← Quay lại trang sách

Chương 4

Quán trọ và khu vực xung quanh bến cảng đông nghẹt dân làng cùng những nhà buôn đang ồn ào tranh cãi về công việc của họ dường như không hề có chiến tranh.

Những người chèo thuyền qua lại như thoi đưa giữa hai bờ con sông lớn nước chảy lặng lẽ và đỏ ngầu. Những chiếc tam bản cập bến đậu san sát chất đầy nào là củ nâu và chè, rau cải và gà vịt kêu inh ỏi trong lồng. Người qua kẻ lại tấp nập, chất hàng xuống hoặc đổ hàng lên. Vài nhóm thủy thủ đang kề vai có lót một miếng vỏ cây để kéo tàu của họ. Tiếng cười, tiếng hò la rộn rã trên mui thuyền. Họ kêu réo, chửi rủa, chọc ghẹo nhau. Vào giờ Mão này, những bạn hàng ngồi xổm trên các chiếc xuồng con cố nài nỉ khách mua mở hàng, và vì các người khách mua mở hàng lợi dụng dịp này để trả giá rẻ nên họ chửi với theo nghe chát chua. Tất cả quang cảnh ồn ào náo nhiệt trên cho thấy đây là chợ phiên ở làng Hải Dương.

Trong quán trọ, đông nghẹt người ngồi ăn uống, hút thuốc và la hét trên những tấm ván kê sát nhau. Người gọi cơm, người đòi nước mắm, kẻ kêu rượu, khiến chủ quán không còn biết quay đầu về đâu nữa, và ông thét gọi người chạy bàn đầu tóc rối bù, nhưng người này làm việc nhanh không hơn một con sên.

- Đồ ngốc! Cái gì cũng đợi bảo! Mang mấy tô cháo và ấm trà này đến cho ba người ngồi dưới mái hiên, rồi lại đây ngay đem rượu đến cho ông thầy tu già ngồi đằng kia. Thật là khô nước miếng với một thằng lờ khờ như mày! - Ông ta cằn nhằn trong khi tên hầu bàn đã chạy xa trong những tiếng cười nhạo của đám thực khách.

- Ê! Túm lông trâu! Lại đây chút coi

Một ông lái buôn mặt phồng lên như bọc mo cau thét lên với thằng bé giúp việc sắp quay đi với những điều ông ta căn dặn:

- Nếu nó muốn mua con heo này, nó phải trả tiền. Đừng để tên ăn chặn đó lừa nhé, hiểu không?

- Ông chủ cứ tin tôi! - Chú bé đáp và chạy đi. Vì vội vã, anh ta xô ngã một người đi đường đứng bên ngoài. Thấy nét mặt và dáng vẻ của người ấy không giống nông dân cũng chẳng phải nhà buôn, thằng bé bối rối và ấp úng: - Xin ông tha lỗi!

Thật vậy, mặc dù ăn mặc không khác gì một nông dân, cũng đôi dép cói, áo vải nâu, nón lá, nhưng ba người khách đi đường ngồi dưới mái hiên cách xa bầu không khí nồng nặc mùi tỏi phi, mùi mắm tôm và mùi hôi của những thân người ít tắm gội, vẫn có dáng vẻ và diện mạo của những nhà nho thanh nhã. Dù họ đã cẩn thận cắt hết móng tay rồi, nhưng cách họ thưởng thức trà thì dù không tinh ý cũng nhận ra ngay.

Trả tiền xong, họ định đi tìm tay chèo thuyền đã nhận lời đưa họ qua sông, thì đúng lúc ấy một tên lái buôn mặt phì nộn xuất hiện ở cửa quán la lối om sòm đòi chiếc thuyền ông ấy đã mướn.

- Cái tên chèo đò khốn nạn trốn vào cái xó quỷ quái nào rồi? Mày có gặp nó không? - Ông hỏi thằng nhỏ đầy tớ vừa quay về với vẻ mặt rạng rỡ - Nó tưởng tao bỏ tiền ra mướn nó để cho nó ngủ chắc?

