Chương 5
Đô chỉ huy Thái Phúc, người lúc trước đã dẫn đầu toán quân đang đêm đột kích vào thành Đa Bang, giờ đây đang đứng trên bàn đạp ngựa ngắm nhìn đoàn người dài bất tận mà ông có nhiệm vụ dẫn về Trung Quốc.
Theo như cách trang bị của một viên tướng quân Thiên Triều, màu áo dài của ông là một màu trong ngũ sắc còn sắc phục phần thân dưới là một trong những màu trung gian tương ứng. Thắt lưng bằng lụa điều quấn hai vòng quanh tấm thân mảnh dẻ và được gắn chặt lại với những cái móc bằng ngọc bích. Hai bên thắt lưng đeo những vật trang trí bằng ngọc thạch treo lủng lẳng một cách duyên dáng và va vào nhau kêu lanh canh. Đầu gối ông được che chở bằng một loại vải đỏ hòa hợp với toàn bộ. Cái mũ lụa mỏng màu xanh lục có đính một cánh hoa bằng vàng ở cạnh tai. Yên con ngựa chiến màu trắng làm bằng gấm và dây cương bằng lụa.
Trong bộ y phục sang trọng làm cho ông có vẻ đúng là một "đại nhân", ông khinh bỉ nhìn cái đám người đang lội bì bõm trong bùn lầy ở đồng ruộng dưới kia. Đó là những kẻ mà dân Giao Chỉ coi là những sĩ phu uyên bác và những nghệ nhân nổi tiếng. Họ và những người thân đang vác những gói nhỏ đựng quần áo hoặc thức ăn, và tất cả đều mặc đồ đen hoặc nâu. Họ đang lội bì bõm, vì từ bốn tuần nay mùa nước lũ đã bắt đầu. Đằng sau cái đám người hỗn độn làm Thái Phúc liên tưởng tới những con quạ bị sa lầy ấy, có vô số người hộ tống những chiếc xe chở đầy chiến lợi phẩm, gỗ quý, sừng tê giác, ngà voi, ngọc trai, và nhiều loại đồ gốm của nước Đại Việt. Bên cạnh có một đám nô lệ chạy theo để sẵn sàng nối lại một cái đai da, kéo bánh xe bị lún sình hoặc sửa chữa các gọng xe. Tiếp đến là những đàn trâu bên hông mang các kiện hàng, rồi đến những chú ngựa con mông to của xứ này cứ cắn nhau và hí vang, đang bị các thổ dân la hét để can ngăn chúng ra. Cuối đoàn là một đàn voi chừng hai chục con do một con voi chỉ huy. Con voi này có mang một cái vòng vàng ở cặp ngà, chứng tỏ nó được phong quan. Các kỵ binh liên tục chạy ngược chạy xuôi dọc theo đội hình giống như những con ruồi quấy rầy con trâu đang kéo cày.
Quang cảnh cái đoàn người khổng lồ đi từng bước trong cánh đồng lầy lội chỉ nhô lên những ngọn tre và những mái chùa rêu phong hoặc vài ngọn tháp ấy đã làm cho Thái Phúc mệt nhừ và bực bội. Ông bực tức vì mình là một chiến sĩ dũng cảm mà lại bị giao cho nhiệm vụ của một tên cai ngục canh giữ những tên mọi rợ này, mà bản chất giống con vật hơn con người, răng thì nhuộm đen, mình thì xăm đầy những hình gớm ghiếc, và thức ăn thì hôi thối. Đối với bọn này, tiêu diệt chúng chẳng có gì phải áy náy cả. Và cũng thật may, ông ta tự nhủ để an ủi, nhiều tên trong bọn chúng đã có cái ý tưởng tốt đẹp là về với ông bà trước khi tới biên giới cách xa 500 dặm.
Phần đông họ là những người sống ở vùng đồng bằng lầy lội, nên không biết rõ những gì chờ đợi ở đằng kia trong những hẻm núi ở Chi Lăng khi mà theo thung lũng sông Thương, họ sẽ leo những ngọn đồi bên sườn núi để đến Lạng Sơn, và sau đó là đi đến một tỉnh của nước Tàu tên là Quảng Tây. Đói, khát, đau đớn và khó khăn khi phải đi trên những đoạn đường gồ ghề lởm chởm sỏi đá bằng đôi chân trần, ruồi muỗi, vắt, rắn rít, thú dữ, lam sơn chướng khí và cái lạnh ban đêm, cộng với các công việc lao dịch khác đang chờ đón họ. Những người già và bệnh hoạn trong đám mọi rợ này sẽ không tài nào chịu nổi.
Thái Phúc biết rõ từ khi chiếm thủ đô Giao Chỉ, ông đã hai lần hộ tống những đoàn tù nhân và xe chở chiến lợi phẩm đi từ Thăng Long đến Quảng Châu qua ngả Lạng sơn, Quảng Tây và sông Tây Giang. Nếu ông hoàn thành tốt nhiệm vụ này thì Đại tướng Trương Phụ, ngoài số tiền thưởng là 2.000 lạng, còn cho phép ông được hưởng một kỳ nghỉ xứng đáng với gia đình. Vì thế, cuối cùng ông đã nhận nhiệm vụ này. Ông mong gặp lại gia đình ở Nam Kinh bên bờ sông Hoài trong xanh, tổ chức tiệc tùng, được cùng bạn bè ngồi uống rượu dưới ánh trăng. Đặc biệt là với Mỹ, một chàng trai của khu Lê Viên rất đẹp, đẹp đến mức không có một diễn viên đóng vai nữ nào trong các đoàn hát ở thủ đô có thể qua mặt được. Nhưng ông có cần tìm một người bạn thân thật sự trong giới kép hát không? Không có một tình nhân nào của ông thật sự hiểu ông sao? Thái Phúc đang bị nỗi nhớ nhà giày vò, ông thúc ngựa phóng nhanh. Ông ghét cay ghét đãng cái xứ sở này, ghét những con người man di đen đủi và khắc khổ, ghét cái vùng đất sương mù và sông nước khắp nơi với khí hậu ẩm thấp khiến cho da lúc nào cũng ươn ướt và làm mòn mỏi cả đến trái tim ông. Ông quát với một sĩ quan thuộc cấp:
- Bảo chúng nó đi nhanh lên!
Đoàn người khổng lồ này đã mất bốn ngày để đi 120 dặm trên đoạn đường 130 dặm từ Thăng Long đến Bắc Ninh. Và ông định phải đến thị trấn Bắc Ninh trước khi đêm xuống.
Bị những tên lính răng trắng đánh đập, các tù nhân cố dấn bước nhanh hơn với hết khả năng của đôi chân nặng nề vì bùn lầy và mệt mỏi.
Đến trưa, họ đi qua thị trấn Từ Sơn, và chiều thì họ đến thủ phủ của tỉnh Bắc Ninh. Trong khi những kẻ bị lưu đày hạ trại dưới sự canh phòng cẩn mật của binh lính, Thái Phúc và các sĩ quan thuộc cấp đến nghỉ ngơi ở Nha Môn, và ở đây tiệc rượu khoản đãi được dọn ra. Như các bạn đồng sự của ông vừa mới được bổ nhiệm cai quản 17 quận mới của Giao Chỉ, Thái thú hoàng ở đây cũng là một người đồng hương với ông, họ cùng là người Quảng Đông. Họ uống rượu với nhau cho đến canh ba.
Ngày hôm sau, vừa tạ từ xong, Thái Phúc chuẩn bị lên yên ngựa thì Thái thú hoàng dẫn đến một người vừa bị bắt ở chợ gần Vân Sơn và bị kết án lưu đày. Ông đưa mắt xuống nhìn tên man di ấy một cách lơ đãng. Hắn khoảng 50 tuổi, mặc quần áo vải thô màu nâu sẫm, có một nét mặt nghiêm nghị với những nếp nhăn khắc khổ giống như phần đông những người trong bọn họ. Tên này là Cựu Thượng thư và là Tư Nghiệp Quốc Tử giám - Viên Thái thú giải thích - Có hai người con đi theo và tha thiết nài xin được cùng cha họ chung số phận lưu đày
Vì gấp rút lên đường. Thái Phúc định từ chối, nhưng khi ấy ông chợt chú ý tới một khuôn mặt đẹp với cặp mày tằm đầy đặn, con ngươi rộng lớn và trang trọng của người anh. Với nét lạnh lùng pha lẫn vẻ tao nhã và đạo mạo, chàng trai ấy chớp chớp đôi mi dài chờ đợi. Một vẻ duyên dáng không thể tả bao trùm lên toàn bộ con người anh ta. Trong bộ y phục nghèo nàn với búi tóc bồng bềnh được cài chiếc trâm ngà, anh ta có một vẻ đẹp rất vương giả đến nỗi hình ảnh quyến rũ của kép hát Mỹ trong ký ức của Thái Phúc đột nhiên mờ đi trước khi mãi mãi mất hẳn.
