Chương 2
"Thế giới đầy rối loạn, làm sao chấp nhận chết già"
Bấy giờ là năm Quý Tỵ (1413).
Sáu năm trước, nhà Minh xâm lược, thôn tính và đặt tên lại cho nước Đại Việt, kiểm tra dân số và kiểm kê tài sản, đốt sách và những mộc bản, đem các nhà nho và của cải châu báu trong nước về Trung Hoa, bắt đàn ông để tóc dài còn đàn bà mang áo ngắn quần dài, cấm tục xăm mình, cấm nhuộm răng ăn trầu, để rồi áp đặt nền văn hóa của họ lên nước Đại Việt. Thế là họ cho rằng họ đã vĩnh viễn chinh phục được xứ này.
Nhưng thực ra chiến tranh không phải vì thế mà chấm dứt.
Nước này bắt đầu bị đô hộ vào tháng tư âm lịch năm Đinh Hợi (1407), thì có Hoàng tử Trần Ngỗi, tự xưng là mình có quyền thừa kế lên ngôi, phất cờ nổi dậy ở phía nam, và năm sau đó tiến tới kinh đô. Tại Bô Cô gần Ninh Bình108, chính Hoàng tử đã khua trống gióng chiêng đánh tan đạo quân của tướng Mộc Thạnh rất hùng hậu gồm mấy trăm ngàn người được chiêu mộ từ Vân Nam, Quảng Châu gấp rút chuyển về đây. Tất cả những ai không chịu chấp nhận sống cho đến già dưới ách quân Minh, chẳng hạn như Đặng Dung109, đang hồi hộp hi vọng!
Nhưng than ôi, số phận thảm thương, nước mắt đã tuôn ra như mưa trên mảnh đất này, mây sầu gió thảm đã làm ánh trăng mờ tối! Vì nghe lời xiểm nịnh, vua Giản Định đã ngưng lại đà chiến thắng của mình, để trôi mất nửa năm cuối 1408 - theo biên niên sử - trong tình trạng đình trệ tai hại là không hoạt động gì cả để rồi rốt cuộc sự chia rẽ xảy ra ngay trong doanh trại của mình.
Ở Chi La, tỉnh Hà Tĩnh, một Hoàng tử khác nhà Trần, cháu nội vua Nghệ Tông Trần Quý Khoáng, đã được tôn phong làm vua dưới niên hiệu Trùng Quang.
Cuộc kháng chiến ngày càng lan rộng đã được báo động tới triều đình Nam Kinh. Hoàng đế nhà Minh lại phái sang Giao Chỉ con hổ khát máu là Trương Phụ, cầm một đạo quân gồm hai trăm ngàn quân tinh nhuệ.
Khi ông này trở lại, bộ mặt chiến tranh đã thay đổi.
Chỉ trong vài cuộc đụng độ, hắn đã bắt được của phe phản loạn gần 200 vị tướng và hơn 400 chiến thuyền. Trong cuộc tấn công cuối cùng, vua Giản Định và bề tôi đã bị bắt tại huyện Mỹ Lương vào thặng 11 âm lịch năm 1408.
Năm Kỷ Sửu (1409), Hoàng thân cuối cùng là Trần Quý Khoáng rút quân về Nghệ An, thì một sự đàn áp tàn bạo chưa từng có đã đổ xuống trên nước Đại Việt. Ách thống trị của Trung Hoa lại được tái lập với những phương thế khủng bố khiến máu chảy thành sông.
Để việc bình định được bảo đảm, họ đã tàn sát một cách quy mô những người đứng lên khởi nghĩa, và dập tắt tất cả mọi mầm mống nổi dậy trong hiện tại cũng như tương lai, các gia đình của những thủ lĩnh phản loạn - rất là đông - đều bị tru diệt. Và để dân chúng không còn dám bao che cho những kẻ vì lý do nào đó trốn thoát được, tên Nguyên soái đã giết nhiều người để làm gương.
Bất kể vào giờ nào, ngày cũng như đêm, ông già bà cả, đàn bà trẻ con đều có thể bị lôi ra khỏi nhà và bị giết một cách dã man. Người nào may mắn thì bị giết bằng gươm, nhiều người bị treo chân lên những cái móc rồi bị xẻ ra làm đôi như những con bò, hoặc bị trói đặt trên những đống củi, bị nướng bằng lửa riu riu do chính mỡ của mình chảy ra, da của họ bị phồng tấy lên và nứt toác ra như da những con heo quay. Biết bao nhiêu cái lưỡi, bộ phận sinh dục, ngón tay, vú bị xẻo, mắt bị móc hay bị khoét, bao nhiêu thanh nữ thiếu nữ bị hãm hiếp rồi mổ bụng! Khắp nơi mọi phía, những chiếc đầu lân bị chém lăn long lóc như trái dừa. Nhiều tên tra tấn bị trượt chân ngã trên những đống ruột. Các dòng sông đầy xác người trôi dạt bồng bềnh.
Người nào bị tình nghi là phản loạn thì toàn bộ bà con họ hàng đều bị truy tìm từ bà nội đang ngồi trên tảng đá bên bếp lửa cho tới tận đứa trẻ mới sinh còn nằm trên võng. Tất cả đều bị tập trung lại tại một địa điểm trong làng. Và chỉ một lát sau, ruột rà còn tươi máu của họ bị treo lòng thòng trên những cành cây đa giữa những bình vôi cũ110.
Trước bầy lang sói hung bạo ấy, dân chúng sợ hãi bỏ trốn. Người ta phải dựng đứng tóc gáy khi nghe kể những câu chuyện sau đây:
Tại làng Cam Môn, chúng đã vằm nát trên một trăm nông dân. Có hai người trong bọn họ lặn xuống đáy ao trong làng để trốn và tưởng mình sẽ thoát chết. Họ ngâm mình dưới nước và thở nhờ một cuống sen. Nhưng những bong bóng nổi trên mặt nước đã tố giác họ. Một tên Tàu mỉm cười im lặng và hùng hổ đâm ngọn giáo của hắn xuống nhiều lần. Thế là nước đỏ lên, và hai các xác dính đầy bùn và máu giãy giụa co giật trong cơn hấp hối.
Tại làng Xuân Quang, có khoảng 50 xác chết của người dân làng bị ném xuống dòng suối chảy ngang qua đó. Nhiều phụ nữ mang thai bị đâm nhiều nhát dao lòi ruột, nhiều người khác bị đập bể sọ, đã bị đẩy xuống dòng nước cùng với những em bé mới được vài tháng cõng trên lưng.
Tại Tam Độ, một cụ già nấp trong đám cỏ rậm đã trông thấy bọn lính Tàu đánh đập dân làng, mổ bụng moi tim nuốt sống. Từ lúc đó, ông cứ lặp đi lặp lại, đôi mắt như hai cục lửa: "Đồ quỷ! Đồ quỷ! Lần này thì chúng ta chết mất!".