Tay chèo thuyền ở gần đó. Hắn khúm núm chạy đến tức thì. Hắn cũng chính là kẻ mà ba vị khách trên kia đã dặn trước. Họ nhận ra hắn ở đôi cánh tay gầy như que tre, và họ tiến đến.

Tên nhà buôn to béo la lên:

- Chà! Tao mà biết trước cái trò ma mãnh này của mày! Mày cho mướn cái thuyền của mày hai lần! Đồ lừa đảo! Đợi tao đến Nha Môn thưa, mày sẽ nhừ đòn.

Lúc đó, một ông thầy tu có vẻ say từ trong quán lủi ra xô thẳng vào ông nhà buôn:

- Ối trời ơi! Một cuộc gặp gỡ tiền định! - Vị thầy tu xoa đầu - Xin tha lỗi cho một ông lão vốn quen uống rượu.

Trong khi tên lái buôn cười ầm, ông già đã lôi ba vị khách đang còn sửng sốt vào một góc.

Nguyễn Trãi từ trong đáy sâu của ký ức đã nhận ra cái vẻ thoát tục và nét mặt hơi hoang dại của Đạo Sư Vô Kỷ. Ông lên tiếng:

- Thưa Hiền nhân đáng kính, ngọn gió lành nào khiến xui tôi được gặp lại ngài hôm nay sau bao năm trời biệt vô âm tín? - Và ông vái chào theo tục lệ.

Vô Kỷ cúi chào Nguyễn Phi Khanh và nói:

- Tôi tớ ngài chỉ là một đạo sĩ hèn mọn trên đường đi đến tu viện ở Thanh Hóa. Đã từ lâu tôi được nghe danh tiếng của ngài, thưa ngài Tư Nghiệp, và...

Nguyễn Phi Khanh ngắt lời:

- Từ nay về sau, đề cập đến điều ấy có ích lợi gì đâu? Ông chỉ biết trước mắt ông hiện giờ là ba người bộ hành sắp qua sông, thưa hiền nhân đáng kính.

- Nếu tôi ở địa vị ngài, thưa ngài - Vô Kỷ mỉm cười nói tiếp - tôi sẽ không tiếc nếu phải lỡ một chuyến đò trong tình trạng cải trang như thế này để khỏi phải đi chung với cái gã lái buôn thô lỗ ấy vốn không thích đi chung với các ngài tí nào. - Ông ngừng lại để cho ba vị khách nhận rõ rằng ông ta nói thật, rồi tiếp - Trong cái thế giới đầy xấu xa và nhơ bẩn này, không nên hấp tấp. Ở đây khó nói quá, chúng ta tìm một chỗ khác kín đáo hơn đi!

Và ông dắt họ đến một lối nhỏ đằng xa, vào một tửu quán vắng khách vào lúc sáng sớm này. Khi đã lên lầu, lão đạo sĩ gọi rượu và một đĩa thức ăn.

Sau khi đã cạn một cốc rượu, Vô Kỷ dè dặt mở đầu bằng lời khen ngợi Nguyễn Trãi đã không phụ lòng kỳ vọng mà người ta đặt nơi cậu bé thần đồng mà ông đã gặp ở Côn Sơn xưa kia. Đang nói, ông chép miệng tỏ vẻ hài lòng trước một chàng trai dung mạo khôi ngôi tuấn tú đang ngồi trước mặt ông và cái nhìn nghiêm trang của chàng không còn nét thắc mắc nữa mà bộc lộ uy phong của một đầu óc đầy trí lự.

Lão đạo sĩ nói:

- Khi chúng ta tình cờ gặp lại nhau thì các ông lại tính đi qua bên kia sông. Vậy các ông không biết là quân Tàu đang lùng bắt các nhà nho ở bên đó sao? Một mạng lưới rộng lớn và chặt chẽ đang được bủa ra.