- Đồng ý! - Ông hô lên và quay đi.
Trong lúc phi ngựa về trại, ông lẩm bẩm: "Đây là một con người có vẻ hơn người", và ông cảm thấy tinh lực trong người ông như biến mất vì ông nghĩ rằng cái chàng trai trẻ thuở trước - đã mê hoặc Ai Đế Nhà Hán – cũng không thể có nét quyến rũ và sức thu hút nào khác hơn hoặc mãnh liệt hơn.
Sự xao xuyến của ông không thoát khỏi ánh mắt của các sĩ quan dưới trướng, và họ ý vị nhìn nhau.
—★—Từ Bắc Ninh đến Lạng Sơn phải vượt qua 300 dặm đường rừng núi. Ngày đầu tiên đã trôi qua mà Thái Phúc không thế dứt ra khỏi tâm trạng lâng lâng đau đớn do cuộc gặp gỡ định mệnh ấy gây ra. Ông đón nhận tin về cái chết của bốn tù nhân đầu tiên với một thái độ giận dữ. Trên khuôn mặt rộng của ông lộ vẻ lo lắng. Ông đưa mắt dò xét khúc đầu của đoàn người trong đó có Nguyễn Phi Khanh và các con. Ngoài tên và tuổi ghi bên lề bản án, ông không còn biết tí gì về chàng trai ấy. Chỉ cần hỏi bất cứ tù nhân nào ông cũng sẽ biết được tiếng tăm của Nguyễn Trãi, nhưng một bản năng tiềm ẩn ngăn ông làm điều đó. Ông than thầm: "Phải chăng Trời muốn thử thách mình nên đã chọn một trong những tên man di này để làm mình bị lung lạc?". Đồng thời ông lại ngơ ngẩn vì trên thế gian này lại có một con người như thế!
Họ qua đêm ở Lương Giang - có một người đàn ông và một bà già nữa qua đời - đêm sau họ ngủ ở đồn Vạn Huyên - ba người đàn ông nữa chết, một vì sốt, một vì kiệt sức và một bị cọp vồ - và đêm sau nữa họ ngủ ở đồn Vạn Long.
Hôm sau họ phải khó nhọc mới đến được cửa Quý Môn Quan, đó là lối vào một sơn đạo rùng rợn với những vách núi thẳng đứng và những dốc cao hiểm trở. Hai bên triền dốc, những thân cây đen như mực treo lơ lửng. Dưới thung lũng dày đặc là những cánh rừng tối om và ghê rợn. Có lệnh dừng lại nghỉ dưới chân một đồn lũy bỏ hoang, nhưng tất cả các tù nhân dù là những người kiệt sức nhất cũng cẩn thận tránh xa chỗ đó.
Vì không biết rằng có một truyền thuyết dân gian nói: cứ mười người đi vào đồn thì chỉ có một người sống sót trở ra, nên Thái Phúc đến nằm dưới chân tường thành của nó để nghỉ ngơi và mơ mộng về Nguyễn Trãi. Vừa mới đặt lưng xuống bỗng nhiên toàn thân ông run lên khủng khiếp và tóc lại dựng đứng ông trỗi dậy ngay lập tức.
"Chắc chắn chỉ huy của chúng ta bị quỷ ám rồi", các sĩ quan của ông nghĩ thế. Chính họ khi dựa lưng vào tường thành cũng không tránh khỏi. Thế là thế nào?
Hỏi tên man di nào cũng được nghe lặp lại: "Tất cả ở cái đất Lạng Sơn này đều đáng sợ, từ nước "Đồng Đăng" đến gà trống "Vân Quan".
Một người có nước da trắng nhợt và nét mặt khô đét nói: "ở nơi này ma quỷ thường tụ tập. Ai quấy rầy chúng tức thì sẽ bị vật chết thảm khốc".
Quả thật, ngày hôm ấy, nhiều người trong đám dân bị đày và một người lính Tàu đã bỏ mạng tại đó. Những người tù bạo gan hơn cho rằng một số trong bọn đã bị quân áp tải ném vào tường thành của cái đồn bị nguyền rủa ấy để tế lế cho quỷ.
Đô chỉ huy Thái Phúc cho thắp hương trong ngôi đền kế cận thờ Phục Ba tướng quân. Sau khi biết được các sự việc và an tâm về Nguyễn Trãi, ông đã tuyên bố mạnh mẽ với binh sĩ rằng: chỉ một mình ông có quyền quyết định ra hình phạt đối với tù nhân. Thế là từ đây không còn phải lo gặp rắc rối bất ngờ nữa.
Xung quanh đó mọc đầy loại cỏ ý dĩ, loại cỏ này có tác dụng giải các chất độc trong không khí và nước, ông ra lệnh cho mọi người nhổ cỏ ấy và chất đầy các xe trước khi tiếp tục lên đường.
Ngồi đằng xa, Nguyễn Phi Khanh quan sát cảnh nhổ cỏ trong lúc Phi Hùng xoa bóp đôi chân sưng vù và tím bầm của ông bằng cách vuốt nhẹ trên các ngón chân. Ông nói:
- Biên niên sử của Quang Vũ chép rằng: Mã Viện đã gặp phải khó khăn lớn lao do khí hậu độc địa của chúng ta và ông ta trị bằng cách ăn loại cỏ này mà ở đây chúng ta gọi là bo bo. Khi trở về Tàu, ông ta cũng chất đầy bao nhiêu xe như chúng ta thấy đây. Nhưng khi đem về, ông ta đã không dâng cúng cho Hoàng đế nên ông bị làm tội. Đến nỗi ít lâu sau, khi ông chết, vợ ông không dám tổ chức tang lễ rình rang cho ông. Cách đây không xa, có một cây trụ đồng - người Tàu đã trồng cây trụ đồng này giống như cây trụ đồng trên núi trong tỉnh Quảng Đông. Trên trụ đồng có khắc câu: "Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt", và đó là cột mốc biên giới giữa hai nước.
Nguyễn Trãi khâm phục nhìn ông: thân phận lưu đày cũng không xóa mờ được chân dung một bậc thầy trong con người của ông, và chàng vui vì thấy khí sắc của cha đột nhiên tốt hơn.
Đôi bàn tay của Phi Hùng ấn mạnh lên bắp chân của cha, mắt ánh lên lòng căm hận. Anh nói:
- Cầu cho cọp dữ phun nước dãi lên đầu chúng cho chúng chết tiệt!
Vừa nói xong, anh liền cảm thấy xấu hổ vì cái tính trẻ con của mình và cúi đầu xuống.
- Cầu xin Trời, Đấng Cao Xanh nhận lời cháu, cháu à! - Một giọng nói xác tín vang lên.
Xung quanh đây chỉ có những cái lưng cong oằn của những người đang cắt cỏ, vậy thì giọng nói đàn bà nhà quê ấy là của ai? Cả ba cố kìm lại để khỏi la lên khi thấy vợ của Từ Chi, một người đàn bà nổi tiếng dữ dằn, từ sau một chiếc xe chạy ra, trên tay ôm một bó cỏ ý dĩ để dễ dàng đến bên họ mà không bị chú ý.
Không cần phải hỏi lý do lại sao bà lại có mặt ở biên giới Trung Hoa, nơi vùng đất này của tỉnh Lạng Sơn, một nơi lưu đày và chết chóc. Một sức mạnh dữ dội toát ra từ một thân xác vạm vỡ của một phụ nữ quê mùa, ở giữa cái khung cảnh ảm đạm này khiến những người dũng cảm cũng phải khiếp sợ.
Bà lắng tai và nhíu mắt lại canh chừng từng động tác của các tên lính gác, rồi bà thở phào nhẹ nhõm ngồi xuống trên hai gót chân và chắp tay vái chào theo tục lệ. Nguyễn Phi Khanh hỏi:
- Này cô, có tin tức gì về chú Từ Chi của tôi không?