Tại Hưng Yên, bọn Tàu chỉ tìm thấy có đàn bà trẻ con, nên chúng tập họp họ lại xung quanh ao làng theo nguyên tắc này: "Khi giữ hổ cái và hổ con, thì hổ đực sẽ phải dẫn xác tới". Những nạn nhân đó cũng như những người cha người chồng đã thử tới can thiệp đều bị chúng tàn sát bằng rìu. Cuối cùng có một em bé trai 4 tuổi và em gái của nó 2 tuổi bị chúng bắt đứng đối diện nhau để rồi đâm suốt cả hai đứa bằng một lưỡi giáo.
Trên những con đường dẫn tới kinh đô, nhiều làng mạc bị thiêu rụi, những ngôi chùa bị cướp phá, những ngôi mộ bị dày xéo, những trẻ em mang bộ mặt già đến trăm tuổi quấn vòng khăn trắng, tức đại tang, là tang cha hay mẹ.
Đêm xuống, có những bóng ma cụt đầu đi vất vưởng, những vong hồn lang thang than khóc trong những bụi tre, những con vật chết khiếp im lặng không dám lên tiếng trong bầu khí đầy chết chóc ấy.
Than ôi! Đau đớn biết bao! Những quan lại hợp tác với quân Minh cũng như cả Trời cao dường như không có một chút thương xót nào. Chính Hoàng thiên cũng có vẻ như đứng về phe quân Ngô.
Trên đám dân chúng được bọn lính tha chết cho, Trương Phụ lại đặt ách thống trị, cái ách thống trị của người Tàu, khe khắt hơn bao giờ hết.
Tất cả các phủ, châu, huyện, trại quân đều bị kiểm soát. Tên Đại tướng hủy bỏ những chính sách trước đây của viên Bố Chính - mà theo hắn, là người phải chịu trách nhiệm về toàn bộ sự hỗn loạn này. Hắn đã áp dụng tất cả những biện pháp đặc biệt nhằm kiểm soát thật chặt chẽ và bóc lột dân chúng một cách có quy mô và hệ thống.
Được Hoàng đế Trung Quốc ủy quyền dập tan mọi cuộc nổi dậy và đem lại yên ổn lâu dài, nên hắn đã chủ trương bình định miền nam theo phương thức đó. Những cuộc dàn xếp, thỏa hiệp với những băng trộm cướp cũng như những nhóm hiến loạn đều vô hiệu. Chúng giống như những ổ rắn, liên kết với nhau thành một khối chặt chẽ, luôn luôn sẵn sàng phản bội! Khi nào đã đánh bại và tiêu diệt được những băng này, thì phải làm sao để bọn khốn khổ này không còn bị cám dỗ dám ngẩng đầu lên chống lại chúa và quân vương của họ là Hoàng đế ở phương bắc. Và Thánh thượng phải đối xử sao đây với những tên mưu sĩ bất lực, những kẻ chủ trương hòa giải tệ hại đã gây ra không biết bao nhiêu xáo trộn như tên Hoàng Phúc ngu ngốc này? Muốn cai trị cái xứ Giao Chỉ này cần phải có lá gan bằng sắt, biết lãnh đạo quân đội và làm cho dân mọi rợ này biết sợ Trung Hoa Đại Quốc đến độ chúng phải chạy tới run rẩy và thần phục. Về mặt này, vị Nguyên Soái còn cảm thấy chán ghét viên Bố Chính hơn cả những quân phiến loạn, và hắn là bạn mà lại đối xử như kẻ thù.
Từ đầu tới chân, hắn là một dũng sĩ mà chỉ có vinh quang của nước Trung Hoa vạn đại mới có thể làm hắn cảm động được. Đối với hắn, không thể nói đến cái việc đi loanh quanh trên con đường hắn đã chọn. Kinh nghiệm đã dạy hắn rằng trong việc cai trị, cần thiết phải làm sao cho người ta sợ để ngăn cản họ. Những dữ kiện đã xảy ra vẫn chứng tỏ rằng hắn có lý. Tên thích hưởng thụ Hoàng Phúc này tin rằng mưu mô tốt hơn sức mạnh, hòa giải hay hơn uy quyền, đối xử nhân đạo thì tốt hơn là làm cho người ta sợ. Nhưng hắn có thắng lợi gì đâu?
Mỗi biện pháp mới mà hắn - với tư cách là Tổng chỉ huy quân đội Thiên Triều - ra lệnh áp dụng một cách khẩn cấp tại các phủ, châu, huyện, đang kính cẩn phủ phục, đều nhằm chấm dứt hẳn sự thất bại của viên Bố Chính.
Bao lâu quyền bính dân sự của tên Bố Chính này còn thắng thế, thì quân Ngô chỉ có bỏ tù dân chúng và đốt sách thôi. Nay chính sách quân sự đã thắng lướt chính sách chính trị, nhưng vẫn không thể loại bỏ hắn được, vì Hoàng Phúc là người được Hoàng thái hậu sủng ái. Những người bán sách hoặc lưu giữ những tác phẩm bị cấm, không phải chỉ một mình họ mà toàn bộ gia đình của họ nữa đều bị xử tử. Tài sản của họ thì bị tịch thu.
Ở cổng phía đông kinh thành, có chợ Cửa Đông buôn bán rất sầm uất. Cách đây không lâu, người ở Thăng Long tới buôn bán, rao hàng ầm ĩ, thế mà ngày nay, những bà bán cháo hoặc bán chó, những anh bán trà bán kẹo, những người lấy ráy tai, những người bán thuốc, bán câu đối, đều bị thiêu sống ngày đêm trên các giàn hỏa.
Thay cho mùi vị của nước dùng, mùi thơm của những nải chuối tiêu hay những trái phật thủ, là một làn khói mùi hăng hắc pha lẫn với mùi thịt cháy khét lẹt nôn mửa xông lên làm tắc cả họng người dân ở đó. Những đống tro dày chồng chất trên mặt đường, bay bụi vào những khu vườn như những bầy bướm xám, làm tắc nghẽn các cửa ra vào, chất thành đống dưới những tấm phản, và bay len lỏi vào cả những nồi cơm.
Khu dân sự lúc nào cũng có quạ bay trên bầu trời vì có những xác chết sình thối. Và lúc nào cũng có những đội quân người Tàu võ trang và áo giáp qua lại khiến dân chúng sợ hãi đổ mồ hôi hột.
Thế là không còn những buổi chuyện gẫu vui vẻ, những chuyện hàng xóm thăm viếng lẫn nhau mỗi buổi sáng khi các cổng phường và nhà hàng mở cửa. Người nào cũng ở tịt trong nhà không dám thốt ra lời nào, lo sợ bị tố cáo dẫn đến tù tội và những cực hình tinh vi của bọn Tàu.