Nguyền Phi Khanh buồn bã đáp:

- Thì cũng như ở Côn Sơn, đó là lý do tại sao chúng tôi có mặt ở đây. Chúng tôi cũng có một mái nhà, một ngôi làng, nhưng bây giờ chúng tôi phải sống như những kẻ lang thang đầu sương gối cỏ.

- Các ông đừng đi xa hơn nữa, và nếu các ông tin lời của người tu hành hèn mọn này thì đừng có lo nghĩ và có hoài bão nào khác hơn là bảo trọng tấm thân để hy vọng vào một ngày sẽ tới, vì tôi khẳng định với các ngài là hiện thời nước Đại Việt đang bị đô hộ.

Khi nào? Cách nào? Và bằng những thủ thuật gì? Nhờ đâu ông ta biết được những điều mà ông ta thuật lại một cách rành mạch đến từng chi tiết như là một người chứng kiến các sự việc vốn xảy ra tại nhiều nơi trong cùng một lúc? Cũng như Hoàng thân Trần Nguyên Đán và phu nhân thuở xưa, ba vị khách bộ hành phải nhìn nhận rằng điều mà lão đạo sĩ nói ra có tính chính xác như của một chứng nhân thật sự.

Tóm lại: Vào đúng ngày 11 tháng 5 năm Đinh Hợi (1407), sau khi vừa đánh vừa chạy về Thanh Hóa rồi sau đó lại rút về Nghệ An, Hồ Quý Ly đã bị bắt ở bến Kỳ La, tỉnh Hà Tĩnh, bị nhốt vào một chiếc cũi và bị lưu đày sang Tàu. Trong ngày bi thảm đó, Phó Tướng Liễu Thăng đã đem quân đánh tập hậu phá tan quân Đại Việt. Vì không thể chạy trốn bằng thuyền trên dòng sông Lam đang cạn khô, nên quân Đại Việt đã bỏ thuyền chạy tán loạn. Và thật đúng là:

Trời làm hạn hán, Trời gây lụt lội!

Bởi vì khi các toán quân Nhà Minh vừa đến nơi thì mưa bắt đầu rơi, và chỉ trong khoảng thời gian vừa chín một nồi cơm, nước sông đã dâng lên nhiều thước, đến nỗi quân Tàu với một rừng tàu thuyền đã đến được tận bến sông nhỏ ở Kỳ La. Thoạt tiên, Liễu Thăng và các sĩ quan thuộc hạ vì không biết mặt Thái Thượng hoàng nên đã không đuổi tiếp lên phía trước và để thuyền của nhà vua kịp lẩn trốn. Nhưng những tên mật thám người Việt lén núp trong những chiếc thuyền đi theo đã chỉ cho quân Tàu: "Đừng để cho Hồ Quý Ly và tên Loan chạy thoát. Hãy bắt sống chúng nó!". Các tay chèo đã ráng hết sức bình sinh và thuyền của nhà vua như lướt bay trên mặt nước ngầu bọt. Tất cả mọi người đang dồn hết nỗ lực vào đó thì làm sao thấy được ở phía sau quân Tàu đang đến gần với những cái móc sắt? Họ chỉ vừa kịp cảm thấy thuyền bị móc lại thì đã bị đâm thủng ngay giữa ngực và xô ngã xuống sông, trong khi đó, chỉ trong chớp mắt, Hồ Quý Ly và Loan đang định đâm họng tự sát thì bị tước mất vũ khí, bị trói gô lại và đem lên thuyền chỉ huy của quân Tàu. Ngay hôm sau các đạo quân Nhà Minh bao vây núi Cao Vọng nơi Vua Hán Thương và một vài Hoàng thân đi theo đang lẩn trốn, và đã bắt được Nhà vua. Những cận thần trung tín cuối cùng đã tự sát chứ không chịu đầu hàng nhục nhã. Còn một số khác bị bắt chở sang Tàu trên những chiến thuyền thì đã trầm mình xuống biển.