Hỡi ôi! Ông thợ mộc làng Nhị Khê đã bị bắt vào một buổi sáng theo lệnh các chức sắc trong làng chủ trương hợp tác với bọn Tàu. - Bà khạc nhổ một cách khinh bỉ. - Làm thế nào một phụ nữ dốt nát như bà - tiên sư chúng nó! - tưởng tượng nổi một chuyện như thế? Mới đầu bà tưởng ông chồng bày ra mưu kế ấy đề tìm cách gặp gỡ một con nhỏ tóc dài da trắng nào đó và có thể đã lấy nó làm vợ bé. Thế là lòng dạ tan nát, bà lập tức bỏ nhà, vùn vụt ra đi truy tìm dấu vết của họ. Coi như bị chồng bỏ, một thân một mình, không chồng không con thì bây giờ bà còn vác mặt về quê làm gì? Bà đã đi ngày đi đêm đến tận Đông Đô. Đến nơi đó bà mới biết được rằng nhờ những tên phản bội giúp - sao cho ruột chúng nó nổ tung ra! - quân Ngô đã lùng bắt các sĩ phu và những nghệ nhân nổi tiếng để dẫn họ về đế quốc rộng lớn ở phương Bắc, và họ sẽ không bao giờ quay về nữa. Từ Chi của bà, dù có nhiều tật xấu, nhưng chẳng phải là người thợ mộc giỏi nhất tỉnh và thậm chí giỏi nhất nước đó sao? Vậy là bà đã hiểu rồi - Cầu Trời thương xót bà. Không phải một con bé nào đó đã cướp mất chồng bà, mà chính là nước Tàu, và bà đã thề rằng bà sẽ cướp chồng bà lại, dù có phải trả giá thế nào đi nữa! Từ khi rời Thăng Long, bà đã lục tìm trong những đoàn người bị lưu đày, nhưng vô ích. Không ai thấy ông thợ mộc làng Nhị Khê đâu cả! Họ bảo bà rằng: có lẽ quân Ngô đã mang chồng bà lên phương Bắc bằng đường biển trong một chuyến thuyền của họ.
- Kính thưa Thầy, xin đừng chấp một người đàn bà quê mùa hèn mọn suốt đời chỉ quanh quẩn trong lũy tre làng. Điều đó có thể xảy ra không? Ở bên Tàu có biển không?
Nguyễn Phi Khanh mỉm cười độ lượng và gật đầu để trả lời bà.
- Vậy thì - bà nói - dù trên biển hay trên đất liền, những con đường của các cặp vợ chồng cuối cùng sẽ gặp nhau. - Bà cúi xuống, đôi mắt đầy vẻ dò hỏi, giờ chuyển sang vẻ van xin. - Vì thế, nữ tì này khẩn xin ngài giúp đỡ, vì nhớ đến làng quê của chúng ta, nhớ đến người anh cả của chúng ta, và những ngày tháng xưa kia, xin cho tôi được ở bên cạnh ngài như là một người trong gia đình, để tôi có thể vượt qua biên giới. Thưa Thầy, tôi sẽ phục vụ ngài và các con ngài trong cuộc sống này, và ước nguyện rằng kiếp sau sẽ được làm thân trâu ngựa để trả món nợ ân nghĩa này.
Nguyễn Phi Khanh nói:
- Cô có hành lý gì thì đem lại đây và cùng đi với chúng tôi.
Có lệnh tiếp tục lên đường. Bà rút nhanh từ trong thắt lưng ra hai miếng giò lợn và đặt trên chiếu gần ông thầy trước khi lẩn đi. Các người bị đày khác đã xếp hàng xong. Người sĩ phu già lảo đảo đứng lên, hai bàn chân ông đã sưng vù. Nguyễn Trãi nói:
- Thưa cha, xin cha lên lưng con và bám chặt vai con để con cõng cha đi.
- Xin cha hãy ưng thuận. Con sẽ thay thế khi nào anh con mệt.
Trong tiếng la hét của lính gác, trong ngựa hí, tiếng rít ken két của bánh xe ồn ào vang dội đầy sầu thảm, đoàn người chuyển động và mất hút trong sơn đạo như cát rơi tuột khỏi chiếc đồng hồ cát.
Những người tù trong tâm trạng kinh hãi đối với núi rừng, họ chỉ quen sống ở đồng bằng, bị đám lính gác đánh đập hối thúc, đang cố tiến lên giữa những đỉnh núi cao vời vợi hoang vu mà không nơi nào thấy có dấu vết chân người. Ở đây hơi độc tù đọng trong các hốc đá bị mốc meo gớm ghiếc che phủ, mùa nào cây cối cũng úa vàng khô héo, rắn và bọ cạp lúc nhúc, chúng làm ô nhiễm không khí và nước sông bởi độc khí mang mầm dịch bệnh của chúng. Có lúc họ cảm thấy ngộp thở. Có lúc lại có một luồng gió lạnh buốt xuyên qua lớp vải mỏng manh của họ giống như hàng ngàn mũi tên băng giá. Giả thử họ thoát khỏi tay những toán cướp mai phục và sự độc ác của lính gác, làm sao họ có thể sống sót ra khỏi nơi này được?
Nguyễn Trãi cõng cha trên lưng, cẩn thẩn dò từng bước để tránh những chướng ngại và những chỗ nguy hiểm trên đường. Theo sau là Phi Hùng ôm chiếu và túi hành lý nhỏ. Dưới sức nặng của ông, có lúc Phi Khanh thấy đôi vai của đứa con gồng cứng lên và ông ứa nước mắt xót thương. Ông nài xin con bỏ ông xuống, nhưng Nguyễn Trãi cứng đầu như mẹ nó, xưa kia hay giả điếc không nghe. Ông chỉ còn cách buông lỏng vòng tay đang ôm chặt lấy cổ của con ông, cái cổ đang thở hổn hển vì gắng sức. Trong giờ phút khốn đốn thế này ông mới chứng kiến rõ rệt hơn bao giờ hết lòng hiếu thảo của đứa con trai trưởng của ông, và chính ông cũng cảm thấy mối liên hệ huyết thống thật mãnh liệt hơn bao giờ hết. Đồng thời ông cũng cảm thấy đau đớn hơn bao giờ hết, vì ông biết những ngày họ đang sống chung với nhau đây là những ngày cuối cùng. Người sĩ phu già âu yếm ngắm nhìn cái gáy xinh đẹp của con trai rất giống với cái gáy của mẹ nó, người vợ yêu dấu của ông, bà Thị Thái. Và ông chợt nhớ lại một buổi sáng rực rỡ của thế kỷ trước, lúc ấy trong lớp học họ đã trao nhau cái nhìn ghi dấu ấn lên suốt cuộc đời họ. Ông nghĩ: tuổi già của ông không được may mắn nương tựa vào đứa con trai xuất chúng này, và ông cảm thấy nghẹn ngào chua xót. Nhưng, Thiên ý đã dành cho Trãi một số mạng khác với số mạng của một người đi theo chăm sóc một ông già ở bên Tàu! Con hơn cha là nhà có phúc! Nguyễn Trãi là một nho sĩ tài ba, và con đường của nó đã được vạch ra rồi: nó phải rửa nhục cho quê hương và trả thù cho cha. Đó chính là bổn phận của con ông. Sự hy sinh này dù có làm ruột gan ông tan nát thế nào đi nữa, thì ông là cha, ông phải hy sinh, phải đuổi chàng trở về. Chần chừ chỉ làm cho sự chia ly gây đau đớn nhiều hơn thôi! "Đây sẽ là lần cuối ta sử dụng quyền làm cha của ta!", ông lẩm bẩm theo từng bước đi, thương thân ông và xót xa cho con trai.
Đô chỉ huy Thái Phúc thanh nhã hơn bao giờ hết trong chiếc áo dài da hươu với những tua viền bằng da chó sói màu xanh nhạt và một thắt lưng màu chàm có treo những hạt bích ngọc lúc lắc bó chặt thân mình, đang đứng trên cao nhíu mày theo dõi đoàn người liền bước.