Từ thời các vua nhà Lý, những khu vườn ở Văn Miếu và trường Quốc Tử giám, thời nào cũng đầy thầy giáo với học trò vui vẻ lui tới thế mà bây giờ chỉ còn một vài bóng người buồn tẻ qua lại. Trên cái cù lao giữa Vân Hồ, các nhà nho không còn ngâm thơ vịnh nguyệt nữa. Những người không bị lưu đày qua Trung Hoa hay không chịu ủng hộ nhà Minh đều phải ẩn mặt đi dưới nhiều lớp áo rất khác nhau. Kể từ nay, hoa mẫu đơn, hoa lựu nở ra vô ích.
Ngay cả bến Đông Bộ Đầu cũng mất đi bầu khí ngày xưa. Thời đó, tại cửa sông Tô Lịch có trồng các loại cây ăn quả như bưởi, nhãn, là một bến lớn ở phía Đông, chắc chắn lúc nào cũng có rất nhiều tàu đánh cá và buôn bán, các thuyền tam bản. Nhưng bây giờ, những chiếc ghe chở nặng của người Quảng Đông đã đến thay thế những chiến thuyền dáng thon thon của Đại Việt và những làng nổi. Những thủy thủ người Tàu để tóc dài búi thành cuộn trên đầu với bộ ngực trần cạo trụi lông, thay thế cho những thủy thủ người Việt đầu cạo trọc răng hạt huyền. Những thợ thuyền ngành giao thông vận tải phải làm việc cong xương sống, với ánh mắt lấm lét và cử điệu nặng nề dưới sự giám sát của các sĩ quan hay những vệ binh Tàu với những cặp mắt như mắt chuồn chuồn.
Năm Canh Dần (1410) đã trôi qua như thế, rồi tới năm Tân Mão (1411), rồi năm Nhâm Thìn (1412) với trận thủy chiến ở cửa Thần Đầu111.
Bây giờ là tháng 9 âm lịch năm Quý Tỵ. Những cố gắng của Trần Quý Khoáng, của các phó tướng Đặng Dung và Trần Mộng Dũ ở miền nam để nới lỏng sự áp bức của quân Minh đều vô vọng, đất nước vẫn còn tiếp tục đau khổ, và nỗi sợ hãi lúc nào cũng lây lan khắp nơi:
"Kẻ há miệng đứa nhe răng
Máu mỡ bấy no nê chưa chán
Nay xây nhà mai đắp đất
Chân tay nào phục dịch cho lừa
Nặng nề về những nỗi phu phen".112
Ngày nào cũng như ngày nào, từng đoàn người đi thành hàng dài phải rời khỏi tỉnh khỏi làng, ra đi không biết ngày về.
Người thì đi đắp đê, xây đền thờ cúng những vị thần mới. Kẻ phải đi sâu vào tận rừng thiêng núi độc đầy hổ báo, rắn rít và ma quỷ, khai thác vàng, bạc, đồng, sắt, hay săn ngà voi, sừng tê giác. Những người khác phải về vùng biển Tiên Yên, Vân Đồn, buộc phải lặn xuống đáy biển mò ngọc trai để làm mồi cho cá mập.
—★—Đêm đã khuya.
Gió thu làm những cành cây đinh113 lay động. Gió len vào các cửa sổ, lùa qua những tấm giấy bị rách, làm ngọn lửa cháy bằng nhựa cây loại xấu chập chờn. Dưới ánh lửa, Nguyễn Trãi đang đọc sách.
Góc phía nam kinh thành, có một ngôi nhà nghèo nàn và hiu quạnh, nằm lẩn khuất sau các bóng cây giữa đền Văn Miếu và suối Thanh Tuyền, đó là nơi chàng đã đến ở được hai năm nay, hồi chàng được chỉ định cư trú tại Đông Quan (Thăng Long). Căn nhà được ngăn thành ba gian. Gian trái là nhà bếp, gian phải là phòng ngủ, còn gian giữa là phòng khách, ở cuối phòng khách là một chỗ trống thường là chỗ đặt bàn thờ tổ tiên, nhưng hiện vẫn còn để ở làng Nhị Khê. Người ta không thể tìm thấy nhà nho nào có đồ đạc đơn sơ hơn: một tấm phản đã bị mối gặm ở phía dưới dùng làm bàn viết, bàn ăn và giường nằm, một cái rương đã bị tháo tung đựng một chiếc đàn đã cũ và mốc thếch như cái áo dài mà chàng vẫn mặc trên người, một ống điếu thuốc lào bằng tre, một cái bát mẻ đựng rượu cận, và cuối cùng, trên giá sách, tài sản duy nhất là một vài cuốn sách và một vài tập thơ, đương nhiên là sách Tàu.
Miệt mài đọc sách, nhà nho trẻ này vẫn không để ý gì tới ngọn đèn lúc mờ lúc tỏ. Thỉnh thoảng chàng nhấp một chút rượu nhưng mắt vẫn không ngừng đọc. Những năm tháng chống chọi đối với những lời đe dọa, mua chuộc của viên Bố Chính, một đời sống tạm bợ và thiếu thốn đã tạo cho khuôn mặt của chàng một vẻ khắc khổ, rất hòa hợp với ánh mắt nghiêm nghị, bộ râu mép đen và râu cằm của một hán tử tuổi đã ngoài ba mươi.
Vào lúc khắc muộn canh tàn này, người ta không tìm thấy một người nào khác hiện diện ở đó bên cạnh ông, dù là một người vợ, một nàng hầu hay một đầy tớ, dù là một con vật, chó hay ngựa.
Đêm đã khuya lắm rồi, ngọn gió mạnh khiến cho ngọn đèn lại chập chờn nhiều hơn nữa. Đưa mắt lên phía trên cuốn sách, nhà nho trẻ cảm thấy mình dần dần chìm đắm trong trạng thái u mặc nặng nề. Chàng định khép mắt lại thì thấy cánh cửa bên ngoài bỗng nhiên mở ra do một tên đầy tớ bận chế phục xanh đẩy vào:
- Ngươi tới đây làm gì? - Nguyễn Trãi hỏi người khách đến đột xuất ấy. Đôi chân khẳng khiu của hắn như chân cò khiến chàng thấy hẳn na ná giống già Phan hồi chàng còn trẻ.
- Kính chào Thầy - tên đầy tớ cúi đầu xuống - Tướng công xin thầy vui lòng đi theo tôi.
Lập tức, nhà nho cảm thấy trào lên một tâm tình bất khuất khiến chàng định từ chối. Lại một mưu mô gì mới của Hoàng Phúc đây! Hắn cứ bị tên Trương Phụ lòng lang dạ sói thúc đẩy làm những chuyện độc ác.
- Ngươi sẽ dẫn ta đi đâu?
- Kính thưa thầy Ức Trai114 - tên đầy tớ trả lời - thầy muốn tự do hay bị tù tội tùy ý thầy.
Không làm khác được, Nguyễn Trãi đành sửa lại khăn áo, xỏ đôi giầy cỏ vào rồi đi theo hắn.
