãi theo đường mòn trở xuống chân đồi mà trong lòng rối bời chưa từng thấy, càng rối hơn bởi những tiếng trống đồng mà giờ đây ông nghe giục giã rền vang trong huyết quản. Trong ông, một con người mới lạ đã thay chỗ cho cái con người lúc chiều tà leo lên đồi Côn Sơn. Côn Sơn, ngôi làng của ông, với những cây thông uốn cành trong gió và tiếng reo vui của dòng suối, Côn Sơn rộng lớn như chiều kích bao la của thiên mạng ông vừa được vị du khách đáng kính cho biết, chiều kích của cả nước Đại Việt!

Trong niềm phấn khích, ông không lưu tâm đến sự kiện là chính sự kết hợp hài hòa giữa núi non và sông nước đã khắc họa nên thiên mạng của ông, thiên mạng không thể cưỡng lại được. Và sự hài hòa ấy lại đóng ấn lên định mệnh ông với dòng máu tuôn đổ.

[←95]

Quân lính nhà Hồ có 25 "Vệ", mỗi "Vệ" gồm 2.400 người.

[←96]

Câu chuyện kinh Dịch có nghĩa là: sĩ phu ưu thời mẫn thế gặp được minh quân.

[←97]

Truyện trong Tuyển tập Thơ Nông của Nguyễn Trãi.

[←98]

Bài Côn Sơn ca, nguyên tác chữ Hán, của Nguyễn Trãi.