Những nơi này thường xuyên xảy ra tai nạn vì những tảng đá dựng đứng và vì những hố sâu hoắm tối tăm. Các tay lái xe dù vẫn thường lấy mạng sống mà cam đoan về sự chuyển vận an toàn, nhưng không biết đo định số hay do bất cẩn, họ vẫn thường lao xuống các hẻm núi, xe và hàng hóa quý giá theo nhau đổ vỡ tan nát. Hoặc có những băng cướp liều lĩnh lợi dụng tình trạng một đoàn xe trải dài qua các hẻm núi, đầu đuôi bị cắt rời, để xông ra đánh cướp cả xe cả hàng hóa trên những chuyến xe chỉ có một người. Hay cũng có những cái đầu nóng như lửa ủ dưới tro, ấp ủ một hy vọng hão huyền về chuyện phản kháng và đào thoát, để rồi sau đó phải xử tử để làm gương đến cả 50 tên man di đáng lẽ có thể hữu ích khi sang Tàu. Quá nhiều điều phải lo nên ông ta không còn rảnh trí để nghĩ đến chính bản thân mình...
Nhưng dòng tư tưởng u ám của ông đột ngột đứt đoạn.
Tim ông đập dồn dập: Ở một khúc quanh, cái đầu đáng yêu vừa xuất hiện! Ôi, cái đầu đang căng thẳng vì ráng sức, cái lưng thẳng vì kiêu hãnh đã bị xúc phạm vì đang cõng một người nào đó, cái đầu ấy không phải là của Nguyễn Trãi sao?
Tức giận và ngạc nhiên, ông đấm lên cổ ngựa làm nó hí vang lên. Hai thứ tình cảm trái ngược đang giằng xé nhau trong con người ông: lòng ngưỡng mộ tấm gương hiếu thảo của một người con, và sự ghê rợn vì thấy người trong mộng của mình lại biến thành một thứ súc vật như thế! Ông hét lên một tiếng và ra lệnh.
Lưu, một sĩ quan trẻ có làn da căng mịn và đôi môi đỏ như son hối hả chạy đến rồi biến đi.
Lát sau, có một người lính đến ra lệnh dừng lại, Nguyễn Trãi chỉ nhìn anh ta mà không dừng bước.
- Hắn muốn gì? - Nguyễn Phi Khanh muốn tuột xuống, nhưng con trai ông càng giữ ông lại trên lưng chặt hơn - Này con, dừng lại xem họ yêu cầu gì?
Người lính dùng giáo chặn đường họ.
Cái nhìn lạnh lùng của Nguyễn Trãi quét từ cây giáo lên đến mặt người lính đang lùi lại, sau đó ông từ từ đặt cha xuống.
Nguyễn Phi Khanh nói:
- Này anh lính, tôi là tù nhân của anh. Nhưng hai thanh niên này là những người tự do.
- Cha! Chúng con đi theo cha! - Nguyễn Trãi và Phi Hùng cùng thốt lên.
- Tôi được lệnh dẫn ba người đi - Người lính dùng mũi giáo chỉ đường cho họ.
Trước diện mạo như ngọc của người con trai lớn đang dìu người cha đi về phía mình, tên Lưu, viên sĩ quan trẻ, đã hiểu ba phần tư câu chuyện, và cái miệng đỏ xinh xắn của anh ta mím chặt lại. Tuy nhiên anh ta không thể làm gì khác hơn là thực thi lệnh của cấp trên. Nguyễn Phi Khanh lặp lại:
- Thưa ngài sĩ quan! Tôi chỉ là một tù nhân nằm trong tay các ông. Nhưng xin hãy xét đến sự việc là hai con tôi có mặt ở đây là do chúng hoàn toàn tự nguyện.
- Tên tù kia hãy yên tâm! - Viên sĩ quan hướng về Nguyễn Trãi một nụ cười tinh quái - họ cũng như ông sẽ không bị ngược đãi đâu - Và hắn ra hiệu. Tên lính lệ dẫn đến một con ngựa giống Việt lưng phủ da thú - Hãy sử dụng nó cho tới khi đến nước Tàu. Tên lính lệ này có nhiệm vụ coi sóc nó và mỗi chiều dắt nó trở về trại để nó khỏi bị hút hết máu.
- Là một người tù như bao tù nhân khác, tôi không thể nhận một chế độ ưu đãi nào cả! Nguyễn Phi Khanh thốt lên câu đó với giọng khinh bỉ và sẵn sàng chờ đợi đón nhận những hình phạt táo bạo nhất.
Viên sĩ quan chỉ nhếch đôi môi hồng mỉm một nụ cười nhạt.
- Tên tù kia, hãy xem sự giúp đỡ này như là điều mi có đặc quyền để hưởng - hắn ta nhấn mạnh câu nói bằng một cái nhìn vào Nguyễn Trãi. - đại quan nhân muốn giúp đỡ ông. Từ chối điều đó là một sự xúc phạm nặng nề. Lính đâu! Dẫn họ đi!
- Xin làm ơn nói với đại quan nhân là tôi chấp nhận nhân danh những người đồng hương của tôi đang mệt lả vì cuộc hành trình dài dằng dặc này. - Nói xong, Nguyễn Phi Khanh liền để cho Nguyễn Trãi đặt mình lên lưng ngựa và đưa về trại.
Thái Phúc đã đứng đằng xa theo dõi tất cả diễn biến ấy. Lưu cố giữ vẻ khách quan tường thuật chi tiết sự việc và rồi quay đi đau khổ. Ngay chiều hôm đó, Thái Phúc cho mời Nguyễn Trãi đến lều của hắn mà không cần coi lịch trước xem hôm nay có phải là ngày tốt hay không.
Trong lúc Thái Phúc vừa hạ trại xong, hắn liền ban ra hàng loạt chỉ thị như là hâm lại rượu, sửa soạn các món ăn, đèn đuốc, và chỉ nghĩ đến niềm vui mình sẽ tận hưởng tối nay, thì vào giờ đó, tức giờ Thân, đám người lưu đày khốn khổ sửa soạn qua đêm trên những ngọn núi đầy bất trắc nguy hiểm này quây quần xung quanh những đống lửa nhỏ dùng để đuổi "ông Ba Mươi", tức con cọp mà ở đây người ta kiêng không dám gọi bằng các tên khác.
Một ngày trôi qua trên vùng đất độc hại này của tỉnh Lạng Sơn đủ để biến những tù nhân yếu nhất thành những người sắp chết. Và những người vì mệt nhọc trên đường do cứ phải leo lên rồi tuột xuống trong không khí ngột thở hay trong gió lạnh thấu xương đã phải gục đầu xuống suối uống nước ừng ực như trâu, cũng không khá gì hơn. Những cơn đau bụng khủng khiếp làm họ phải gập người lại và nhổ ra những bãi đờm hôi thối. Bao nhiêu người bị thất khiếu xuất huyết như thế mà còn sống được đến sáng?
Mỗi người lợi dụng lúc trời còn sáng để thử chữa trị bằng những phương pháp tạm bợ vớ vẩn. Nếu có rẻ rách thì người ta bó những bàn chân bị đá sỏi trên đường cứa rách, và như thế là sang nhất thiên hạ đấy! Bằng không thì dùng lá cây mà bó, mà thường các lá cây này chỉ tổ gây ngứa thêm, nên càng làm cho các vết thương thêm đau đớn. Người ta cố dùng những móng tay đã sứt mẻ để giật những con vắt lầy nhầy ra. Và giật ra rồi chúng lại bám chặt vào các ngón tay, trong khi từ vết thương do vắt để lại chảy ra một thứ nước bầm đen nhìn muốn phát mửa.
Dưới ánh sáng lờ mờ của các đống lửa, những gương mặt sợ hãi đầy thèm thuồng đang cúi xuống nhìn một con rắn đang uốn trườn qua lại lần cuối cùng trước khi bị nấu chín ở đáy chảo. Đằng kia là những côn trùng bắt được trên đường đi đang được nấu sôi lụp hụp và lốp bốp trong một cái nồi. Có vài ông già trông như mất hồn với chiếc áo nho sĩ rách bươm, búi tóc rối tung xõa xuống, đang gãi sồn sột với cái nhìn xa vắng như thể họ bị Diêm Vương hối thúc phải tiến nhanh vào địa ngục để lãnh hình phạt. Số khác quá buồn khổ và không thể chịu đựng nổi nữa, họ nhắm nghiền mắt lại, không còn muốn thấy gì nữa cả. Trẻ con gào khóc vì đói. Những đứa khác lả người thở thoi thóp trong đôi tay của mẹ chúng đang nặn vú cho sữa chảy ra, mà chúng cũng chẳng còn sức đâu mà bú nữa!