Trước mảnh vườn nghèo nàn trồng xương rồng xung quanh, có một chiếc cáng đang chờ sẵn. Nguyễn Trãi ngồi lên cáng. Hẹn gặp nhau giữa đêm khuya khoắt thế này nghĩa là gì? Làm sao mà tên mật phái viên này biết được bút hiệu của chàng? Nhà nho chưa hết ngạc nhiên thì họ đã tới nơi. Trước khi nhận ra chỗ đó là chỗ nào, thì chàng đã thấy mình được đưa vào một thư phòng rất quen thuộc với chàng. Thư phòng này nhìn ra một cái vườn hoa được trang trí bằng một cái chòi lục giác và một cái cầu mà chàng biết từng chi tiết.
- Xin thầy qua cái chòi hóng mát ở bờ ao kia - Người đầy tớ nói - Có người chờ thầy ở đó và sẽ giải thích cho thầy mọi việc.
Không do dự, Nguyễn Trãi đi theo con đường mòn một cách thông thạo như thể chàng mới đi trên con đường này hôm trước. Rồi chàng băng qua cây cầu có lan can làm sơ sài, đi ngoằn ngoèo giữa những hòn non bộ, những khóm trúc, rồi tới trước một căn chòi mà chàng biết chắc chắn chủ của nó không phải là người Tàu. Lúc đó, mặt chị Hằng bị một đám mây che khuất lại.
Chàng lom khom phía dưới bốn bậc thang dẫn lên căn chòi.
- Lại đây đi, Trãi! - Một giọng nói bên trong vọng ra khiến chàng băng một mạch qua những bậc thang tiến về phía bóng người ngồi tận bên trong. - Lại đây! - Tiếng nói lặp lại nhưng chuyển sang giọng đầy nhân hậu của Hoàng thân Trần Nguyên Đán.
Lúc đó, vầng trăng yếu ớt của tháng 9 âm lịch ra khỏi đám mây, và chàng nhận ra khuôn mặt thanh tú của Hoàng thân.
- Ta ở đây là nhờ ơn huệ đặc biệt của Ngọc hoàng. - Ngài nói với Nguyễn Trãi đang phủ phục dưới chân Ngài. - Chẳng bao lâu nữa là ta cũng lại về chầu Trời. Trong những lúc rảnh rang, ta được nghe các vị Thần, trong đó có đức Trần Hưng Đạo, nói rằng ý muốn không bao giờ thay đổi của người Tàu là làm sao hủy diệt toàn bộ dấu vết quá khứ của chúng ta, nên đã đốt sách của chúng ta và xử tử hình bất cứ ai lưu giữ sách. Phần cháu thì bao lâu nay, đầu óc cháu đã từng thấm nhuyễn những bút tích của các vị danh tướng nước ta...
Không nói được tiếng nào. Nguyễn Trãi chỉ cúi đầu nhìn nhận. Một cảm xúc mạnh mẽ làm tâm trí chàng mở rộng. Hồn phách chàng như bay bổng xung quanh chàng.
- Cần gì cháu cứ phải đọc đi đọc lại những bút tích ấy khi chúng đang bị cấm? Hãy ghi khắc tận đáy lòng những bài học của các ngài, còn giấy tờ sách vở thì dẹp sang một bên.
Mặc dù ngài phán bảo bằng một giọng rất cương quyết, nhưng ánh mắt của Hoàng thân thì vẫn hiền lành và nhân hậu.
- Trãi à! Cho tới nay, cháu chưa phạm một lỗi lầm nào, nên cháu nổi tiếng là người cương trực. Điều đó dần dần tạo nên một mối thù ghét sâu xa, những tên phản bội đầy căm thù vẫn luôn luôn tìm cớ để hại cháu đấy. Hãy giữ mình kẻo làm phương hại tới sứ mạng tương lai của cháu chỉ vì một sơ suất nào đó. Nước được tưới khắp đồng bằng đều phát xuất từ một ngọn suối. Cây tuy đã gãy, nhưng nếu người ta biết chăm sóc cái gốc của nó, thì nó sẽ còn tiếp tục đâm chồi nẩy lộc. Bây giờ ta phải đi.
Nguyễn Trãi cố níu lấy vạt áo ngài, nhưng bàn tay của chàng chỉ nắm được không khí. Tiếng nói của chính chàng bỗng làm chàng thức dậy: tất cả chuyện này chỉ là một giấc mơ, một giấc Nam Kha.
Chàng vẫn ngồi trên tấm ván trước cuốn sách còn đang mở và cái đèn lung linh. Chàng cầm lấy đèn và đưa từng cuốn sách, xếp trên kệ lại gần đèn: Đại Học, Luận Ngữ, Mạnh Tử, Trung Dung làm nên bộ Tứ thư; Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu làm thành bộ Ngũ Kinh. Đó chỉ là những cuốn sách được phép đọc. Một vẻ lúng túng hiện trên khuôn mặt chàng.
Cái rương chỉ đựng có hai áo dài đen, một cái mũ nhà nho mốc meo bao phủ từ hồi nước ngập, và cái đàn tranh bị chùng dây. Chàng kiểm lại tỉ mỉ cái nắp rương và đáy rương, không thấy có gì lạ. Không có một bàn tay xấu bụng nào đã tới để giúi vào đây một tác phẩm bị cấm nào đó, rồi lấy cớ đó để kết án chàng. Trong cái thời nhiễu nhương này thì chuyện ấy thường xảy ra lắm!
Chàng bước ra mái hiên, bàn tay để trong ống tay áo, chàng nhìn lên bầu trời xanh thẳm của canh năm115 một lúc lâu, qua những tàn cây xanh đang xào xạc trong gió. Phía trên, cái mái nhà bằng tre kẽo kẹt lên từng hồi. Giấc mơ vừa qua thật là rõ ràng, chính xác và phù hợp với thực tế một cách đáng ngạc nhiên khiến chàng xúc động mạnh mẽ từ nãy giờ. Nhớ lại Hoàng thân, nhớ lại lúc ngài chuyển giọng, chàng cảm thấy mình gần gũi với đứa trẻ ở Côn Sơn. Có biết bao nhiêu lễ Trùng Dương116sẽ tới, rồi sẽ qua đi trước khi chàng lại nhìn thấy những cây dâu, những cây đinh tán của căn nhà xưa, và dòng suối trên ngọn đồi? Hai năm trước, chàng có moi được của Hoàng Phúc giấy phép về làng Nhị Khê để lo xong cái bổn phận đơn giản nhất trong những bổn phận của một con người đối với phần mộ của tổ tiên mình, nhưng chàng đã lén lút về Côn Sơn thăm gia đình chàng. Nhưng giờ đây, vợ chàng - Thị Thanh - và các con chàng vẫn còn sống ở đó hay đã bị lưu đầy, bị tàn sát vì cuộc khởi nghĩa thất bại của người cậu nàng, tức ông cậu của các con chàng, là vua Giản Định? Chàng không nhận được một tin tức nào về gia đình cả. Thằng Bảo, con trai lớn của chàng vừa được 13 tuổi, lúc này có phải là một tên tiểu đồng được yêu quý của một ông chủ theo cùng một ruột với tên Thái Phúc không? Vợ của chàng có phải thành một đồ giải trí trong khuê phòng của một vị tướng Tàu không?