Về phần viên Thái giám Loan, vì trong suốt bao nhiêu năm núp bóng Hồ Quý Ly, hắn đã làm quá nhiều điều tàn ác và thâm độc nên đã gây oán hận ngút trời, đến nỗi các quan lại Đại Việt đã xin quân Tàu cho phép họ xét xử và toàn quyền định đoạt về số phận của hắn ta. Nhưng tội của hắn nhiều quá, và để đền hết các tội ấy phải có hàng loạt cực hình mà chỉ một mạng sống của hắn thôi thì không đủ! Vì không thể bắt hắn phải chịu hình phạt trong "chín tầng địa ngục", trong đó kiếp này qua kiếp nọ, tội nhân bị rắn đến moi bụng, chim ưng moi gan, một cái vòng xích nghiền sọ, và dùi nung đỏ châm vào bàn chân - nên thay vào đó các quan tòa đã quyết định bắt hắn chịu hình phạt thường dành cho phụ nữ. Vì xét cho cùng, Loan có phải là một nam nhân đâu?

Thế là lúc canh năm, ngày 15 tháng 5, trên sân chợ Cửa Đông ở phủ Đông Kinh Thành, nơi mà Loan đã từng ra lệnh gia hình biết bao nhiêu người, và cũng là nơi mà Trần Thiêm Bình đã phải chịu cực hình ba ngày trời, hôm nay, cũng tại nơi đó, viên Thái Bảo đại thần bị chính những con voi của ông ta dày xéo. Đứng trước tất cả những người đang sôi sục ý muốn báo thù, muốn thấy hắn không còn cái vẻ uy nghi cao ngạo mà phải bò lết van xin một cách hèn nhát đúng với bản chất của giai cấp đáng ghét của hắn, thì hắn lại đối diện họ bằng một gương mặt láng trơn như của một pho tượng mới sơn phết. Khi người ta ra lệnh cho hắn quỳ xuống để voi có thể dễ dàng quấn lấy thì hắn lại cứ lừng lững đi thẳng đến trước mặt con vật đồ sộ. Con vật này dù đã được kích động vẫn không dám thi hành bản án với người chủ cũ của nó. Trước một đám đông đang khiếp sợ và kinh ngạc vì thấy tử tội can đảm quá, người ta đã phải lặp lại án lệnh cho con voi để nó thực hiện từng điểm một. Sau đó bằng nhiều cách thì người ta đã chọc tức con voi đến khi cuối cùng nó quyết định cuốn lấy tên Thái Bảo, tung lên không và xóc hai đầu nhọn hoắt của cặp ngà vào, rồi tung hứng nhiều lần như thế trước khi quẳng hắn xuống đất, toàn thân đẫm máu và lấy chân dày lên không khác gì một bãi đờm.

Con người từng là tai mắt của nhà vua đã phải kết liễu cuộc đời như thế đó! Còn Hồ Quý Ly - hiện thân cuối cùng của một triều đại kéo dài gần bảy năm - thì bị đóng cùm tay và chân đưa về Nam Kinh để bị xét xử cùng với các con ông là Hổ Hán Thương, nhà sáng chế Hồ Nguyên Trừng và nhiều Hoàng thân khác thuộc dòng họ nhà Vua.

Khi đó, trong đất nước đã bị đổi tên lại là Giao Chỉ, người của Thiên Triều kiểm kê tất cả mọi thứ tài nguyên trên đất dưới biển, kiểm tra dân số ở đồng bằng cũng như ở vùng núi, bắt những người nổi tiếng và có tài với mục đích duy nhất là đem về Tàu sử dụng. Và tất cả những điều đó chỉ là mới bắt đầu.

Kể xong, Vô Kỷ nốc một ly rượu đầy, rồi nhìn quanh xem có ai rình nghe trộm không và bắt đầu đọc:

"Một cơn lốc không thể kéo dài suốt cả buổi sáng.

Một trận mưa không thể rơi suốt một ngày.

Ai làm ra chúng? Trời và đất.

Nếu những hiện tượng của Trời đất thà còn không trường tồn,

Thì làm sao những công việc của con người bền vững mãi được?"99

- Đó phải chăng là quy luật "Phản Phục"? - ông đưa mắt nhìn Nguyễn Trãi.