Phía bên khu trại của những tay lái xe và những người giữ ngựa, những kẻ còn giữ lại được vài phân bạc hoặc ít quan tiền đang keo cú kỳ kèo mua bán. Một người tù móc tiền trong thắt lưng ra:
- Một quan nhé!
- Ba quan, không bớt một chinh! - Người giữ ngựa đáp và chỉ vào các bạn hắn. - Bộ mày tưởng tụi nó chịu làm ngơ cho mà không đòi trả giá đấy hả?
- Một quan năm! Không thêm nữa! - Người tù xanh xao và gầy còm nhượng bộ - Tôi chỉ cần hai ngụm thôi!
- Lấy gì bảo đảm? - Người giữ ngựa nhạo báng - Bao nhiêu là nguy hiểm như thế, giá đó không đắt đâu! Lúc làm quan, ông mua nhân sâm giá bao nhiêu? Ba quan, nếu không thì thôi! Ai nữa?
- Tổ mẹ mày! Bóc lột chúng tao như thế còn chưa vừa lòng sao mà còn muốn lấy cả mạng sống chúng tao nữa? Hãy thử nghĩ một chút xem, nếu tất cả tụi tao - ông ta chỉ nhóm tù nhân đang đứng chờ - đem tố chuyện buôn bán này của mày cho bọn Ngô thì mày sẽ ra sao? Mất trắng và chắc chắn là mày cũng sẽ như tụi tao, phải không? - Những người lưu đày đồng thanh hưởng ứng - Mày có nghĩ đến điều đó chưa? Đồ ngốc!
- Nổi nóng làm gì, thưa các ngài. - Người giữ ngựa nói, mặt mày anh ta mét xanh vì sợ và thầm mong sẽ có lúc thanh toán với tên kia sau này. - Thôi được, một quan rưỡi đó, lấy đi! Nếu có gì xảy ra thì nhớ rằng: chúng ta không có gặp nhau nhé!
Đến gần con ngựa trong bóng tối dày đặc, một tay vuốt ve cổ nó, tay kia chích vào một sợi gân đầy máu của nó, làm sao để nó không hí và đá, và tất cả những động tác đó phải làm thật nhanh: điều đó hẳn không phải dễ. Và khi người kia đã uống no rồi, thì phải làm cho cầm máu lại ngay.
—★—Nguyễn Trãi đi theo người lính đã đến gọi hồi chiều để đến lều của Thái Phúc. Ông ngạc nhiên về một số cảnh trí ở đây, và cảm thấy lòng nặng trĩu đau buồn. Ông đã có thể chịu đựng tất cả những gì xảy đến với ông: đói khát ghê gớm, đi bộ lả người, nhưng tại sao người cha đáng kính của ông lại chất thêm vào những nỗi thống khổ của kẻ lưu đày cái thái độ lạnh lùng của người? Dù chỉ mới đây thôi, nhưng sự thay đổi ấy không kém đau đớn đối với ông. Mỗi cử chỉ, mỗi lời nói của người đều là một sự từ chối dứt khoát. Người đã nói với ông bằng một giọng chua chát: "Này con, hãy làm bổn phận của con đi!". Một đứa con đã bỏ quê hương và vợ con yêu quý để theo cha sang Tàu, chăm sóc sức khỏe, lo cho cha từng miếng ăn giấc ngủ, còn có chỗ nào chê trách được nữa? ông không biết được. Không hiểu ông có thiếu sót trầm trọng nào khiến cha ông lại có gương mặt cứng rắn và những lời lẽ chua cay như thế? ông không thể đoán ra lý do. Cả Phi Hùng cũng vậy. Ông thường bắt gặp ánh mắt đau buồn và đầy thắc mắc của người em.
Chìm đắm trong những suy nghĩ cay đắng ấy, nên vào đến trại của Thái Phúc, Nguyễn Trãi mới sực nghĩ xem hắn ta muốn gì. Dưới mắt của một tên Tàu, ông chỉ là một tên man di trong số biết bao tên man di khác mà người ta, hoặc là để cho sống chung với chó sói và cáo, hoặc là để chinh phục. Nước Đại Việt thất trận là nơi để cung cấp cho nước Tàu những chiến lợi phẩm, và dân Đại Việt là chỗ cung cấp những tù nhân để lao động. Thái Phúc có định xẻo tai ông giống như những tù nhân bị dẫn đi trong cuộc diễn hành này? Hay dùng ông làm trò hề cho một buổi dạ tiệc? Những viễn cảnh ấy khơi dậy lòng phẫn nộ đang bừng cháy trong lòng ông.
Trước khi bước qua hàng rào của doanh trại tạm thời này, Nguyễn Trãi ngoái nhìn lại phía sau. Giờ đây màn đêm đã như kín đáo phủ xuống trên những người đồng hương của ông một tấm màn. Rồi ông bước một cách quả quyết vào trong.
Khi đến trước căn lều rộng nhất mặt hướng về phía nam và được cáng bằng những sợi dây lụa, tên lính đừng lại. Hắn nói với tên lính tuần tra đang gác ở cửa:
- Theo lệnh thượng quan, đây là người tù ấy.
Từ bên trong có tiếng đáp lại, và một tên nô lệ trẻ đẹp đẩy cánh cửa nặng nề ra nhường lối cho Nguyễn Trãi đi vào.
Bước vào bên trong, lẽ ra phải quỳ xuống cúi đầu vái sát đất, nhưng Nguyễn Trãi chỉ khẽ nghiêng mình kính cẩn. Thái Phúc đáng quan sát ông từ phía sau tấm màn che buồng ngủ. Say đắm bởi vẻ đẹp và sự cao nhã của ông, Thái Phúc còn tâm trí đâu mà lưu ý đến thái độ ấy của ông để bực mình nữa?
Không thấy ai và không biết mình đang bị theo dõi, Nguyễn Trãi đưa mắt xem xét khắp nơi. Cả đời ông chưa bao giờ thấy trong một khoảng không gian chật hẹp lại tập trung biết bao món đồ quý giá như thế. Quả thật, ông cảm thấy như đã được đem đi khỏi cái miền đất cô quạnh này hàng nghìn dặm và lạc vào trong căn lầu nghỉ mát của một ông hoàng nào đó.
Nhiều ngọn đèn bằng đồng hình chim hạc hoặc chim phượng hoàng tỏa ánh sáng lung linh, một tấm áo giáp bằng da tê giác đỏ bóng, đây là một chiến bào lộng lẫy, được trang trí bằng những hình ảnh mùa xuân, với nước gỗ êm dịu của một cây đàn. Kia là cặp thư hùng kiếm lộng lẫy, một cái yên ngựa thêu viền và một cái quạt bằng ngà. Ở trên, giữa một cái bàn dài và hẹp bằng gỗ bạch đàn chân chạm hình rồng, một cái lư hương cổ ba chân đang nằm chễm chệ đang tỏa những làn hương thanh thoát. Sát bên đó có đặt hai chiếc giường trên phủ gấm thêu và trên mỗi giường có để một cái phất ruồi bằng lông sơn ngưu trắng cán khảm bạc. Xa hơn một tí là cái rương được làm thật tinh xảo thấy mà mê, và dường như trong nước sơn của nó có dính bụi của các tinh tú. Thật khó tin được một món đồ như thế lại do bàn tay con người làm ra.
Nguyễn Trãi đang đứng tò mò xem xét thì một tiếng leng keng của đồ trang sức làm ông giật mình. Thái Phúc từ sau tấm màn bước ra và diệu nghệ tiến đến bên ông. Y phục hắn hoàn toàn phù hợp với vẻ mỹ lệ của khung cảnh. Phải ngập ngừng một hồi lâu hắn mới chọn được giữa một chiếc áo dài lót lông cừu đen với những ống tay viền lông báo, và một chiếc áo mặc bên trong sang trọng bọc thêm một lớp the màu lam lục, hắn đã chọn chiếc áo sau. Tất cả những chi tiết khác, từ cái mũ đen đến đôi giày có đính hạt trai đều hài hòa một cách trọn vẹn với cái áo đó. Thêm vào đó, còn có một cái túi thêu đeo bên thắt lưng có những tua trang trí bằng ngọc bích kêu lanh canh. Mặc dù vóc dáng gầy và hơi cao, nhưng gương mặt màu trắng đục màu mỡ ngỗng đông có nét đầy đặn như một cây nguyệt cầm.