Giấc mơ đó, chàng vẫn chưa hiểu được ý nghĩa của nó, nên nó chẳng trả lời gì được cho những câu hỏi ấy của chàng.
Từ những khóm sậy bị gió hành hạ, những con cò trắng cất cánh cao bay, xa xa một kỵ sĩ phi ngựa lên cầu khiến cho chiếc cầu bắc qua dòng suối Thanh Tuyền rung động.
Chàng đã say mê học nhiều môn chiêm tinh và nhiều phương pháp bói toán khác nhau, nhất là phương pháp cửa Triệu Tử Bình117, và chàng cũng đã học phương pháp Chiêm Mộng Linh118. Bị một người đã chết la mắng là điềm báo sắp có một niềm vui lớn, thấy một người đã chết sống lại là điềm báo sẽ có tin từ xa. Nhưng làm sao thỏa mãn được với chàng giải thích sơ lược như thế, những điều xây dựng trên niềm tin cố hữu cho rằng quỷ thần có khả năng báo trước cho con người những biến cố tốt hay xấu sẽ đến!
Những nông dân cầm bó đuốc rạ trên tay khom người lầm lũi dưới cơn gió lốc ra đồng thì trời vừa bắt đầu sáng. Nguyễn Trãi suy tư dõi mắt theo những đốm sáng di chuyển nhấp nháy phía bên kia Vân Hồ. Số phận của chàng mới kỳ lạ làm sao! Khoa chiêm tinh đã hứa hẹn với chàng biết bao vinh quang, thế mà chàng lại vẫn cố tình sống ẩn dật thế này! Bất chấp luật lệ, chàng viết lên tâm tình của chàng bằng tiếng Nôm, tiếng mẹ đẻ của chàng, vốn phong phú hơn bất kỳ một ngôn ngữ nào khác trong việc thổ lộ tâm tình.
"Chiến sự đang hoành hành, ta không thèm can thiệp vào, chỉ ngồi thổi sáo trong túp lều của mình để bảo dưỡng tính tình.
Gia tài của ta chỉ là những cuốn sách cũ này,
Bữa ăn sáng chiều của ta chỉ là vài chén cơm gạo hẩm.
Những đêm thanh vắng, vầng trăng hiện ra qua những lùm tre ngoài hiên.
Những ngày yên tĩnh, đàn chim ca hát sau những khóm hoa,
Con người có phẩm chất phải trung thành với lý tưởng của mình,
Nghèo không sợ, già không lo".
Vì quyết tâm đứng ngoài cuộc chiến, nên chàng đã khẳng khái thay đổi câu thơ đầu: "Ta không muốn nhìn thấy gì về cuộc chiến tranh này cả". Qua bài thơ, chàng diễn tả một quyết định vững chắc, nhưng không vì thế mà viện dần lý do. Chính chàng đã hiểu rõ những lý do đó chưa? Một nhà hiền triết chỉ hành động một cách có ý thức và chỉ bằng lòng với những gì chắc chắn. Mà sự chắc chắn duy nhất của chàng, khi mà cái nghèo cứ mỗi ngày mỗi siết chặt lấy chàng, là từ chối không chịu cộng tác với bọn Tàu, cho dù Hoàng Phúc có chặt chàng ra thành từng khúc. Chàng vẫn mong ước nồng nhiệt muốn "chuyển núi dời non", muốn đuổi quân xâm lược, thế thì tại sao chàng lại không gia nhập cuộc kháng chiến của nhà Trần? Vì cái bản năng thầm kín nào, do ảnh hưởng của cái quyền lực vô hình nào mà chàng đã từ chối không làm điều ấy? Chàng không thể tự giải thích cho mình một cách hoàn hảo được. Biết đâu đáng lẽ ra chàng đã làm thỏa mãn niềm mong ước thân thiết nhất của vợ chàng, chàng biết điều đó. Có lẽ chàng cũng đã làm thỏa mãn vong linh của ông ngoại chàng đã từng trung thành cho đến chết với triều đại này, và tóm lại, vì Giản Định Đế cũng đã từng gần như chiến thắng ở tầm tay. Thái độ của chàng đã khiến cho những người theo phe nhà Trần chê trách. Họ đã không ngại đối lập chàng với Trần Mộng Dũ, cậu của chàng, là người sau khi đã phụng sự nhà Hồ như chàng, hiện tại chiến đấu bên cạnh Trần Quý Khoáng ở miền nam.
Nguyễn Trãi chấp nhận việc người ta có thể hiểu lầm về sự không hoạt động của chàng. Chàng biết người ta đã ra mặt chế nhạo chàng từ cả hai phe. Người ta thích chế nhạo chàng bằng cách ví chàng với vua Thang - "theo tiền nhân, là người vẫn sống cô lập một cách tự mãn, vẫn cứ tin rằng mình chính trực theo nhãn quan của mình, bất chấp sự phủ nhận của người đương đại"! Tuy nhiên những chuỗi biến cố vừa qua đã thực sự chứng minh rằng chàng có lý. Vì Mệnh Trời đã dứt khoát cất đi khỏi tay nhà Trần rồi, nên Giản Định đã thất bại do chính sự chia rẽ ngay trong hàng ngũ của mình trước khi bị thất bại vì sức mạnh của quân Ngô! Và chính vì thế mà ách thống trị của nhà Minh đã trở nên tàn nhẫn hơn!
Xa xa, chàng trông thấy qua các lùm cây những cái mũ vành cong hình đuôi én và những ngọa kích nặng nề của đội tuần tra Trung Hoa.
Những cuộc khởi nghĩa khác cố sức lật đổ ách thống trị của Thiên Triều nhưng không thành công hơn những cuộc khởi nghĩa trước. Biết bao sinh mạng đã phải hy sinh vì đã tấn công vào những vị trí không thể hạ nổi như Lũng Châu và Thục Châu của Trung Hoa. Để chiến thắng, cuộc chiến đấu của dân chúng phải theo một chiều hướng mới, một chiến lược quân sự mới để thích ứng với tình thế mới. Tóm lại, cần phải có một vị lãnh tụ quy tụ được cả nước, huy động được mọi nguồn nhân lực và tài lực. Vị lãnh tụ ấy khoa chiêm tinh đã báo cho chàng biết.
"Hãy kiên nhẫn! Hãy sáng suốt", Nguyễn Trãi tự nhủ như thế khi bình minh ló dạng. Việc trước mắt là không nên làm dân chúng thất vọng vì những thất bại liên miên, mà hãy dùng thì giờ để xe thành sợi, chuẩn bị dệt nên chiến thắng. Những đau khổ thử thách trong những năm qua đã khiến chàng mở mắt: cuộc chiến tranh của dân chúng sẽ nhờ dân chúng mà thắng lợi qua việc chinh phục được nhân tâm.