Nhiều năm sau này người sĩ phu trẻ ấy mới nhớ lại đôi mắt tin tưởng và mang tính mệnh lệnh ấy của Vô Kỷ. Còn ngay lúc này, trước người cha đang tuyệt vọng vì niềm hy vọng cuối cùng vừa tắt lịm, ông chỉ còn biết thương cảm với cha bằng tâm tình hiếu thảo. Nguyễn Trãi thì khác, niềm hy vọng của ông không dựa trên triều đại nhà Hồ, vốn cũng là một triều đại mong manh như các triều đại trước và sau đó, mà niềm hy vọng ấy dựa trên sự trường tồn của dân tộc Việt, đã từng trải bao cuộc chiến tranh, bao lần bị chinh phục và xâm lăng. Một dân tộc đã tạo nên những cánh đồng, những bình nguyên, đã đắp đê, đã trồng những lũy tre quanh làng, và các nấm mồ của nó còn rải rác trong phong cảnh. Dân tộc ấy bằng chính đôi tay mình đã nhào nặn xứ sở này giống hình ảnh của nó.

- Tôi vẫn vững một lòng tin! - Ông buột miệng thốt lên điều đang suy nghĩ trong đầu.

Vô Kỷ mỉm cười thông cảm trong khi Nguyễn Phi Khanh đau nhói tâm can nhảy dựng lên:

- Con mê sảng à? Quân xâm lăng dày xéo đất đai của chúng ta, bắt Vua chúng ta một cách nhục nhã, đày ải sang Tàu cùng với gia đình, săn đuổi các sĩ phu của chúng ta như săn những con mồi ngon, gom góp các tài nguyên của chúng ta như thể của chúng nó, vơ vét hết những gì chúng thích, thế mà con lại bảo là tin tưởng! - Ông giơ hai tay lên trời - Con có điên không? Hãy mở mắt một chút và nhìn xung quanh con: ai nấy đã quên số phận của đất nước, không chút phẫn nộ, không hề xấu hổ, họ chỉ lo vùi đầu vào các việc riêng tư của mình, kẻ lo đếm tiền, người lo đầu cơ gạo, kẻ lo buôn heo, người lo ăn uống cho tràn họng. Có phải đó là cái loại người mà con tin tưởng không? Hay là những tên thỏ đế nhát gan ở Côn Sơn sau khi đã khuyên ta nên ở lại nhà nhân danh sự khôn ngoan, kế đó lại cũng nhân danh sự khôn ngoan để khuyên ta ra đi, cái bọn đã để ta bao họ ăn uống mà không biết xấu hổ, và chỉ lo đến sự an toàn của họ hơn là của chúng ta? Có phải thực sự là những kẻ ấy củng cố lòng tin tưởng của con? Ôi thật là tai hại thay!

- Cha đáng kính! - Nguyễn Trãi nói - Xin cha đừng phiền não như thế! Suy nghĩ của con hướng về tương lai chứ không nhằm vào tình trạng hiện tại. Dân chúng không có người hiền tài để dẫn dắt họ, và vì bị thúc bách bởi cảnh bần cùng khốn khó, nên hiện tại họ vô liêm sỉ. Nhưng Tổ quốc chúng ta không bao giờ thiếu anh hùng. Có lẽ trong ít lâu họ phải ngậm hờn mài gươm dưới trăng trước khi chiến thắng một cách chắc chắn vào một ngày kia. Dân chúng sẽ trợ lực họ để lấy nhục rửa nhục. Con đoán chắc với cha điều đó!

- Nếu các ngài đã cân nhắc kỹ lời tôi nói - lão đạo sĩ nói - thì xin các ngài đừng tiếp tục đi về hướng nam, nơi đó các ngài sẽ bị nhận diện và bị bắt ngay tức khắc. Đây là điều mà kẻ tu hành bất tài này đề nghị với các ngài! Hãy lui lại và đang đêm lén trở về Côn Sơn, và bí mật đến ở động Thanh Hư mà Hoàng thân Trần Nguyên Đán đã bố trí hồi thế kỷ trước. Các ngài cũng sẽ đồng ý rằng nơi đó là một chỗ bí mật và có nhiều hang ngầm là những chỗ ẩn trốn rất chắc chắn. Khi đến đó rồi, các ngài hãy cho người con nhỏ nhất - ông chỉ Phi Hùng - về báo cho gia đình biết để mang lương thực đến và để giữ bí mật tuyệt đối chuyến quay về của các ngài. Chẳng phải là một diệu kế hay sao?

Cả ba đồng ý điều đó. Lão đạo sĩ nói thêm:

- Tôi không thể ở đây lâu hơn nữa, phần các ngài, hãy thực hiện càng nhanh càng tốt cái kế hoạch mà các ngài đã hạ cố đồng ý với tôi. Đó là điều hệ trọng đối với sự an nguy của các ngài. Thôi chúng ta hãy cạn ly và chia tay.

Trả tiền xong, họ sắp bước đi, thì Vô Kỷ nắm tay Nguyễn Trãi lại:

- Hãy trở lại Côn Sơn bằng con đường ngắn nhất. Đi thật nhanh. Một sự bất cẩn nhỏ sẽ tai hại ghê gớm!

Nhưng họ quên tính đến bản chất bướng bỉnh của Nguyễn Phi Khanh. Sau khi đi được độ 12 dặm, ông bắt rẽ qua Vân Sơn. Ở làng này có một người bạn đồng liêu tên Phan Nghĩa, làm ở Quốc Sử Quán đời Trần Nghệ Tông mãi đến đời Hồ Quý Ly. Ông muốn ghé thăm người bạn cũ ấy.

- Tại sao lại phải răm rắp theo lời của lão thầy tu quán?

Các con ông không dám cãi lại. Nón lá che mặt, họ tiếp tục đi giữa những cánh đồng đã gặt xong vì lúc này là cuối tháng năm. Trên bờ ruộng, nông dân đang bó rơm. Các ông đi qua mà không ai hỏi han gì. Nguyễn Trãi tự hỏi: "Chắc chúng ta trông không giống nông dân tí nào?", và chợt nhớ lại các trò hề của Từ Chi thời trước mà bật cười.

Khi họ nhìn thấy làng Vân Sơn thì màn đêm đã buông xuống. Nguyễn Phi Khanh nhìn lên trời và đột nhiên lấy tay che mắt. Ông nói với các con:

- Nhìn kìa, ánh sáng của chòm sao "Thiên Lao" át tất cả các sao khác. Vậy là có người trong chúng ta sắp bị bắt!

Nguyễn Trãi trấn an:

- Nhưng chòm sao "Đại Hùng" cũng lại vừa rực sáng lên nữa, cha nhìn xem! Đó là dấu hiệu cho thấy ít ra Trời còn che chở các sĩ phu.

Phi Hùng nhìn anh mình bằng một ánh mắt ngưỡng mộ nhưng xót xa của một cậu học trò biết rằng mình chẳng bao giờ bằng được thầy. Hình ảnh vị thần Khôi Tinh vẽ trên hộp bút của các nhà nho, một chân đạp trên cành đào, dù rất quen thuộc với anh, nhưng anh cũng chẳng biết nói gì. Thường là như thế. Vốn liếng chữ nghĩa của anh chỉ cho phép anh ngồi nghe cha nói, và vì không biết trả lời thỏa đáng, nên anh chỉ im lặng. Tư tưởng và khí chất của cha như trùm phủ anh đến mức tước mất tư tưởng và khí chất riêng của anh. Anh cũng ao ước được như người anh cả của mình: ngoài kiến thức uyên bác còn có đầu óc tự do phóng khoáng luôn lộ ra ngay trong lời lẽ rất cung kính.

Họ ghé lại một quán trọ ở ven làng sau khi đã xem xét và biết chắc là không có một lên lính Tàu nào đang nhậu trong đó.

Nguyễn Phi Khanh hỏi gã chủ quán đang bưng các tô cháo nóng bốc khói lại:

- Này chủ quán! Tôi nghe nói làng Vân Sơn trước đây có vinh hạnh được một người con dân trong làng đậu Tiến Sĩ trong kỳ thi Đình, dù tôi chỉ là một tên học trò thấp kém ở Nhị Khê chưa từng qua được kỳ thi Hương, nhưng tôi mong được gặp người ấy để trò chuyện vui vẻ với ông ta. Vậy ông có biết hiện ông ấy còn sống trong làng hay không?

Mặc dù vẻ mặt nghiêm chỉnh của người đối thoại khiến chủ quán tin tưởng, nhưng thoạt tiên ông ta lắc đầu:

- Tôi bận bịu ở đây từ sáng đến chiều rồi từ chiều đến sáng để phục vụ khách hàng, dân làng và khách qua đường, làm sao tôi có thể theo dõi chuyện đi lại của các bậc sĩ phu cao trọng được?

- Thế thì thôi. Nhưng ít nhất xin ông hiểu cho rằng tôi rất đội ơn ai có thể cho tôi biết điều đó.

- Ông nói ông là người làng Nhị Khê phải không? Chủ quán hỏi và quay lưng đi vào bếp.

Phi Hùng thì thầm và ngạc nhiên về sự táo bạo của mình:

- Thưa cha, như thế có khôn ngoan không? Tên này có lông ngực, sớm muộn hắn sẽ phản.

Họ ăn cháo xong và bước vào phòng trọ của họ. Lát sau Nguyễn Phi Khanh nghe có tiếng gõ cửa. Ông mở ra. Chủ quán bưng một chậu nước vào và nói to để mọi người đều nghe:

- Đây là nước nóng của ngài. Để đâu ạ?

Ông ta bước vào trong phòng và đưa cho Nguyễn Phi Khanh một lá thư của Phan Nghĩa. Sau khi nhận ra nét chữ đẹp của bạn mình, ông đưa cho chủ quán mấy đồng tiền. Chủ quán cầm nhét vội vào thắt lưng, rồi nói:

- Sau khi ngài vào phòng một chút, có một người mắt sắc như dao vào quán, ở đây ngài có thể dễ dàng quan sát hắn ta. Ngài có nhận ra hắn không?

Người mà chủ quán nói có vẻ mặt hiểm ác của một tên thu thuế. Phi Khanh không biết hắn là ai và làm gì. Vả lại điều đó không quan trọng. Trong thư, người bạn bút nghiên của ông là Phan Nghĩa bày tỏ nỗi vui mừng vì được gặp lại bạn hiền một cách mầu nhiệm như vậy giữa những thăng trầm không kể xiết của cuộc đời, và đã hẹn gặp ông ở chùa vào khoảng giờ Mão ngày mai. Ngoài ra ông ta còn nói rõ là ông đã bỏ tên thường gọi và đổi tên là "Tràm Mặc".

Sáng hôm sau khi Nguyễn Trãi và Phi Hùng thức giấc thì cha đã đi rồi.

Chủ quán đang bận túi bụi trong bếp, vừa vớt bọt vừa thái thịt, vừa giải thích cho hai người biết là Nguyễn Phi Khanh từ sáng sớm đã ra đi đến chùa Phổ Minh - ông ta hạ thấp giọng và tiếp - để tìm một người có thể cho ông biết tin về Tiến Sĩ Phan Nghĩa.

- Ngài đã căn dặn tôi nói với các anh là ở đây chờ ngài.

Phi Hùng nói với anh sau khi cả hai đã ngồi xuống một góc vắng vẻ trong quán đầy khách vì hôm nay là phiên chợ.

- Cái mặt của lão chủ quán này không nói với em điều gì có giá trị. Tiếc là cha đã tin hắn ta.

- Này em, một vài sợi lông ở ngực chưa đủ để làm thành một tên phản trắc. Hãy chín chắn một chút! Bây giờ chúng ta bắt đầu ăn uống cho khỏe lại đã.

Dù không có tí ác cảm nào đối với chủ quán, nhưng một mối lo âu âm ỉ bắt đầu làm ruột gan ông bối rối. Tô cháo đã hết từ lâu Bình trà đã nguội. Người vào rồi ra sau khi bụng đã chứa đầy miến. Các khuôn mặt nối tiếp nhau, nhưng không thấy Nguyễn Phi Khanh đâu cả. Mỗi khi đi ngang qua, người chủ quán liếc nhìn họ ngày càng có vẻ dò xét hơn. Và Phi Hùng cũng đáp lại hằng một ánh mắt ngày càng có vẻ nghi ngờ hơn.

Cuối cùng, không thể kiên nhẫn nổi nữa, Nguyễn Trãi đứng lên:

- Không thể tin cha chúng ta lại về trễ đến thế. Anh đi dò hỏi xem. Còn em thì ở lại đây chờ đón người, phòng người trở về trong lúc anh đi vắng nhé!

Phi Hùng la lên:

- Hãy cho em theo anh, nếu không, em sẽ lo sợ chết đi được!

- Mạo hiểm một cách vô ích có nghĩa gì! Quá nhiều tên do thám lanh tay lẹ mắt đang tìm mò chúng ta! Anh hứa là sẽ hết sức nhanh nhẹn và thận trọng.

Nói xong Nguyễn Trãi phóng ra khỏi quán và cất bước thật nhanh. Ngay lúc đó có một nhà sư thở hổn hển chạy ùa vào quán. Nhà sư nhìn khắp phòng một lượt rồi dừng mắt tại chỗ Phi Hùng mà chủ quán vừa hất cằm ra hiệu. Ông ta hỏi Phi Hùng với một giọng vừa đủ nghe:

- Này, có phải cậu là Phi Hùng từ Nhị Khê đến đây không? Tục danh của tôi là Phan Nghĩa. Vừa hay tin, tôi chạy đến báo cho các cậu ngay. Sau khi từ giã tôi ở chùa Phổ Minh, cha cậu đã bị nhận diện và bị bắt. Có lẽ đã bị theo dõi từ lúc ông và các cậu đến đây.

Nghe những lời này, mặt mày Phi Hùng tái xanh, rồi đột nhiên bừng đỏ lại. Và thoắt một cái, anh bay đến chộp cổ tên chủ quán:

- Đồ khốn nạn! Chính mày đã tố cáo cha ta! - Anh ta gầm lên. Mặt anh như quỷ dữ và đôi tay siết cổ gã chủ quán như móng chim quặp mồi. Và anh siết siết mãi... cho đến lúc những lời của nhà sư lặp đi lặp lại chui được vào trong óc anh!

- Anh đã phạm một sai lầm ghê gớm. Người này vô tội!

Anh buông mạnh tên chủ quán ra. Hắn té lăn xuống cách đó vài bước, mình mẩy tím ngắt, cái lưỡi đen thui trong một cái miệng há hốc. Phi Hùng đấm đá lung tung để mở đường chạy đi tìm anh mình. Nguyễn Trãi cũng vừa về đến. Họ nhìn nhau và mỗi người đều đọc thấy trong mắt người kia điều mà mình đã biết. Nguyễn Trãi nói:

- Cha chúng ta đã được giải về Nha Môn ở Bắc Ninh. Các quan tòa sẽ xét xử ngay hôm nay. Nhưng đó chẳng qua chỉ là một hình thức nhằm kết tội những người gây rối loạn để kết án lưu đày sang Trung Quốc một sĩ phu nổi tiếng như người. Bổn phận làm con buộc chúng ta phải tham dự phiên tòa và ngay khi tòa xét xử xong phải làm sao xin được phép đi theo người đến bất cứ nơi nào họ đưa người đến. - Ông siết chặt đôi vài người em. - Phải chi chúng ta nghe theo lời khuyên của Vô Kỷ! - Ông bối rối nói thêm.

[←99]

Lão Tử đạo Đức Kinh, Chương 23