Sau những lời chào hỏi ngắn gọn, Nguyễn Trãi còn đang bàng hoàng thì hắn mời ông ngồi chỗ của khách trên một trong hai chiếc giường phủ gấm thêu, còn hắn thì ngồi vào vị trí chủ nhà. Hắn mỉm cười và chàng nho sĩ trẻ cảm thấy khó chịu trước cái thái độ của hắn cứ nhìn mình cười. Cuối cùng hắn lên tiếng:
- Khắp nơi tôi đều nghe người ta ca tụng rằng văn chương thơ phú của anh sánh ngang Đỗ Phủ. Anh có thể làm một bài thơ trước mặt tôi ngay bây giờ không?
Đến lượt Nguyễn Trãi mỉm cười. Thế là cuộc đọ sức diễn ra trong lĩnh vực văn chương.
- Thưa đại quan, xin ngài vui lòng ra đề, và tôi xin được nhận những lời chỉ giáo của ngài.
- Hãy lấy chính anh làm đề tài! - Thái Phúc trả lời với một cái nhìn có vẻ âu yếm và lờ đờ khiến chàng thanh niên cảm thấy khó chịu.
Nhưng ngay từ khi cầm lấy "văn phòng tứ bảo", ông đã quên hết tất cả những khó chịu đó.
Người ta vẫn nói, mỗi nét bút của ông, khi thoăn thoắt khi ngập ngừng hoặc lướt nhanh, đều cô lập ông trong một vòng rào vô hình khiến không gì có thể xâm nhập chạm đến ông được.
Trên trận chiến chữ nghĩa, người cầm bút là một chủ tướng, ngòi bút là vũ khí, các con chữ như là những kế hoạch chiến lược, còn có hứng hay không hứng đóng vai trò của may rủi.
Thái Phúc hồi hộp nhìn nhà nho trẻ đang đơn độc tung hoành bằng một lối chữ thảo không thua gì chữ viết của Vương Hi Chi. Nét chữ tài hoa thế này rõ ràng cho thấy một khả năng tri thức và một tinh thần siêu việt.
Bài thơ vừa xong, Nguyễn Trãi đưa ngay cho Thái Phúc.
Đó là một bài thơ Đường luật về đề tài đã ra. Mỗi câu có bảy chữ, chữ cuối các câu chẵn gieo vần bằng, và chữ cuối các câu lẻ gieo vần trắc. Hai cặp đối thứ hai và thứ ba rất chỉnh, và từng câu thơ đều đúng niêm luật một cách sít sao đến độ người ta có cảm tưởng như tác giả dễ dàng vượt qua những câu thúc đó như chơi để diễn đạt một cách hoàn toàn tự do.
Cửu vạn đoàn phong ký tích tằng
Đương niên thác tỉ bắc minh bằng.
Hư danh tự thán thành cơ đẩu,
Hậu học thùy tương tác chuẩn thằng.
Nhất phiến đan tâm chân hống hỏa,
Thập niên thanh chức ngọc hồ băng.
Ưu du thả phục ngôn dư hảo,
Phủ ngưỡng tùy nhân tạ bất năng.100
(Dịch thơ)
Xưa từng nương gió chín tầng,
Bấy giờ biển bắc chim bằng sánh ngang.
Danh suông "cơ", "đẩu" nên than,
Ai về sau học đem làm mẫu khuôn?!
Lửa chân luyện mảnh lòng son,
Mười năm bầu ngọc sạch trong chức làm.
Huống chi lại nói thích nhàn,
Theo người luồn cuối chẳng màng tài đâu?
Thái Phúc đọc đi đọc lại bài thơ không ngớt trầm trồ thán phục:
- Tôi dù có mắt nhưng không nhận ra núi Thái Sơn. Tôi vô cùng thán phục trước tài nghệ xuất chúng và tài làm thơ nhanh như chớp của anh. Thật đúng như người đời thường nói: chỉ một đường roi vạch một vết thương, chỉ một cái tát đủ làm tóe máu - Thái Phúc cứ say sưa ca tụng.
Hắn đã từng thất vọng vì chưa bao giờ gặp được một người xuất chúng, và giờ đây, trên mảnh đất man di này, con người đó đang đứng trước mặt hắn, sừng sững "như Rồng như Phượng".
Nguyễn Trãi không muốn gì hơn là được rút lui. Ông nói:
- Những câu thơ này tôi làm vội vã quá, nên không đáng được quan tâm đến thế.
Chú tiểu đồng đã mang rượu nóng cùng những món cao lương mỹ vị ra. Thái Phúc nói:
- Bây giờ xin hãy nâng ly chúc mừng cuộc gặp gỡ tiền định này và chúc mừng thiên tài văn chương của anh những ngày sắp tới đây sẽ chói sáng vượt qua biên giới đã bị xóa bỏ đến tận bầu trời Nam Kinh.
Nguyễn Trãi chua chát đáp:
- Tôi tớ ngài chỉ là con của một tù nhân và là một kẻ chiến bại, làm sao dám cụng ly cùng ngài?
Thái Phúc dịu dàng nói:
- Những lời như thế không xứng với miệng của anh. Hãy tưởng tượng ta vui biết bao khi được trò chuyện cùng anh? Ta van xin anh đừng kiểu cách, đừng từ chối như thế, và xin hãy cạn ly này!
Hắn đưa cho Nguyễn Trãi cái ly bằng vàng, trong khi hắn chỉ dùng cái ly bằng ngọc bích - Nguyễn Trãi lịch sự cầm lấy nhưng không uống. Thái Phúc tự nhủ: "Chắc anh ta không uống rượu được. Đây là một tính cách cao thượng và quý phái. Hãy cẩn thận kẻo phật lòng anh ta". Và hắn ra lệnh mang trà ra ngay. Rồi bằng những cố gắng không chê được, hắn đã làm dịu được ánh mắt rực lửa của chàng.
Đây là thứ trà Liễu Ngân nổi tiếng được pha bằng nước mưa bốc lên một mùi hương dìu dịu, nhà nho trẻ chiếu cố nhấp đôi ba ngụm. Thái Phúc thở phào mặc dù vẫn tiếc rằng chàng không thèm đụng đến các món ăn đã được chuẩn bị chỉ để dành cho chàng như: rùa nướng, măng, gỏi cá chép và canh chim cút. Hắn sợ một lời từ chối kiêu kỳ sẽ đầu độc bầu không khí và làm hỏng các bước kế tiếp trong kế hoạch của hắn. Đột nhiên hắn cảm thấy phấn chấn, phần vì thứ rượu Thăng Long mà hắn vừa cạn một ly, phần vì sự hiện diện của một nho sĩ rất đẹp và tài hoa bên cạnh. Tên Đô chỉ huy nghiêng đầu về phía Nguyễn Trãi, với vẻ mặt dịu dàng và thân mật, hắn bắt đầu khoe khoang về sự đón tiếp sẽ được dành cho những nhân tài Giao Chỉ, trước tiên là ở Quảng Châu, rồi sau đó đến Nam Kinh. Hắn thì thầm thân mật:
- Chỉ có Hồ Quý Ly là bị thích dấu lên mặt và gửi đến Quảng Tây như một tên lính quèn theo lệnh của Hoàng thượng. Còn các con ông ta, Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng, Hoàng thượng đã hứa sẽ trọng dụng nếu họ biết điều. Cả hai hiện đang sống trong hoàng cung ngay giữa thủ đô Nam Kinh. Anh nghĩ sao về các điều ấy?
Nguyễn Trãi đã nghe đồn rằng Hồ Quý Ly không được hưởng một sự đối đãi đặc biệt nào của vua Thành Tổ cả, và chắc chắn sẽ bị đưa đến chợ Đông Đô để chịu gia hình. Còn về phần các con ông là Hồ Hán Thương và Hồ Nguyên Trừng, chỉ nhờ sự hiểu biết của họ về vũ khí mà họ được sống sót. Nhưng nói về quá khứ có ích gì.
Nguyễn Trãi đáp với vẻ ân cần tinh quái:
- Bởi vì Hoàng thượng của ngài muốn tập trung những sĩ phu và nghệ nhân này để họ phát huy tài nghệ ở Trung Hoa, thế thì, vì lợi ích của chính đất nước ngài, điều kiện tiên quyết chẳng là họ còn sống để đi được đến nơi sao?