- Chinh phục nhân tâm! Cuộc chinh phục nhân tâm! - Chàng vừa vào nhà vừa lẩm bẩm như thế.
Chàng bồn chồn thấm ướt thỏi mực, vừa mài nó vào một nghiên đá vừa càu nhàu vì chất lượng mực xấu quá. Nó khiến chàng mất thì giờ ghi lại tư tưởng của mình, cây viết lông không ghi lại đủ nhanh theo ý chàng. Tâm hồn chàng tràn ngập một niềm hứng khởi bao la, tưởng chừng như, khi chàng viết lên giấy những điều căn bản làm cơ sở cho chiến lược quân sự của chàng, chàng đã thấy trước được một ngày kia những điều đó sẽ là bí quyết của chiến thắng. Một vài năm sau, trong chiến khu Lam Sơn, chàng sẽ nhớ lại cái buổi sáng này, cái buổi sáng mà chàng đã nghĩ ra được những dòng tư tưởng hướng dẫn cho đường lối chính trị của chàng, trong căn lều ở phía nam kinh thành. Đường lối chính trị ấy đặt cơ sở "không phải trên việc vây hãm các thành trì mà trên việc chinh phục nhân tâm". Cái chiến lược này bao hàm những phạm vi hoạt động mà chàng cần phải suy nghĩ thật kỹ càng chín chắn.
Chàng đọc lại những ghi chép của chàng. Hiện tại chàng đang sắp xếp những điều mà đầu óc chàng sôi sục nung lên trong giây phút sáng tạo hứng khởi. Chàng bắt đầu thoáng thấy những khả năng của những sáng kiến đó và việc đem áp dụng chúng hoặc về phía dân chúng (dân chúng có thể nâng đỡ quyền bính mà cũng có thể nhấn chìm quyền bính đó), hoặc về phía quân thù. Chính lúc đó, câu nói của vị Hoàng thân lại trở về trong ký ức của chàng. "Hãy ghi khắc những điều ấy vào lòng, đừng quên những điều ấy!".
Chàng cuộn tờ giấy của chàng lại, đưa nó vào chiếc đèn. Một ngọn lửa sáng lóe lên. Chàng bị thu hút đến độ làm bỏng cả mấy ngón tay.
—★—Vài ngày nữa trôi qua, và đã đến lễ Trùng Dương.
Trời cứ mưa suốt khiến cho câu ca dao sau đây trở thành nói láo:
"Ngày chín tháng chín mà mưa.
Mẹ con đi sớm về khuya an lành".
Nước sông chảy mạnh đã dồn cát lại thành đống dưới chân đê cả hàng ngàn dặm. Thuyền bè không dám mạo hiểm trên sông, nên đều phải ẩn trú trong các làng đánh cá. Người ta nói đê Cơ Xá bị nứt nhiều chỗ. Không ai biết nó còn đứng vững được bao lâu nữa. Nghe tiếng trống báo động, những đoàn người lao dịch phải nhào xuống bùn lội bì bõm, một mặt thì lấy cọc chống đê lên, một mặt thì lấy đất đắp thêm. Con sông vẫn không ngừng dâng nước lên quá mức! Giữa những hồi trống, bọn lính Tàu la lối ra lệnh cho hàng ngàn người tiếp tục tải đất, đóng cừ chống, trong khi họ đã kiệt sức, đã phải "thở ra đằng tai" rồi! Cần phải cướp thời gian mới thắng được con nước, mới ngăn chặn được nước không cho tràn ngập vào ruộng, nhấn chìm hết vụ lúa mùa thu hầu như đã chín, nhà cửa của người sống và mồ mả của người chết. Lầm than và tan hoang, dân chúng kêu than. Lẽ nào Trời lại chơi những trò ác độc như thế đối với người dân đang bị lầm than vì chiến tranh và vì đô hộ! Trong chùa, các bà già cầu nguyện, đôi bàn tay chắp lại kẹp những cây nhang ở giữa. Nhưng trời vẫn cứ mưa. Các quan chức đi tuần tra ngồi trên xe ngựa, lo bảo vệ bộ triều phục của họ dưới lớp áo choàng quang dầu.
Nguyễn Trãi lắng nghe mưa thu dồn dập xuống mái nhà lá của chàng. Chàng không còn rượu để mừng lễ hội hoa cúc nữa, nhựa để đốt đèn cũng đã hết, không còn thuốc lào để hút nữa, trầu cau cũng thế, còn những đóa cúc thì gió mưa đã làm tơi tả. Vào ngày 9 tháng 9, trong khi cây nhang cuối cùng của chàng đang cháy thì chàng đọc Kinh Dịch119, và cố quên đi cái đói của mình chỉ được nuôi bằng nước rau muống luộc.
Cho tới giờ, chàng vẫn sống lắt lay nhờ những món quà nặc danh được đem tới trước cửa nhà chàng, và cũng nhờ vào đám học trò được Tiểu Mai giới thiệu đến. Những người lắm chuyện khi ngồi lê đôi mách có kể rằng nàng nhận từ "những người bạn Tàu" của nàng nhiều vàng bạc và vải vóc lụa là, liệu họ có tâm hồn nhân ái xót thương như thế không? Sau cùng, chàng là gì đối với cô đào nương xinh đẹp ấy nếu không phải là anh em đồng khóa với bạn của nàng từ hồi còn nhỏ là Nguyễn Mộng Tuân? Than ôi, những áp lực của Hoàng Phúc càng trở nên đe dọa bao nhiêu thì sự trống trải xung quanh chàng được đào sâu hơn bấy nhiêu. Các học trò của chàng hết người này tới người khác đã bỏ học, không còn học với chàng nữa. Khiết, người học trò mà chàng hy vọng giữ lại được cũng không vác mặt tới đã hai mươi ngày rồi.
Trong những năm vừa qua, tại căn nhà hiu quạnh này, chàng đã chia sẻ nỗi bất hạnh với đám dân đen, và chung chịu cảnh sống tàng ẩn của bậc hiền triết. Do truyền thống gia đình, nhà nho như chàng không được sợ cái nghèo, vì thế chàng đã chịu đựng nó. Còn nỗi cô đơn cùng cực của chàng, chàng đã cố gắng nhìn nó, sống với nó theo nhãn quan của phái Thiền Tông: nghĩa là thiền định chỉ là sự chuẩn bị để hành động. Ngay từ nhỏ, chàng đã chẳng được khai tâm về những phương pháp thiền sao?
Bản phác thảo của cái mà ngay từ bây giờ chàng gọi là tiểu luận về "Chiến lược bình Ngô" luôn luôn làm sống lại trong chàng cái ước muốn hành động mà có lúc chàng tưởng rằng đã như tàn lụi. Đạo làm người bắt buộc chàng phải hành động, thúc đẩy chàng dấn thân vào kiếp sống này và những kiếp sau nữa. Cuối cùng thì khi nào, ngày nào, năm nào chàng sẽ hoàn tất sứ mạng ấy, cái sứ mạng đã được tiền định cho chàng ngay khi chàng chỉ là một bào thai trong bụng mẹ?