Nghe những lời này, Thái Phúc phá lên cười:
- Rất đích đáng! - Và hắn la lên: - Để chịu phạt tôi xin uống cạn ly này! - Hắn nâng ly uống, và xin bồi thêm một ly nữa. Sau đó hẳn thở dài: - Tôi tin rằng một đầu óc tinh tế như anh chắc đã đoán được nỗi đau khổ âm thầm đang gặm nhấm ruột gan tôi! - Và hắn âu yếm nhìn chàng.
Trước một vài cử chỉ ngả nghiêng mơn trớn của hắn, Nguyễn Trãi đã đoán được phần lớn ý định của Thái Phúc đối với chàng, nên chàng giữ một thái độ im lặng dè dặt. Tên quan Tàu nói tiếp:
- Vì tôi là một chiến sĩ đã được đào luyện để hiển hách vùng vẫy giữa ba quân, chứ không phải để làm cái nhiệm vụ thấp hèn này là áp tải đoàn lữ hành và coi tù. - Hắn nói tiếp với nụ cười mỉm lạnh lẽo. - Đây là một thứ nhà tù với các dốc đứng làm vách ngăn, hố thẳm làm ngục thất! Sau một năm dài chinh chiến, nỗi ước mong được nghỉ ngơi một chút ở quê nhà đã khiến tôi phải nhận vai trò này. - Hắn lại thở dài và rót một ly khác - Vào thời vua Thang vua Vũ, người ta không đánh nhau để thôn tính lãnh thổ, mà chiến đấu để tiêu diệt tai ương. Mỗi chiến binh đều tâm niệm phải chứng tỏ sự cao quý của mình, của vua mình, của sự nghiệp và của xứ sở mình. Chiến thắng là dịp để trừng phạt những kẻ "hai lòng", và người ta sẵn sàng tha cho kẻ bại trận hơn là tha cho các vị chỉ huy bị ngờ vực về lòng trung thành. Chiến tranh mang thêm danh dự cho những chiến sĩ đã có danh dự rồi. Hỡi ôi! - Hắn quạt mạnh cái phất ruồi vào khoảng không - sau nhiều thế hệ, các quy luật chiến tranh thời xưa không còn thông dụng nữa. Những kẻ phiêu lưu và những tên không ra gì đã thế chỗ những con người dũng cảm xưa kia, sự cướp bóc và tàn sát thay cho vinh quang và tiền chuộc. Chiến tranh xâm lược không chừa một ai, nó không còn là công việc của những người con nhà võ cao thượng. Tôi đoán chắc rằng những lời chân thành này làm anh ngạc nhiên. Nhưng đó là những ý nghĩ thâm sâu tận đáy lòng tôi được hé ra cho người mà Trời đã cho tôi biết rằng đó là một người bạn đích thực.
Nguyễn Trãi không thể nghe những lời ấy mà không cảm thấy ngạc nhiên xúc động, và chàng vội vã trấn áp tình cảm ấy khi thấy rằng có thể rút ra từ những lời nói ấy những điều khả dụng, hữu ích. Chàng nói:
- Kinh Dịch có câu: "Quân tử nuôi dưỡng đức hạnh bằng việc chu toàn những điều nghĩa", và còn có câu: "Quân tử thì có lòng nhân từ". Trước lòng ưu ái của ngài đối với những người man di vẫn còn xa lạ đối với các luật lệ của ngài, ai dám cho rằng ngài không hành xử đúng với nguyên tắc trên? - Và chàng nói thêm trong khi Thái Phúc như được lên mây mỉm cười hoan hỉ - Vì thế, tôi cũng xin ngài tha thứ cho những lời lẽ vừa rồi của tôi. Vì bây giờ tôi không còn nghi ngờ gì về lòng thành tâm của ngài muốn đưa những sĩ phu và nghệ nhân nước Đại Việt đến Trung Hoa an toàn và khỏe mạnh. Tuy nhiên, bao nhiêu người sẽ đến được nơi đó? Nhiều người đói lả vì chỉ có cỏ để mà nhai, phần đông lạnh run dưới một lớp áo mỏng, đôi chân không có gì che chở bị đỉa vắt bu đầy, bàn chân trần của họ toé máu vì sỏi đá trên đường. Ban đêm, chỉ có một đống lửa nhỏ để ngăn thú dữ, họ phải nằm ngủ trên mặt đất ẩm ướt và nhớp nháp, làm mồi cho rắn, bò cạp và muỗi. Bị những cơn sốt làm cho suy kiệt, những người yếu nhất qua đêm đã thành thây ma.
Nói xong, chàng đưa ánh mắt trẻ đẹp trang trọng của mặt nước hồ thu nhìn Thái Phúc đang run run. "Như thế - Thái Phúc thầm nghĩ trong khi cảm thấy nước mắt trào ra bờ mi - trong lúc ta nằm trong lều ấm chăn êm mơ tưởng đến anh ta thì anh ta phải qua những đêm dài như vậy đó. Nhờ phép lạ nào mà anh ta còn sống sót đến hôm nay? Tại sao trước những món ăn ngon và rượu thơm thế này anh ta có thể từ khước? Trong khi bụng đói và miệng khát! Ý chí sắt thép của anh ta chứng tỏ anh ta là một thanh niên phi thường!". Lòng tràn ngập ngưỡng mộ, Thái Phúc như mê mẩn.
Thấy Thái Phúc xúc động, Nguyễn Trãi chắc chắn mình đã đạt mục đích. Lòng thương xót của viên quan Tàu chủ yếu dành cho anh, nhưng điều đó không quan trọng lắm miễn là sự khoan hồng của hắn trải rộng trên mọi người. Bây giờ, sau khi đã chiếm được cảm tình của hắn, Nguyễn Trãi thấy đây là lúc thuận tiện để nói tiếp thêm với một giọng đặc biệt thiết tha:
- Ngài đã cho tôi được vinh hạnh chia sẻ những tâm tư thầm kín của ngài, và tôi rất xúc động vì những lời lẽ xác đáng của ngài. Ngài đã thật lòng, vậy thì tôi cũng xin trả lời thật lòng: trong trường hợp này, tôi rất thông cảm với ngài, nhưng thật tình tôi thấy, rất đáng tiếc cho ngài biết bao!
Thái Phúc bỗng giật nảy mình và cặp mắt tha thiết, hắn nắm lấy bàn tay Nguyễn Trãi. Gương mặt rất xanh của hắn đột nhiên đỏ bừng như lửa lựu, và lẩm bẩm nói qua hơi thở dồn:
- Anh muốn nói gì?
- Đơn giản chỉ vì nước Đại Việt thua và các ngài thắng!
- Thì sao? - Thái Phúc cụt hứng và thắc mắc rút tay lại.
- Ngài đã chẳng nói với tôi là chiến tranh chinh phục không chừa một ai đó sao?
- Nhưng rồi sao? - Thái Phúc hỏi bằng một giọng dằn dỗi và uống thêm một ly nữa.
- Lịch sử đã chứng minh rằng một chiến thắng mà đẩy đến tột cùng sẽ tai hại cho kẻ thắng. Bởi vì các nhà vua các ông đã đi theo vết xe của nhà Hán, nhà Tần, theo đuổi những công trình vĩ đại và những chiến công lẫy lừng. Vậy thì dân tộc các ông chuẩn bị chịu những thống khổ gì nữa đây?
Sự im lặng chú ý của Thái Phúc khuyến khích chàng tiếp tục:
- Dưới chiêu bài bảo vệ cho sự kế tục ngôi báu nhà Trần, triều đình các ông đã xâm lăng nước Đại Việt và biến nó thành một châu quận của Trung Quốc do các quan Tàu cai trị. Làm sao những kẻ thất trận bị tước đoạt hết mọi thứ lại không tìm cách để nổi dậy? Những cuộc kháng chiến sẽ bùng lên và các ông sẽ phải đàn áp. Những đạo quân mới từ nước Tàu sẽ không ngừng được phái đến. Nhiều binh sĩ của các ông sẽ bỏ thây nơi quê người, nhiều bộ xương sẽ nằm lại trên đất khách không có mồ mả. Các bà mẹ sẽ than khóc, và dân chúng sẽ kêu rên than oán vì bị vắt kiệt bởi thuế má và những công việc lao dịch phục vụ chiến tranh. Đến nỗi tôi nghĩ rằng mối nguy không phải ở bên ngoài biên giới mà nằm ngay trong chính đất nước của các ông. Đó chính là vì chỉ nhìn thấy cái thành công trước mắt mà không suy xét đến những hậu quả sau lưng. Chẳng phải đức hạnh dạy ta điều ngược lại tức là tiết kiệm sự sống vì những thứ mung lung xa vời lâu dài hay sao?