Có tiếng ai gọi ở ngoài: tiếng kêu dài ra như một sợi dây được ném vào trong cái tương lai Nguyễn Trãi đang hình dung và ông ta phải mất một lúc mới ra khỏi để trở về với thực tại và ra mở cửa. Người khách đó là Khiết với chiếc áo tơi lá cọ còn đang nhỏ nước.
- Thưa thầy, con đã gõ cửa...
Sau khi đặt những cái giỏ xuống đất, Khiết nói một mạch rằng hắn rất hổ thẹn vì đã bỏ không đến dự những giờ lớp với một vị thầy vĩ đại như thế, và nếu Tiểu Mai không hối thúc thì hắn sẽ không bao giờ dám đến gặp lại chàng nữa. Cái túi này đựng gạo thơm Thanh Hóa là quà của Hoa Hậu, cái giỏ kia đựng cá khô là quà của gia đình hắn.
- Thưa Thầy, "của ít lòng nhiều", xin thầy nhận cho!
Khiết đảo đôi mắt ốc lồi to tướng của hắn.
Vừa cảm ơn, Nguyễn Trãi vừa tưởng tượng ra nồi cơm đang sôi, những hạt gạo thơm ngon nở ra. Gạo Thanh Hóa mà chàng tưởng tượng chọn một khúc cá khô ngon nhất, đẹp nhất, dài và dẹt, rồi nướng chung với hành, với tỏi giã nhuyễn, rồi tưới lên một ít nước mắm chưng với vài giọt cà cuống nếu còn. Đầu mùa thu, chàng có bắt được một vài con cà cuống ở cái hồ bên cạnh. Mùi cá có gia vị lẫn với mùi cơm thơm ngát bốc lên mũi chàng. Nước bọt đã ứa ra đầy miệng chàng. Thật đúng như người ta nói: "Cơm với cá như má với con!".
Gương mặt sáng lên, còn thân xác mệt lả, chàng ngồi xuống tấm ván. Có nên dạy học cho hắn hôm nay không? Một hứng thú bất ngờ đến với chàng, chàng đưa mực và bút lông cho Khiết lúc đó đang bận lấy sách ra.
- Để mừng ngày hội hoa cúc, thầy với con cùng làm thơ với nhau!
- Thưa thầy, thầy làm con bối rối quá! Tài làm thơ của thầy bao trùm cả mây núi suối ngàn. Đưa tài năng kém cỏi của mình ra trước mặt thầy, con cảm thấy ngờ nghệch làm sao! Xin thầy tha thứ cho sự táo bạo của con, làm sao con có thể làm thơ bằng tiếng nước mình theo niêm luật thất ngôn? - Hắn hỏi với một cái nhìn có ý nghĩa.
Nguyễn Trãi xoe tròn mắt kinh ngạc. Đó quả là một câu hỏi đáng ngạc nhiên của một cậu con trai mà chàng biết có cha là một viên quan cộng tác với quân Minh. Cậu học trò tỏ vẻ chờ đợi câu trả lời khiến cho gương mặt xấu trai của hắn trông rất tội nghiệp.
- Được chứ! - Chàng nói bằng một giọng vui vẻ hồn nhiên - Xứ sở khác nhau thì ngôn ngữ và nhịp điệu cũng khác nhau. Ai trong hai chúng ta bắt đầu đây?
- Thưa thầy, làm sao con lại dám làm trước thầy được? Thế là nhà nho cầm lấy bút lông viết bài thơ sau:
Gốc thành nam, lều một gian,
No nước uống, thiếu cơm ăn,
Con đòi trốn, dường ai quyến,
Bò ngựa gầy thiếu kẻ chăn.
Ao bởi hẹp hòi khôn thả cá
Nhà quen vú xứa ngại muôi vằn.
Triều quan chẳng phải hầu chẳng phải.
Góc thành nam, lều nuột gian.
Khiết đọc đi đọc lại bài thơ, khuôn mặt khó coi của hắn có những nét biểu lộ lạ thường.
- Thưa thầy, con phải lấy lại ý tưởng của thầy hay chỉ họa vần lại thôi?
Hắn cố viết ra mấy chữ rồi nản chí đành bỏ cuộc:
- Con chỉ có thể trình thầy những vần thơ thô kệch thôi!
Nguyễn Trãi thấy hắn bối rối tội nghiệp. Chàng đề nghị hắn đem bài thơ về nhà để vần sau đến học mang tới, thì Khiết đẩy về phía chàng - một cách lộ liễu với bàn tay run rẩy - một tập nhỏ với đề tựa khiến chàng giật mình. Đó là tập "Hịch tướng sĩ"120. Làm sao bản văn cấm này lại ở trong tay người học trò của chàng?
Khiết cúi đầu không nói một tiếng. Chàng trai lên 18 này đã tới tuổi đủ trưởng thành để biết mình làm gì. Ý thức đầy đủ về sự việc như thế, hắn đã đi qua suốt thành phố, chạm trán đội tuần cảnh và cảnh sát của tên Đề đốc Trình làm chó săn kia! Với cuốn sách này, nếu bị phát giác thì hắn cũng như cả gia đình hắn sẽ bị kết án.
Hắn mạo hiểm như thế với mục đích gì?
Xúc động khôn tả, nhà nho vẫn chưa nói lên được tiếng nào, chưa tỏ ra được cử chỉ nào. Say mê vì những chữ trong cái bản văn mà chàng đã thuộc nằm lòng, bị xúc động một cách phi lý bởi ý nghĩ rằng ít nhất còn có một bản và cái bản đó đang ở trước mặt chàng. Đó không phải là một dấu hiệu sao? Một đoạn văn đến trong ký ức chàng: "Nay Ta bảo thật các ngươi nên cẩn thận như nơi củi lửa nên gìn giữ như kẻ húp canh!121 Đoạn văn này như âm vang họa lại lời cảnh cáo trong giấc mơ của chàng: "Những tên phản bội đang khao khát trả thù muốn tìm cớ để hại cháu đấy! Hãy giữ mình kẻo phương hại tới sứ mạng tương lai của cháu chỉ vì một sơ suất nào đó!". Bản văn này được đem ra một cách cố ý, chắc chắn như vậy, nên có thể hàm ẩn một cái bẫy nào đó. Đằng sau tên thanh niên trẻ tuổi này còn có cha nó, không phải là một trong những người rốt cùng liên kết với quân Minh sao? Dù ý nghĩ sau đây làm cho chàng sợ hãi, nhưng lại còn có Tiểu Mai và tất cả những tiếng tăm đang đồn đại về nàng ta. Tên học trò này đã chẳng đến đây vì nàng ép buộc hắn tới như lời hắn tự thú sao? Và sau cùng còn có Hoàng Phúc. Đó có phải là âm mưu mà họ đã tiếp tay nhau xếp đặt để hại chàng không?
- Con đem bản văn này từ đâu lại đây vậy? Con không biết rằng bản văn này bị cấm sao?
Rụng rời tay chân, tên học trò như từ trên núi lặng lẽ rớt xuống không biết bám víu vào đâu.
- Hãy trả lời câu hỏi của ta: Ai đã giao cho con bản văn này để đem lại đây cho ta? - Gương mặt điển trai của chàng trở nên lạnh như sắt, cũng gay gắt như giọng nói hùng hổ của chàng - Trả lời đi! Mà thôi, khỏi cần trả lời gì cả! Bộ con nghĩ rằng có thể làm cho ta lọt vào một cái bẫy thô thiển như thế sao?
Câu cuối cùng này làm cho căn nhà đầy những tia lửa. Khiết giật lùi đứng như trời trồng. Cố gắng kinh khủng, Nguyễn Trãi mới tự chủ lại được:
- Hãy cầm lấy bản văn của mi, sách vở của mi, rồi cút khỏi mặt ta - chàng nhìn xuống giỏ gạo Thanh Hóa và giỏ cá khô - Hãy đem những thứ này về cho những người tưởng rằng có thể nhử mồi ta như nhử một con hổ. - Chàng vừa nói vừa dúi mạnh tất cả những thứ đó vào tay hắn và thẳng tay đẩy hắn ra ngoài.
Nếu không kịp cưỡng lại một cách tài tình, Khiết đã ngã xoài ra dưới mái hiên. Sự biến đổi sau cùng này đã làm cho hắn mất bình tĩnh.
- Chính Thầy đã lừa gạt con bằng bài thơ của Thầy! Phải hiểu làm sao câu thơ này: "Bò ngựa gầy thiếu kẻ chăn", nếu không phải là Trời hay vương quốc này, đất nước này không có chủ? Người ta có lý khi đồn đại rằng sự lãnh đạm của Thầy lớn hơn là lòng ái quốc của Thầy!
Ngay lúc đó, hắn bỏ đi dưới trời mưa.
Chưa đầy hai tiếng đồng hồ sau, Nguyễn Trãi nghe thấy tiếng gõ một cách dè dặt ở ngoài cổng. Chắc là thằng Khiết lại trở lại lấy cớ xin lỗi thầy đề tiếp tục công việc của hắn đây. Chàng mạnh tay mở cửa. Bỗng chàng kêu lên. Dường như Nụ Nhài, người nữ tì tín cẩn của vợ chàng, có vẻ như vừa ở dưới sông đi lên, đang đứng ở bậc cửa.
Có thể nói cô ta chạy tọt vào nhà như một chiếc lá bị gió thu lùa vào. Nhìn thấy đôi mắt đầy sợ hãi của cô ta, có thể dễ dàng đoán được cô ta đã phải đối diện với những thử thách như thế nào ở Côn Sơn. Nhà nho trẻ sợ hãi nghĩ tới cái ngày thảm não được nghe tin mẹ chàng mất do một người đưa tin, cũng dưới một cơn mưa tầm tã như hôm nay.
Cô ta vội vàng trấn an chàng. Vì lệnh của viên Bố Chính không cho phép bà chủ của cô rời khỏi Côn Sơn, nên đã sai cô tới để lo việc nhà cho chàng và ăn ở với chàng.
- Mong ông chủ đừng lo lắng. Nghĩ tới sự đơn chiếc của ông, bà sai em tới hầu hạ ông mọi việc, và đưa cho ông cái chiếu với cái gối như thể bà ở bên ông vậy.
Những lời này đã lấy hết sức lực cuối cùng của cô ta. Sắp sửa quỳ xuống thì cô ta lấy trong thắt lưng ra một gói nhỏ, cuộn trong một cái khăn quàng bằng lụa và đưa cho chàng.
Gói đó đựng những đồ trang sức bằng vàng, và mấy sợi dây chuyền được cuộn trong một bài thơ:
Chương đài cành liễu nghiêng chao
Biệt ly mang nặng biết bao oán sần
Duyên ma hóa rủi ngờ đâu
Ngậm hờn nuốt tủi chịu rầu cho xong
Bẽ bàng đổi khác tư dong
Tóc xanh biếng chải, môi hồng biếng tô
Thương xuân vách phán đèn lu
Trông gương ngấn lệ mơ hồ, ngại soi
Tiền hồng thư mới tới nơi
Chia loan càng xót xa đòi biệt ly
Liễu Hàn tạm bẻ vin đi
Nhưng châu Hợp phố phải về quận xưa
Nỗi lòng trăm mối vò tơ
Thư dài đến mấy vẫn chưa hết lời.122
Run run cười trong nước mắt, Nguyễn Trãi nhìn Nụ Nhài. Như vậy là Thị Thanh, vợ chàng và các con trai chàng đều bình yên vô sự, và chàng được cô gái can đảm này đem tin tới.
- Em này, em cứ tự nhiên ở trong nhà này nhé! - Chàng nói.
Ngồi trên tấm ván, cô ngắm nhìn diện mạo gầy gờ của chàng nho sĩ.
- Thưa ông, mỗi bữa ông ăn được mấy chén cơm ạ? Có ngon miệng không? - Vừa hỏi xong câu ấy thì cô nhận ra sự nghèo khổ cùng cực đang đập vào mắt cô... Cô thẹn đỏ mặt quay đi.
[←108]
Làng Hiếu Cổ huyện Phong Doanh, tỉnh Nam Định.
[←109]
Tác giả câu thơ trên, cũng là cánh tay mắt của Hoàng tử Trần Quý Khoáng
[←110]
Phong tục của dân làng là treo những bình vôi để ăn trầu đã cũ không dùng nữa lên cây đa trong làng.
[←111]
Một cảng ở giữa tỉnh Ninh Bình và Thanh Hoá
[←112]
Bình Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi, bản dịch cha Trần Trọng Kim
[←113]
Cùng loại với cây nức nạc nằm trong tứ thiêu (đinh, lim, sến, táu)
[←114]
Bút hiệu của Nguyễn Trãi, có nghĩa là sự thanh khiêm của tư tưởng
[←115]
Từ 3 đến 5 giờ sáng
[←116]
Một ngày lễ của người Tàu vào ngày 9 tháng 9 âm lịch
[←117]
Chiêm tinh đời Tống (960-1280)
[←118]
Luận về những giấc mơ.
[←119]
Kinh Dịch: một kinh trong Ngũ Kinh.
[←120]
Tuyên ngôn gửi các tướng sĩ của Trần Hưng Đạo
[←121]
Bản dịch của Trần Trọng Kim trong "Việt Nam Sử Lược".
[←122]
(Trích chuyện nàng Túy Tiêu) Truyền Kỳ Mạn Lục
Bản dịch: Trúc Khê Ngô Văn Triện