Mặc dù Thái Phúc vẫn tiếp tục mỉm cười, nhưng cặp chân mày hắn đã bắt đầu nhíu lại. Nếu hắn đánh giá được tính chất táo bạo của những lời lẽ trên đây, và nếm được cái vị có phần chua chát của một anh thế mà một kẻ chiến bại dám ái ngại cho người chiến thắng, thì mặt khác người đầy tớ mẫn cán và trung thành với Thành Tổ ấy không khỏi ít nhiều nổi sung lên vì phật ý. Bây giờ thì đã rõ người thanh niên rất đẹp, rất trang trọng không quanh co giả vờ gì cả, muốn dẫn hắn tới đâu. Thái Phúc nói với một nụ cười thoáng lạnh lùng:
- Trong khi nước Tàu là trung tâm của thiên hạ, sĩ phu và hiền triết đầy đẫy, nghi lễ và luật lệ được tôn trọng, thì lo sợ cho nó quả là phi lý. Trong bờ cõi ngoại biên phương Nam này, nơi sắp rơi vào tình trạng hỗn loạn vì tranh chấp và kình chống nhau, thì ân Đức của Hoàng đế anh minh chúng ta đã trải rộng văn minh khai hóa con người, nối lại các mối dây liên hệ xưa kia. Từ bây giờ tất cả các châu quận trên toàn Đế Quốc thuộc về một mối duy nhất. Thế thì trong trường hợp này, quận Giao Chỉ có thể làm cho dân chúng tôi mệt mỏi và quấy rầy sự yên ổn của Thánh Thượng chúng tôi được không?
Trong một lúc, hai người giữ thế quan sát nhau. Một nỗi buồn mênh mông bao trùm lấy khuôn mặt Nguyễn Trãi, nhưng cặp mắt chàng không hề bị lung lạc. Thái Phúc, tay phe phẩy cái quạt xua ruồi, lại chính là người phải rời mắt nhìn sang nơi khác trước tiên.
Xa xa trống đã điểm canh ba. Nguyễn Trãi nói quả quyết:
- Nếu người dân một tiểu quốc được phép vừa sợ vừa cung kính trình bày một ước nguyện với người đại diện của một nước lớn thì ước nguyện đó sẽ là: Trung Quốc hãy chấm dứt cái sai lầm của nhà Hán và nhà Đường, ôm ấp những tham vọng và khao khát những chiến công quân sự, và hãy trở lại với đường lối của vua Thang vua Vũ, lo xây dựng lại cái xứ sở bị tàn phá và phục hồi các triều đại suy vong. Bởi vì nước Đại Việt chúng tôi từ lâu đã là một xứ sở có nền văn hóa lâu đời, có sông núi và phong tục tập quán khác với phương Bắc. Lịch sử chúng tôi qua những bước thăng trầm không lúc nào không sản sinh những anh hùng. Sẽ có những hào kiệt lại đứng lên rửa nhục cho chúng tôi, và mảnh đất bị chiếm đóng này sớm muộn sẽ trở thành một vết thương trong chính lòng đất nước Trung Hoa. Xin ngài hãy nhớ lấy lời tôi!
Thái Phúc nốc cạn hai ly nữa, mắt lim dim.
Trong lúc cơn giận đã dịu đi nhờ hơi rượu, hắn nghĩ rằng với địa vị của hắn lúc này, để trị một sự xấc xược còn nhỏ hơn thế này, hắn chỉ cần búng tay một cái, thì cái đầu kiêu căng kia sẽ rơi xuống, chỉ cần một cử chỉ của hắn thì cái vẻ tao nhã tột cùng kia sẽ mãi mãi nằm yên trên nét mặt ấy. Hắn tự nhủ và cảm thấy ngao ngán về suy nghĩ của mình. Một nhát gươm đưa ngang cái cổ cao sang kia thì máu sẽ tuôn xối xả nhuộm lên chiếc áo dài màu tối sám kia những điểm hồng ngọc đỏ thẫm! Trong thoáng chốc, Thái Phúc buông mình chìm vào một thứ vui khốc liệt đến rợn người, cái vui thú của một người tầm thường mà liền sau đó hắn cảm thấy xấu hổ. Thực ra thú vui ấy chỉ là một sự thỏa mãn, chỉ xứng đáng với bọn lính quèn mà thôi! Hắn miễn cưỡng thốt lên:
- Thôi, hãy dẹp qua một bên những vấn đề to tát ấy để trò chuyện vui vẻ với nhau như những bạn chân tình cùng uống chung một ly rượu. Anh có biết những vần thơ này không?
Đời sống con người có nhiều ngả rẽ.
Cái đi về nam cái lên hướng bắc.
Các triều đại hưng phế nối nhau,
Chừng như hết chiều thì đến sáng.
Danh lợi, quyền bích nào để lại dấu vết,
Cố gắng hết mình, làm việc cật lực.
Để tìm kiếm những thứ ấy,
Chỉ là phung phí thì giờ quý giá.
Đã trôi đi không bao giờ trở lại.
Đó là một bài hát, và Nguyễn Trãi đọc tiếp liền đoạn cuối, không do dự:
Hãy uống cạn ba ly rượu
Cho đến say gục chết,
Chứ đừng bận tâm tìm hiểu
Những dòng nước đang chảy
Những cánh hoa phai tàn
Rồi sẽ đi về đâu?
Thái Phúc hứng khởi vỗ tay và rót đầy ly rượu của Nguyễn Trãi. Hắn nhìn Nguyễn Trãi với một ánh mắt mơn trớn và nói: chúng ta là những kẻ có cùng một nền văn hóa, tại sao chúng ta không tạm quên đi những ngăn cách chỉ có đối với những người dung tục, và hãy uống mừng các thi sĩ và các triết gia của Trung Quốc. "Này bạn, hãy tin tôi và đừng từ chối ly rượu này!"101
Gương mặt xanh nhợt tròn vành vạnh đầy nhục dục và ánh mắt chăm chú của hắn không bỏ sót một cử động nào của Nguyễn Trãi, và Nguyễn Trãi đành phải hành động như trong buổi tối tuyệt vời ở nhà Tiểu Mai. Nhớ lại sắc đẹp và tài nghệ của nàng, ông chợt rùng mình lạnh buốt, sau đó lại nóng bừng vì rượu đã ngấm vào cái dạ dày trống rỗng của chàng.
Lúc nãy Thái Phúc có ý muốn tiếp tục trò chuyện mãi, nhưng bây giờ đã say, hắn vừa múa may tay chân thật tức cười vừa hát nho nhỏ:
Ôi lòng tôi bất an và trằn trọc
Nhưng vừa thấy mặt chàng
Vừa kết hợp với chàng
Tim tôi lại bình an.102
Giọng hắn thật ướt át và cái nhìn đầy ham muốn khổ sở.
Nguyễn Trãi lúc này chỉ muốn ra về, và luôn luôn nôn nóng chờ tên tiểu đồng quay vào. Rõ ràng là tên tiểu đồng đã nhận được lệnh không được quấy rầy cuộc tâm tình của họ. Đến lúc không còn kiên nhẫn được nữa, Nguyễn Trãi định đứng lên cáo lui thì viên sĩ quan trẻ đi thẳng vào lều báo cáo là có một sứ điệp.
- Này Lư, người hãy thay ta dẫn người này về - Thái Phúc nói với vẻ nuối tiếc - rồi trở lại đây nhận lệnh.
Khi Lư trở lại gặp tên Đô chỉ huy thì thấy hắn đã bỏ mũ, cởi áo ngoài và đang nằm thoải mái. Cơn say đã biến mất nhường chỗ cho một nỗi buồn sâu kín. Trên bàn tiệc hoa xuân, không một món nào được đụng đến. Lư khinh bỉ nghĩ thầm: "Một bữa tiệc chắc chắn là quá tinh tế đối với khẩu vị của tên man di này. Có lẽ còn thiếu cái món nước mắm của hắn nữa thôi!".
Thái Phúc đang đắm chìm trong mơ tưởng, không nói một lời, chỉ thở dài. Lư quỳ xuống cạnh giường hắn: