← Quay lại trang sách

Chương 4

Sau cái đêm kinh hoàng được người học trò với gương mặt co rúm vì cuồng nộ và sợ hãi đến báo tin Tiểu Mai bị giết, Nguyễn Trãi hy vọng công việc bù đầu sẽ làm chàng nguôi ngoai đi, nhưng rồi vẫn không thể nào nguôi ngoai được, Trãi đành tản bộ bước ra ngoài đi đây đó.

Trãi không dám oán giận ai vì chàng cảm thấy mình có trách nhiệm trong vụ này: Nụ Nhài thì không tin tưởng Trãi còn Trãi thì lại chẳng tín nhiệm Tiểu Mai. Cái chết của nàng, một hành vi phản kháng đầy táo bạo và anh dũng là chính Trãi đã khơi lên vào sáng mùng chín tháng chín khi chàng xua đuổi Khiết đi với những lời cáo buộc nặng nề, và đã lỗi lầm xúc phạm họ một cách không cứu vãn, khi từ chối không nhận món quà của họ. Định mệnh đã ấn định ngày giờ xảy ra sự cố ấy, còn cô hầu bé nhỏ (Nụ Nhài) dù sao cũng chỉ là một công cụ, cũng chính là định mệnh đã an bài để cho nhân chứng duy nhất sống sót sau cuộc tàn sát trực tiếp đến loan tin cho Trãi hay. Giả như không có Khiết thì chắc hẳn Trãi sẽ nhận được những nguồn tin kỳ quái lắm rồi. Trong biến cố bi đát này có những dấu hiệu khiến Trãi cho rằng sớm muộn gì cái chết ấy cũng sẽ đè nặng lên cuộc sống chàng…

Trãi nhớ lại thời gian hạnh phúc chàng cùng Mộng Tuân và Lý Tự Tân vui vầy yến tiệc. Con thuyền hình rồng cũ kỹ khua mái lặng lẽ, ánh trăng luồn qua mái thuyền ve vuốt tấm thân nõn nà bốc lửa của người đẹp Hoa Hậu. Đêm dịu ngọt đó trôi qua cách đây thế mà đã 20 năm rồi... Than ôi, quá khứ đã qua rồi. Đại bàng không được phép vỗ cánh còn kên kên thì tha hồ tung bay! Thời gian hiện tại không dành cho nhớ nhung và cũng không còn dành cho việc suy tính trước giờ hành động nữa mà phải dồn cho hành động cấp bách. Không ngồi yên được nữa, Trãi liền bảo Nụ Nhài đưa chàng tấm áo kép rồi bước ra ngoài.

Phía trên hồ Vân Hồ, đàn cò đang tung cánh. Làn gió lay động mái lá của túp lều cũng uốn cong dãy tre mé bờ sông. Trãi đưa tay sửa chiếc khăn cột đầu theo dạng kỳ quái của chàng và khép hai vạt áo lại. Bước chân trong bầu khí tinh khiết của buổi sáng mùa đông lạnh lẽo này làm chàng cảm thấy dễ chịu. Để qua mắt tên mật thám lúc nào cũng bám sát theo mỗi lúc chàng ra khỏi nhà, Trãi ngang nhiên bước vào con đường dẫn tới Văn Miếu cạnh đấy, nhưng sau đó chàng liền băng qua khu vườn quanh nhà, rẽ sang lối gần đường Hàng Cỏ rồi bước tiếp tới những con đường đông người cách ngọn tháp Báo Thiên không xa. Những con đường này dẫn chàng đến hồ Lục Thủy, sau đó tình cờ ngoài ý muốn, Trãi lại chuyển sang đường Hàng Sứ rồi bước lên phía hướng chợ Phường Bạch Mã. Trãi định tìm kiếm cô bán hàng duyên dáng để mua một chén trà uống và rồi chàng thật không ngờ mọi người đều đã hay biết về những sự cố bi đát xảy ra đêm đó.

Trãi thầm nhủ: té ra là ai cũng biết cả rồi.

Ở đây, cũng như khắp nơi trong Đông Quan, tin tức về cuộc thảm sát toàn bộ đám ca nhi đều ở trên đầu môi chót lưỡi mọi người. Người ta tin rằng máu các nạn nhân phọt ra từ bàn tiệc như một cơn lũ không thể nào ngăn lại được, dòng máu đã chạy dọc bờ sông Tô Lịch, băng qua con đường cây Hòe nhầy nhụa, tủa ra hàng ngàn nhánh tuôn vào khắp mọi ngõ ngách trong thành, lan tận cửa ngõ các phường, các cửa tiệm, bọc vòng qua các rào chắn, né tránh lũ chó đánh hơi máu để tiếp tục lan khắp, hùng hồn cảnh cáo mọi người, đồng thời công bố lên: "Đây là tác phẩm của lũ Tàu đó!". So với những cuộc tàn sát dưới bầu trời Đại Việt này, thì đây chẳng phải là cuộc đầu tiên cũng chẳng phải là cuộc cuối cùng. Tuy nhiên tài năng, sắc đẹp và tuổi trẻ của các cô gái này từ đầu vẫn được lòng quân giặc, kèm theo sự ám sát một viên chức Tàu cao cấp đã khiến cho mọi người xúc động, một số người thì khâm phục, số khác thì kinh hãi. Dù sao thì ai ai cũng đang bàn tán xôn xao.

Phía trên những chùm cá khô, những bó miến sợi, những mớ rau giá, những chum, những chồng lá trầu, những tô cháo hay những chén chè, những kẻ bán hàng đua nhau trao đổi những cảm nghĩ của mình, thỉnh thoảng họ dừng lại, phun toẹt ra tia nước trầu đỏ loét:

- Không một cô nào thoát hết!

- Cả cái đám nhà bếp ồn ào đó giờ đây cũng đã về chốn suối vàng hết rồi!

- Trừ một tên! Người ta bảo là hắn nhảy xuống sông trốn thoát!

- Trừ phi lũ Tàu đã ném hắn xuống nước cùng với những người khác rồi.

- Đúng là một người phụ nữ sắt thép, gan hùm!

- Cô ấy vừa đâm thủng bụng thằng Tàu vừa ca hát đấy!

- Bà chẳng biết gì ráo! Cô ấy vừa ghim dao găm vào bụng hắn vừa nói: "Cái này đang chờ tất cả tụi bay đấy". Tôi mà thêu dệt tôi chết không nhắm mắt! - Một bà già lên tiếng. Lập tức có tiếng đáp lại:

- Thôi đi mẹ! Sự thật không hoàn toàn như vậy đâu!

Người vừa lên tiếng là một gã đàn ông còn trẻ, búi tóc màu đen, gương mặt vừa giảo hoạt vừa mơ mộng. Gã ôm theo chiếc đàn tỳ bà, bầu rượu và túi thơ là những món dành riêng cho các nghệ sĩ lang thang, là các "Lãng tử giang hồ". Gã tiếp tục nói trong khi mọi người đều ngưng bán hàng, ngồi chồm hỗm quanh gã để nghe.

- Lúc đó, tớ đang ngủ trong một chiếc tam bản ở bờ sông Tô Lịch. Tớ có thể nói với quý vị là tớ đã tận mắt nhìn, đã chính tai nghe... - gã dừng lại một chút. Bao nhiêu cổ ngóng lên, bao cặp mắt long lên nhìn gã chằm chằm... đoạn gã tiếp - Nàng Hoa Hậu ấy không phải là một nhân vật bình thường. Quý vị hiểu ý tớ chứ, tớ không nói về hành vi hiện đang làm tất cả quý vị đều cảm khái, tức là nhát dao chí tử mà cô ấy đã đâm vào thằng cha Từ Cảnh, cố vấn quân sự của tướng Lữ Nghị, một cách bình tĩnh hiếm thấy, điều tớ muốn nói là về chính bản chất con người của cô ấy kìa. Quý vị có hiểu không nào? Vừa nói gã vừa chằm chằm ngó từng khuôn mặt đang say sưa theo từng lời gã nói. Hẳn quý vị từng biết câu chuyện nàng tiên dệt cửi lấy chàng ngưu lang, và câu chuyện nữ thần Thượng Nguyên theo chàng Phong Trắc giáng trần rồi chứ? Phẩm chất các nữ thần này tinh tuyền như gương như ngọc. Xác thân họ thuộc về chốn Thiên Cung. Tên tuổi họ được khắc chạm vào tháp vàng. Mặc dù thỉnh thoảng một Thánh mẫu hoặc một tiên nữ nào đó bị đày xuống trần gian và trái tim họ bị dơ bẩn vì những uế tạp của hồng trần chúng ta vì những lý do vượt qua tầm hiểu biết nghèo nàn của con người... Thôi chúng ta hãy trở lại từ đầu. À lúc đó tớ đang nằm ngủ giữa những đám cói ven sông thì chợt những tiếng kêu man rợ vang lên khiến tớ thức giấc. Đằng kia, phía sau các bức mành màu hồng sáng rực, tớ thấy có những bóng đen giẫy giụa rùng rợn. Thế rồi tấm màn lại bỗng chốc vẹt ra một cách thô bạo và tớ thấy có một vật gì đó rơi tỏm xuống nước. Tớ vội cúi người và bỗng nhìn thấy một chiếc kiệu hoa nổi lên trên sóng nước... - Với vẻ khoái trá, gã đưa cặp mắt mơ màng sống lại khung cảnh tiên nữ hiện ra mặc cho đám thính giả xung quanh đang run lên vì sốt ruột. Đoạn gã tiếp - Bên trong chiếc kiệu ấy là nàng Hoa Hậu, theo sau nàng là một đám rước khoảng độ năm mươi tiên nương và Nữ Thần búi tóc bằng mây, áo quần bằng lụa mỏng. Một số đến từ phương Bắc, cưỡi rồng vàng không sừng, số khác tuôn đến từ phương Nam trên những con rồng tía có sừng màu đỏ. Số thì ngồi trên những kiệu ngọc, số khác đi trong những cỗ xe lưới gió. Dưới ánh trăng, đám tơ lụa, gấm vóc trâm thoa tỏa sáng, cờ quạt nhấp nhô chờn vờn bay lên trong khi một điệu nhạc thiên thai êm dịu vọng vào tai tớ...

Nhìn thấy tớ từ đằng xa, nàng Hoa Hậu liền bảo: "Ta là con gái nữ thần Linh Phi thuộc động Rùa, vì ta phạm lầm lỗi, nên Ngọc Hoàng đã đày ta xuống trần gian này khoảng 30 năm. Ta sắp trở về lại Tinh Điện để chu toàn phận vụ của ta ngày xưa. Ta đã trả xong oan trái và từ đây sẽ không còn trở lại trần gian nữa. Vĩnh biệt nhé". Thế rồi ngay trước mắt tớ, nàng Hoa Hậu và các tiên nữ theo nàng, từ từ, từ từ biến mất...

Đám thính giả say sưa mê mẩn nhìn "Lãng tử Giang Hồ" đốt điếu thuốc lào, chờ nghe gã kể tiếp câu chuyện nào đó nữa.

Trong lúc bước ra xa, Nguyễn Trãi chợt nhận thấy cách mình vài bước, cái gã nhà quê còn trẻ đang đi quả quyết, mà lần nọ đã từng theo chàng đến con lộ nơi Hoàng Phúc hẹn gặp.

Dưới đôi chân mày rậm tia nhìn thẳng và sắc như ngọn nước, gã ta chớp mắt. Chắc hẳn đây không phải là khuôn mặt của tên mật thám của quân Tàu. Tuy nhiên Trãi vẫn quay đi tiếp tục cất bước.

Xung quanh cô bán trà xinh đẹp, mọi người cũng đang ồn ào bàn tán. Vừa nhận ra Trãi, cô ta vội xách bình trà chạy tới vồn vã.

- Ồ! Vui biết bao được gặp ngài Ngự sử. Sau biến cố ngày hôm nọ, - vừa nói cô vừa đỏ mặt - cháu cứ sợ không bao giờ gặp lại được ngài. Hình như có điều gì xảy ra nơi các ca nhi ấy. Ngài có biết không? Từ sáng hôm ấy đến nay chẳng thấy ai nói điều gì khác ngoài chuyện ấy cả.

Giữa đám người lông nhông vẫn còn có có ông già với cặp mắt cú vọ, lão la lên át cả mọi tiếng ồn:

- Kìa! Một kẻ thuộc giới quần thoa, trâm cài, mà lại có tâm hồn dũng cảm biết bao! Đám mày râu còng mình khoanh tay trước lũ quân Ngô không lấy đó mà chết thẹn đi cho rồi! Bắt đầu là thằng chó Đề đốc Trình ấy, tổ cha tổ mẹ hắn! - Vừa chửi lão vừa nhổ văng nước bọt.

- Khẽ chứ ông nội - một giọng khác vọng lên.

Lão già vẫn cứ đôm đốp, đôm đốp tỉnh bơ rủa xả như cối xay lúa, cái mặt nhăn nheo vừa già cỗi vừa như đứa trẻ, cứ co rúm lại. Trút cơn giận lên đám giặc Tàu còn làm say sưa hứng khởi hơn uống cả một tách rượu. Chỉ trừ có lưỡi dao lạnh ngắt kề cổ, ngoài ra không gì bịt miệng lão ta lại được.

Nguyễn Trãi vừa nhấm nháp trà vừa suy nghĩ: Không hiểu có phải lão này đã khuyên chàng muốn sống còn thì hãy trốn lên núi mà ở không? Biến cố vừa qua đã lôi nhiều người ra khỏi cuộc sống thường nhật khốn khổ của mình. Họ trở thành anh em của người con gái mà mới hôm qua chỉ là một con điếm thối tha bán thân cho lũ Tàu, một con "đĩ ngựa" để cho hàng ngàn người dày xéo lên. Ấy thế mà chính nàng đã cả gan dám làm điều anh dũng đó. Vị nho sĩ đưa mắt quan sát những khuôn mặt xung quanh chàng. Quả là chàng đã quá khắt khe với Khiết. Nếu hành vi anh dũng ấy chưa đủ là câu trả lời thì ít ra nó cũng có tác dụng đặt ra những vấn nạn, và thức tỉnh dân chúng. Nhưng mà rồi sẽ được bao lâu?

Từ lúc ngồi riêng ra một mình, Trãi cảm thấy thiên hạ đang quan sát mình. Tuy nhiên sau đó các tia nhìn lại hướng về ông lão lúc nãy. Trong lúc bàn về tên Bố Chính Hoàng Phúc, ông lão vừa phát minh ra được một kiểu nói mới gán cho tên này: "Hắn quá lo âu đến nỗi quên béng con voi của hắn".

Nghe thế, mọi người đều cười ầm lên. Ai nấy đều mường tượng trong đầu những tiếng rống của chú voi Vijaya vì ông chủ sáng nay đã quên không đến thăm nó.

- Này! Nếu tên Hoàng Phúc cứ lơ là như thế nhỡ con voi ấy chết mất thì sao? Lấy ai làm cố vấn cho hắn đây?

Một mụ già chu miệng lên nói:

- Cái con đĩ mà Hoàng Phúc say đắm ấy chứ còn ai!

Mụ già thứ hai lại chêm vào:

- Con điếm ấy khéo ve khéo vuốt tên Hoàng Phúc đến nỗi hắn chẳng còn muốn cưỡi trên con đàn bà nào khác nữa!

- Chắc chắn con ấy cho hắn ăn máu dơ của nó rồi.

Ông lão liền chõ miệng chế giễu: "Thế thì không phải người ta vẫn thường nói đến "quyền năng của chiếc gối" đó sao?"

Nguyễn Trãi chợt khám phá ra khuôn mặt gã nông dân trẻ tuổi lộ ra sau một đám đông lố nhố. Mỗi mình gã là không cười đùa trước những câu nói thô bỉ trên. Gã nghiến chặt quai hàm như đang cố đè nén những cảm xúc dữ dằn bên trong và đăm đăm nhìn chàng nho sĩ. Khi vị này trả tiền đứng lên, bước đi, gã cũng vội bén gót theo sau.

Cả hai vừa đi được vài bước, thì như một tiếng sét ngang trời xanh, trước khi đám đông kịp giải tán và ngậm miệng lại, lũ lính gác Tàu đã xuất hiện. Chúng chĩa giáo vào tận hông và kề dao vào cổ ông lão nọ. Lão ta liền tru tréo lên thấu trời: Sau đám đàn bà, con gái, bây giờ tụi bay đụng đến cả người già cả nữa hả. Đồ không biết nhục! Đồ rùa đen ti tiện! Dải khăn vấn đầu của lão già rơi xuống đất, búi tóc trắng sổ ra, lão há hốc miệng rống lên. Bước nhanh tới khoảng ba bước. Nguyễn Trãi liền xen vào và nói bằng tiếng Tàu:

- Các anh làm gì mà phải sợ lão ta? Bộ lão ta hăm đọa Đại quốc Trung Hoa à?

Nhìn cảnh tượng lão già xõa tóc đang được người đàn ông có khuôn mặt đẹp và nghiêm nghị bảo vệ, đám đông lúc nãy run rẩy câm nín như tờ, giờ đã được hoàn hồn.

Đồng loạt, họ xích lại gần nhau, lố nha lố nhố như một mảng lưới sinh động gồm đủ nam phụ lão ấu nườm nượp đến từ tứ phía. Họ chuyền những ngọn giáo bằng tre - có trời mà biết từ đâu ra - những lưỡi liềm, những con dao từ hàng cuối lên đến những hàng người trên cùng. Như con rắn cuốn chặt con mồi trước khi siết chết, như con cọp nhún mình trước lúc lao tới, đám đông cũng trườn tới theo một nhịp điệu hầu như đã được điều chỉnh từ thuở đời đời vậy. Những đôi mắt tóe lên niềm căm phẫn, những nét mặt quả cảm, những bàn tay nắm chặt khí giới xem ra chẳng hề biết run sợ. Để phá vòng vây, đám lính Tàu liền hét lên những tiếng kêu man rợ. Trong cuộc xô xát tiếp sau đó, tụi lính này buộc phải tách nhau ra và để xổng mất ông lão vừa bị bắt đã dễ dàng tẩu thoát. Trong lúc đó, một bàn tay chắc nịch kéo Nguyễn Trãi lùi về phía sau ra khỏi đám đông.

Không ai khác ngoài gã nông dân trẻ nọ.

- Thưa Tôn sư, không ích gì đưa thân dây vào thêm nữa! Nhờ ngài, lão già ấy đã có thể thoát được rồi. Chúng ta không nên nán lại đây.

- Tại sao bạn cứ theo ta thế? Bạn muốn gì ở ta? - Vị nho sĩ vừa hỏi vừa đưa cặp mắt thiện cảm nhìn chàng nông dân.

—★—

Nhờ đám mật vụ, ngay từ sáng sớm, Bố Chính Hoàng Phúc đã được thông báo về những biến cố xảy ra trong đêm. Vô cùng giận dữ, hắn cứ đi lại quanh quẩn từ phòng này sang gian khác khắp nơi trong nội dinh.

Trong lúc tình hình an ninh đang mở rộng khắp miền Nam: Trần Quý Khoáng đã bị đẩy lùi và chẳng bao lâu cái tên Trương Phụ hợm hĩnh sẽ trở về khoác đầy vinh quang, thế mà số phận tồi tệ nào lại để cho câu chuyện tệ hại kia rơi xuống trên lưng hắn như thế? Một cuộc sát hại đã phạm đến thân thể một người Tàu mà lại là một nhân vật cao cấp vào hạng kế cận của vị thống tướng mới chết chứ! Không hiểu vì thói dâm ô bẩn thỉu nào hắn lại chui đầu vào cái nhà thổ ấy trong khi hắn có thể tha hồ với bọn điếm ấy vào hoàng thành mà vẫn an toàn tuyệt đối có sao đâu.

Hoàng Phúc căm giận về cái chết của những kẻ đã bị giết, trong số đó y hắn căm nhất là con bé Hoa Hậu vì vốn chỉ là một con điếm, nhưng từ nay nó sẽ trở nên là một anh thư kháng chiến lừng danh. Hoàng Phúc đã như thoáng thấy con báo Trương Phụ thế nào cũng sẽ giảng cho hắn một bài học. Hắn cảm thấy như muốn trào gan sổ ruột, đáng lẽ ra hắn ta đang được sống an nhàn mới phải. Trong lúc tên tướng già cả đần độn kia vẫn phải lo rong ruổi chinh chiến ở mạn Nam, thì hắn lại được tháng ngày hưởng lạc bên cạnh chú voi Vijaya và Hương Thầm!

Nghe tiếng Hoàng Phúc đi qua đi lại phía bên kia bức vách, Hương Thầm liền vội xuất hiện trên ngưỡng cửa. Nàng để buông lơi mái tóc và trên người chỉ mặc mỗi chiếc áo ngắn bằng vải mỏng sặc sỡ các màu vàng, màu xanh lơ và xanh lục với chiếc quần màu vàng nghệ có thêu những đóa hoa rải rác. Hơn bao giờ hết, trong cách ăn mặc kỳ cục như thế, Hương Thầm lại trông giống như một chú bé đẹp mê hồn.

Nàng lên tiếng hỏi:

- Điều gì khiến Đức ông của thiếp day dứt than vắn thở dài vậy? Có thể cho tiện thiếp của Ngài biết lý do chăng? - Hương Thầm nói với vẻ ngây thơ dịu ngọt và lôi cuốn không thể cưỡng nổi.

- Ái thê yêu dấu - Hoàng Phúc đáp - hãy lại gần đây và chúng ta hãy ngồi xuống cạnh nhau. Trời cao đã phái nàng đến để làm dịu lòng ta đó.

Kể từ nhiều mùa trăng rồi, Hoàng Phúc không thể giấu Hương Thầm điều gì cả, vì thế hắn đã tường thuật mọi việc cho nàng rõ. Hương Thầm đã học nói tiếng Tàu rất nhanh. Nàng lắng nghe hắn nói, đôi chân mày thanh mai nhíu lại. Sau một hồi suy nghĩ, nàng bắt đầu lên tiếng:

- Hiện giờ thì Tướng công đang bầm gan tím ruột nhưng ngay khi tâm hồn lắng dịu xuống, chắc chắn Tướng công sẽ tìm ra được kế sách để chiếu rọi lên sự việc dưới một ánh sáng mới. Ngay lúc này, tại sao Quân vương của thiếp lại không cho các gia đình thân nhân kẻ chết được phép an táng các xác chết đi để nghi lễ được tôn trọng? Như thế sẽ làm nguôi dịu lòng người đồng thời tăng thêm lợi ích cho ngài bởi vì điều này minh chứng lòng bao dung của ngài trong khi mà dân chúng cứ ngỡ rằng sẽ có những cuộc trừng phạt khốc hại.

Hoàng Phúc lặng lẽ quan sát Hương Thầm. Trong nhiều dịp trước, cô bé tinh khôn này từng biết cách dùng những lời khuyên giải tuyệt vời trấn an hắn. Sự tinh tế trong lập luận kèm theo sự hiểu biết về nhân tình thế thái nơi cô bé còn quá trẻ và chưa mấy kinh nghiệm này khiến Hoàng Phúc sửng sốt. Về vấn đề Nguyễn Trãi, cô bé rất mau chóng hiểu rằng chỉ vì có cuộc đánh cá mà đích thân Hoàng Phúc đã thách thức với Trương Phụ, cũng như chỉ vì sự khăng khăng từ chối của vị nho sĩ mà cái đề nghị hợp tác cùng nhau mới mang lấy một tầm quan trọng nào đó! Với sự lịch lãm khôn ngoan như một khanh sĩ già, Hương Thầm gợi cho Hoàng Phúc những phương cách làm giảm thiểu tối đa tầm quan trọng của sự việc ấy! Một đằng, hắn chỉ cần xác nhận với vị thống soái là tính chất gàn bướng cũng như phong cách và lối phục sức kỳ quái của vị nho sĩ không cho phép hắn sử dụng ông ta, và mặt khác dẹp bỏ được cái lý do khiến Trãi tự lấy làm cao ngạo cũng như khiến chàng được quần chúng đề cao, tức là việc chàng ta từ chối không chịu hợp tác. Để đạt được điều này, trước hết phải ngưng quấy rầy Trãi và cứ bỏ mặc y cho số phận khốn khổ của y. Như thế không phải là hay sao? Sự chín chắn của Hương Thầm luôn luôn làm Hoàng Phúc thán phục. Óc phán đoán đúng đắn của nàng làm nổi bật khuyết điểm nơi đám quan lại cộng sự. Đám này chỉ là một lũ nịnh hót, ngoại trừ tay Đề đốc Trình. Hương Thầm lên tiếng:

- Thế Đức ông không nghĩ rằng đó là một cao kiến hay sao?

Cặp mi dài của nàng vờ hỏi thế thôi, chứ nàng thừa biết mình đã chạm đúng chỗ và nàng nén lại nụ cười đắc thắng khi nghe Hoàng Phúc trả lời:

- Ái thê vừa xinh đẹp như Tây Thi vừa khôn ngoan như Nàng Quắc đời Đường! Ta sẽ lưu ý đến đề nghị đúng đắn của nàng.

Ngay lúc đó có người vào báo tin Lữ Nghị tướng công và Đề đốc thành Đông Quan yêu cầu được tiếp kiến. Vào lúc phải từ giã Hương Thầm để đi hội kiến tại điện Thiên An, Hoàng Phúc kéo sát nàng lại bên mình. Vừa ôm nàng vào lòng, lập tức Hoàng Phúc cảm thấy Hương Thầm mềm lả người, tựa như thân thể nàng không còn xương cốt nữa mà chỉ toàn là da thịt mịn màng êm dịu khiến hắn bị kích thích không khác gì con chuột đang đói. Thế là Hoàng Phúc bắt đầu hồn xiêu phách lạc đến nỗi cố gắng lắm hắn mới buông nổi Hương Thầm ra được và rời khỏi nàng, lòng hắn cảm thấy vẫn còn thèm thuồng tiếc rẻ.

Đứng trước thi hài của tay cố vấn quân sự, được bí mật mang về kinh thành và đặt vào trong cỗ quan tài, tên tướng Lữ Nghị chu tất một màn than vãn khóc lóc theo đúng nghi thức. Tên Từ Cảnh này là kẻ từng kết hôn với người em thứ ba của Lữ Nghị cho nên hắn vừa là bà con vừa là người cộng tác kề cận của Lữ Nghị. Vì thế, mắt mũi rối bời và lòng đầy phẫn uất, Lữ Nghị đến diện kiến Bố Chính Hoàng Phúc, theo bén gót hắn là tên Đề đốc Trình.

Thảm họa ấy to tát đến thế nào tên Đề đốc đã quá rõ. Nếu quả là có một cuộc âm mưu tạo phản và bằng chứng đã quá rõ ràng rồi, thì làm thế nào Thượng cấp lại không khiển trách hắn về sự thiếu hiệu năng. Một câu chuyện xảy ra như thế có thể khiến tên Đề đốc bị mất đi chỗ đứng mà hắn đã tậu được sau biết bao năm nhiệt tình cúc cung phụng sự bè lũ xâm lược này. Vừa đập đầu xuống đất, hắn vừa tự nhủ đây là dịp ngàn năm một thuở để phô diễn tài năng khéo léo của hắn, tài năng của "Tay Trình" này!

Trong lúc tay Đề đốc Trình đang lo động não để tìm ra một giải pháp khéo léo thì tên tướng Lữ Nghị đòi buộc phải làm cho ra nhẽ. Ngay lập tức phải mở cuộc điều tra, bắt bớ giam cầm, moi tên xét tuổi nhiều người bởi vì dù sao đó cũng rõ là một âm mưu. Phải xét xử công khai, phải hành quyết hàng loạt, phải thẳng tay trừng trị. Bố Chính Hoàng Phúc thở dài, gương mặt mang đầy nét trang trọng. Hàm ria mép hắn rũ xuống.

Hắn tự nhủ "Dù có là Thống soái Trương Phụ thì chắc cũng không có cách ứng xử nào khác thế! " Tụi võ quan này tay nào cũng giống hệt nhau. Với loại người này tốt hơn hết là phải kiên nhẫn như sợi tơ luồn trôn kim mới được. Hoàng Phúc nói:

- Chắc hẳn đây là trường hợp nghiêm trọng liên quan đến vụ sát hại cá nhân một trong những người tôi trung và còn là chức sắc cao cấp của chúng ta. Trong sự cố thê lương não lòng này, nạn nhân lẫn kẻ sát nhân đều đã qua đời. Và thuộc hạ của ngài đã không dùng gươm để thanh toán dứt khoát vấn đề rồi đó sao? Theo tôi được biết thì không một ca nhi nào cũng như không một tay rửa chén rửa bát nào thoát chết...!

Tên tướng Lữ Nghị liền ngắt lời:

- Thì họ biết làm cách nào khác để trả thù cho bằng hữu của họ? Sai lầm là ở chỗ không để sống sót một đứa nào để bắt nó khai ra và nhờ đó sẽ nắm được căn rễ cuộc tạo phản này. Dù sao cũng nên tha thứ cho đám thuộc hạ, hành vi quá đáng lúc ấy chẳng qua chỉ là những kẻ đang say...

Nụ cười mềm mỏng lướt qua trên khuôn mặt Hoàng Phúc. Hắn nói với Lữ Nghị:

- Trong nhiều trường hợp trước đây ngài thực sự là người tinh tế và biết cân nhắc. Vậy trong trường hợp này, mong ngài cần phải hành động thận trọng để tránh những lời đàm tiếu...

Lần nữa, Lữ Nghị lại ngắt lời Hoàng Phúc, đôi chân mày nhíu lại, nét mặt hầm hầm:

- Lúc nào cũng dùng mẹo này, mưu nọ để rồi cuối cùng chúng ta chỉ làm nản lòng chiến sĩ. Chúng ta vô cùng mang ơn Thánh thượng đã cho chúng ta được có quyền cao chức trọng như chúng ta hiện nay, thế mà thay vì đáp lại lòng mong đợi của Hoàng đế, chúng ta lại bỏ mặc công lý qua một bên. Chẳng hiểu ngài đang áp dụng thứ thủ thuật chính trị nào đây mà tôi vẫn chưa nhận ra được sự cần thiết của nó.

Hoàng Phúc đấu dịu:

- Tiểu đệ hãy bình tĩnh nào! Nóng tiết lên như thế để làm gì! Hãy đến ngồi cạnh ta và chúng ta hãy cùng nhau suy nghĩ chín chắn, đừng để lòng vì quá đau đớn mà quyết định tầm bậy. Nè, quan Đề đốc, ông có đề nghị gì không?

Tên Trình vội đập đầu lia lịa xuống đất và thưa:

- Thưa quý Đức ngài đáng kính, nếu kẻ tôi hèn này được phép trình lên những lời hèn mọn cùng các ngài thì kẻ hèn xin thưa rằng một cuộc xét xử xảy ra sẽ làm xao động khác nào như rung chuông gióng trống loan báo khắp nơi - vừa nói hắn vừa liếc nhìn tên Bố Chính, vốn hoàn toàn đồng ý với hắn - Nếu làm cho vụ này lan đến tận các làng mạc của chúng ta, tiện chức e rằng điều này sẽ gây kích động khiến một số băng đảng phiến loạn. Thực ra đại đa số chỉ là quân thổ phỉ, nghĩ lầm rằng quyền lực Trung Quốc chưa thực sự được thiết lập như người ta tưởng và vì thế chúng sẽ tạo ra những xáo trộn mới trong khi việc bình định đang sắp sửa hoàn tất ở mạn Nam. Làm ầm lên xung quanh câu chuyện này có ích gì cho chúng ta đâu? Giả như cứ la toáng lên rằng có cuộc tạo phản và cuộc tạo phản ấy bị lật tẩy ngay giữa ban ngày thì cũng chỉ tăng thêm cho con ca nhi làm điếm thập thanh ấy cái tiếng anh thư và tăng thêm tầm quan trọng cho cuộc nổi dậy của gã con cháu cuối cùng của nhà Trần mà thực ra chúng nào đáng được như thế. Tiện chức dám nói lên điều này với tất cả tấm lòng chân thành. Những biến cố xảy ra đêm ấy đã lan truyền trong dân chúng Đông Quan. Hiện giờ đám dân này đang tán dương lòng can đảm của con nhỏ ca nhi và thương xót cho số phận thê lương của đồng bọn. Vậy - Tên Trình nói lên với lòng nhiệt tâm đầy giảo hoạt - cần phải bôi đen câu chuyện này đi, cần phải biến hành vi nổi loạn này thành ra một sự tranh chấp liên quan đến tiền bạc tầm thường, phải đổ bùn vào nước sạch và tiện thể vấy dơ lên một số người. Chẳng nhẽ tên nho sĩ Nguyễn Trãi không có liên quan gì đến con nhỏ Tiểu Mai ấy sao?

Hoàng Phúc liền la lên:

- Này ông Đề đốc, ta hoàn toàn đồng ý với những ý kiến ông nêu. Tiểu đệ, đó cũng là ý kiến của đệ phải không?

Trên khuôn mặt chành bành của tên tướng Lữ Nghị, sự nhượng bộ đau đớn từ từ thay thế cho cơn giận dữ. Dù muốn phản đối thế nào đi nữa, hắn cũng phải khép mình tuân theo lý lẽ của đại cuộc. Hắn buồn bã gật đầu.

Thế là sau khi được thảo luận và duyệt xét, kế hoạch của tên Đề đốc Trình đã được chấp thuận: Chúng sẽ phao lên rằng: Đó chỉ là một câu chuyện tầm thường liên quan đến việc ghen tuông và tiền bạc đã xúi con Hoa Hậu đâm ngài Từ Cảnh một nhát chí tử và rồi khi nghe lũ bạn con ấy la hét om sòm, đám tướng tá Tàu vì quá say không còn nhìn ra cái gì hết và đã gây ra những chuyện giết chóc sau đó. Chỉ cần trưng bằng cớ của cái tên duy nhất tẩu thoát được khỏi cuộc tàn sát ấy đưa ra, đó là sự hục hặc bất đồng giữa con ca nhi và ngài cố vấn về vấn đề thanh toán bữa tiệc. Trước một sự ăn khớp như thế, làm sao dân chúng còn có thể ngờ vực được nữa? Và chỉ cần mười ngày sau là con kỹ nữ nổi loạn anh dũng đó sẽ lại trở thành con điếm như trước và những bàn thờ ven dòng sông Tô Lịch sẽ không ai lui tới nữa rồi thì người ta cũng sẽ quên luôn cả sự cố ấy nữa là khác.

Hoàng Phúc lên tiếng ngỏ lời với tên Đề đốc lúc này đang lén nở một nụ cười kín đáo: "Về vấn đề tế lễ, ta đã quyết định trả những xác chết về cho gia đình họ".

Về câu chuyện này, viên Bố Chính có một suy nghĩ riêng tư.

Thế rồi, trong khi tên Trình chuẩn bị lựa chọn kỹ lưỡng các tay chó săn trung tín của y, tướng Lữ Nghị lo thu xếp tang ma và đưa thi hài về quê cha đất tổ bên Tàu thì Hoàng Phúc truyền lệnh đưa hắn đi nhanh về chiếc lều chú voi Vijaya.

Đây là lần đầu tiên Hoàng Phúc lơ là chú voi: dù Hoàng Phúc đã tỏ dấu xin lỗi chú ta bằng cách truyền mang đến cho chú khẩu phần phụ thêm về rượu Arak và mía, nhưng từ sáng sớm, tiếng la rống của chú liên tục làm điếc tai điếc óc cả thành phố. Ngay khi Hoàng Phúc cắt nghĩa cho chú voi ta những lý do khẩn thiết tức thì con Vijaya sẽ lắng dịu. Chỉ một mình con voi mới biết được bao nhiêu là nghi vấn đang dồn dập tấn công ông ta: nếu tinh thần hy sinh đã lan tới ngay cả tấm váy của một "con điếm" thì chẳng bao giờ bình định được cái đất nước này. Chẳng bao giờ vị Nguyên soái lừng danh Trương Phụ dẹp yên được cho đến cùng. Sau cái tên Quý Khoáng, thì sẽ là tên nào nữa đây? Vì vậy tên Bố Chính vội vã chạy đến cùng con voi là bạn tri kỷ của y và lúc y đi tới gần, thì con vật liền im lặng.

—★—

Một vài tuần trôi qua, và cùng với chúng, cái Tết đã mở đầu năm Canh Ngọ (1414) trong sự buồn tẻ.

Viên Đề đốc họ Trình vừa mới bắt đầu thu hoạch kết quả của cái chiến dịch tuyên truyền vu khống, thì cái tin về sự thất bại của Quý Khoáng tại miền Nam Thanh Hóa hầu như đã nhận chìm câu chuyện về cuộc tàn sát các cô ca nhi xuống tận đáy ký ức mọi người. Tiểu Mai đã hành động vì lòng yêu nước hay vì tư lợi, từ nay điều ấy không có gì là quan trọng, không còn ai lưu tâm đến nữa.

Sau một cuộc chiến đấu can trường bao nhiêu thì cũng vô hiệu bấy nhiêu, vị Hoàng thân, hậu duệ cuối cùng của nhà Trần đã bị đánh bại. Ông ta cùng các tướng Đặng Dung, Trần Mộng Dũ và Nguyễn Cảnh Dị chạy trốn sang đất Lào, thì đã bị người Lào bắt nộp cho quân địch. Đất nước đã bị chinh phục, hết đường cứu vãn. Tại các tỉnh phía Nam như Thuận Hóa, Tân Bình, Nguyên Soái Trương Phụ kiểm kê dân số, thiết lập guồng máy cai trị của Trung Hoa, xây đắp một hệ thống đồn ải dọc theo biên giới Chiêm Thành. Tiếp tục nối lại với cái chính sách chủ nghĩa đế quốc xa xưa, Trung Quốc một lần nữa lại áp đặt quyền bá chủ lên nước Đại Việt.

Sau khi đã khuất phục được cái đất nước ngoan cường ấy, công việc hiện tại là phải khai hóa nó.

Chính sách đồng hóa mà đế quốc phương Bắc chủ trương, có phần nào ngưng trệ vì các cuộc kháng chiến của những người con cháu cuối cùng của nhà Trần, nay lại tiếp tục với một nhịp độ nhanh hơn.

Nhân dân bị cưỡng bách phải quên đi quá khứ của dân tộc mình với các phong tục của cha ông. Họ phải học tập cách ăn mặc, nói năng, sống và chết theo kiểu người Trung Quốc. Phải thờ cúng các thần Sông, thần Núi, thần Gió, thần Mây và phải xây những ngôi đền cho các vị thần ấy. Trong guồng máy cai trị, người bản xứ chỉ được nắm giữ những chức vụ thuộc cấp thứ yếu. Vào cái năm 1414 ấy, tại các nhà trường được mở ra trên toàn lãnh thổ Giao Chỉ, người ta chỉ nghe tiếng các trẻ em ê a đọc Tứ thư và Ngũ kinh bằng chữ Hán. Hàng năm, mỗi quận được quyền có hai nho sinh, mỗi huyện thì chỉ được một. Các quan chức người Việt đành phải nhận những phần vụ của kẻ tôi đòi. Các tăng lữ thuộc đạo giáo đủ loại, bắt đầu tỏa ra khắp nẻo đường đất nước để truyền bá tôn giáo của chính quyền. Thuế điền thổ tăng lên gấp ba, mỗi mẫu ruộng phải nộp thuế ba thăng lúa, mỗi mẫu đâu một lạng tơ, mỗi cân tơ một tấm the. Và điều chưa hề có đó là ở tận ngõ ngách các lũy tre làng, là nơi mà trước đây "Phép vua phải thua lệ làng", bây giờ Trương Phụ bắt đầu thiết lập một hệ thống kiểm soát nghiêm ngặt dựa trên kiểu mẫu làng mạc Trung Hoa, lấy gia đình làm đơn vị nền tảng chứ không phải làng xã. Đồng thời một hệ thống trạm dừng cho ngựa và thuyền cũng như những đồn chiến lược được dân quân địa phương canh giữ rải đều như một mạng lưới khắp xứ.

Người ta bị cấm ngặt tục ăn trầu, xăm mình và nhuộm răng, vi phạm là bị tử hình, đồng thời khai trừ những tín ngưỡng cổ xưa và những tập quán địa phương. Bất cứ cái gì từng thiết lập nên nước Đại Việt trước đây, kể cả nghi thức và văn hóa, những bài dân ca và những áng văn của nó, đều không được phép tồn tại.

Dưới thời địch nắm quyền, đấng anh hùng nuốt đắng.

Cầu xin đất mềm phù trợ ông Hoàng.

Nhưng vác vũ khí đi kiếm dòng thiên hà quả là hoài công quá...

Sau khi áp đặt lên nước Đại Việt nền văn hóa, phong tục và tập tục của mình, vấn đề còn lại đối với Trung Quốc là đem đám mọi rợ đang phạm một tội lỗi duy nhất là sống ngoài vòng trật tự để chúng đi vào nhịp sống hòa điệu nhờ ơn đức Thánh thượng.

Điều mà "phe đảng theo Khổng Tử" dưới triều nhà vua Hồ Quý Ly bại trận từng mong muốn đến mức sẵn sàng làm kẻ phản bội, hiện đang được thực thi vượt quá niềm kỳ vọng của họ. Họ mong rằng lòng hiếu thảo của con cái sẽ trở thành nền tảng các mối tương giao xã hội, một xã hội có tôn ti trật tự, làm con thì phải một mực hiếu lễ, uy quyền của người cha là tuyệt đối có thể sánh với uy quyền của nhà vua đối với quần thần của mình. Lòng hiếu thảo, sự kính nể bậc tôn trưởng chính là căn rễ, trên đó guồng máy cai trị và trật tự phải dựa vào!

Vì thế, Thống soái Trương Phụ truyền cho dân chúng, từ thủ đô cho đến làng xã nhỏ nhất trong xứ An Nam (miền nam được bình định) phải luôn luôn đặt ngay trước mắt mình hai chữ Nhân – Nghĩa, có nghĩa là lòng nhân ái và sự công chính.

Sau khi dùng gươm ổn định xong, tất cả nền chính trí của người Tàu là phải kết hợp nhuần nhuyễn hai chữ này để thiết lập ra cái "chính" tức là nghệ thuật cai trị cho tốt đẹp.

Dân Giao Chỉ (Quân Minh gọi dân Đại Việt bằng danh từ này) được tưới đẫm bởi hai chữ ấy. Không được làm điều gì nói điều gì mà không điểm tô bằng hai tiếng Nhân - Nghĩa. Hai tiếng này như những cánh bướm bay từ miệng người này qua miệng người khác, chúng giống như những tấm màn chắn gió trước cửa, chúng đóng vai trò những bức bình phong, để ở đằng sau chiêu bài ấy, nhà cầm quyền nhà Minh tha hồ làm bất cứ điều gì họ muốn.

Chính là nhân danh chữ Nghĩa này mà người ta đã tước đoạt tất cả của nông dân để ban cho đám quan viên cộng sự với Tàu hoặc biến đất đai ấy thành những đồn điền. Chính là nhân danh chữ Nghĩa này mà những kẻ làm muối bị buộc phải giao sản phẩm của họ cho phòng thu muối để phòng này trưng thuế, và bán đi cho lũ con buôn có môn bài. Sau đó đám này lại đem đầu cơ tích trữ. Cũng chính là nhân danh chữ Nhân mà hết cha, anh, người ta lại lôi thêm đến chồng và con trai để sung vào quân đội rồi từng nhóm đàn ông và đàn bà tuổi từ 16 đến 60 phải quỵ ngã dưới những phu phen tạp dịch nặng nề rồi lại bị buộc phải vào sâu trong vùng lam sơn chướng khí khai thác vàng, bạc, đồng hoặc đi mò ngọc trai ở dưới đáy sâu đại dương!

Hai từ Nhân Nghĩa cứ được lặp đi lặp lại mãi cho đến nỗi dân chúng Đông Quan vốn có khả năng hài hước ngay cả trong những tình huống tuyệt vọng nhất, phải thấy hai chữ này được tuyên dương ngay ở những chỗ mà chúng hoàn toàn vắng bóng, chẳng hạn trước tiên tên chó săn khát máu Trương Phụ được gán danh hiệu "vị tướng Nhân ái", sau đó tên cú vọ ranh mãnh Hoàng Phúc lại được tặng cho biệt danh "Bố Chính - công minh", còn tên vô lại họ Trình thì được gán cho biệt danh "Đề đốc văn minh hóa", cả ba phải được xem như là biểu tượng của hai chữ Nhân Nghĩa!

Mỗi khi tên Đề đốc này xuất hiện tại các ngõ ngách Đông Quan là lập tức hàng đống thằng nhóc chuyên giễu cợt bước theo hắn hô lên ran cả cổ họng biệt danh mới của hắn. Tên "Đề đốc văn minh hóa" này chẳng làm gì được đám nhóc ấy vì đám giễu cợt này không là con cái của nhà ai cả! Chúng ngủ dưới hiên các đền Chùa, trong các bè tam bản, chúng van vỉ xin ăn: "Cháu đói quá! Cháu chỉ xin một chén cơm thôi" và chúng đi ăn cắp. Tiếng cười hô hố của bọn chúng tạm xóa đi chốc lát những khổ đau trên các nét mặt người trong thời kỳ bị Tàu xâm chiếm.

Ba chàng nông dân trẻ tuổi nhe hàm răng đen nhánh hạt huyền ra cười vừa thuật lại cho Nguyễn Trãi nghe những lời chế giễu của lũ trẻ.

- Đức Khổng (Khổng Tử) bị bôi bác quá! Rồi chúng ta phải chán ngấy ngài đến ngàn năm!

Nguyễn Trãi lên tiếng:

- Ngày nay hai chữ Nhân Nghĩa đã trở nên rỗng tuếch.

Tuy vậy chúng vẫn còn mang nặng ý nghĩa đã bị bỏ quên, và chính chúng ta, ta, chú và toàn dân mình phải hành động để tìm lại ý nghĩa đích thực cho những chữ ấy. Chú có hiểu không?

- Thưa tôn sư, hiểu ạ.

Ba đã hiểu ra những lời của nho sĩ. Vào thời buổi mà mọi niềm hy vọng được kể như hão huyền, thì những lời này có sức nâng đỡ niềm tin của Ba vào một thế giới tốt đẹp hơn tức là thế giới không còn người Tàu nữa, không còn bọn bóc lột tại các địa phương, tức là bọn cường hào và mọi hạng ông chủ. Những lúc như thế này, cặp mắt đen láy của Ba long lanh sáng như đôi mắt trẻ thơ, toàn gương mặt như được vẽ bằng những nét bút cương nghị đang rực lên niềm biết ơn. Ngồi dựa trên gót chân, Ba vừa cười vừa đong đưa qua lại tấm thân sạm nắng lực lưỡng như tấm gỗ lim.

- Bộ chú tính bán đôi hàm răng hay sao mà lúc nào cũng cứ nhe ra như thế? - Nụ Nhài chế giễu Ba.

Ngay trước khi Ba nói ra lý do đưa chú ta đến Thủ Đô, Nguyễn Trãi đã bị lôi cuốn bởi sự chất phác, thật thà, tính tình vui vẻ nhưng không sàm sỡ của chú. Mọi sự bắt đầu từ cái buổi sáng hôm sau ngày Tiểu Mai bị giết cách đây một năm, khi chàng nông dân trẻ tuổi đã phải gần như cưỡng bách để kéo Trãi ra khỏi đám đông khu chợ Bạch Mã. Những tiết lộ của Ba sau đó càng làm thắt chặt thêm tình thân giữa họ với nhau.

Xuất thân từ làng Kiệu Ngọc cách Côn Sơn một ngày đường, Ba cũng là người gốc gác ở tỉnh Hải Dương. Mẹ chú ta không ai khác hơn là Kiều Oanh, người thiếu phụ ngày xưa từng suýt chết chìm và được Hoàng thân Trần Nguyên Đán vớt lên cứu sống! Từng bị lũ giặc Minh ức hiếp nên trước khi qua đời, Kiều Oanh đã nhắn nhủ đứa con trai lời thề nguyện ngày xưa: "Trong 8 đứa con trai của mẹ, con là đứa không vợ không con. Lũ giặc Ngô ngăn cấm việc nghề rèn, con không thể nào hành nghề được. Vì thế không có gì cầm chân con lại ngôi làng này. Thằng em út con sẽ lo chăm sóc bài vị chúng ta. Còn con hãy ra đi tìm nho sĩ Nguyễn Trãi và gắn bó phục vụ ông ấy để mẹ chu toàn được lời đã hứa, nhờ đó nắm xương tàn của mẹ được yên mả yên mồ. Nhớ đừng bỏ rơi đứa cháu trai của vị Hoàng thân để tưởng niệm công ơn ngài trước đây đã không bỏ rơi mẹ nhé". Thế là sau khi chôn cất mẹ xong theo đúng nghi thức, để tỏ lòng hiếu thảo, Ba đã tìm đến Đông Quan bằng con đường tắt ngang qua Côn Sơn. Thiếu phụ Thị Thanh nói với Ba: "Phu quân ta sống ở đó và đang bị quản thúc". Thủ đô thì rộng quá biết tin cậy vào ai đây? Để sinh nhai, chàng thợ rèn này đã phải đi làm thuê trên bến cảng. Từ sáng đến tối, chàng nai lưng ra chất lên những con tàu Quảng Đông nặng trĩu hàng đống của cải của dân Đại Việt: chẳng hạn hồ tiêu, gỗ lim, gỗ đàn hương. Nhờ được một người bạn tên là Xuân - dáng vẻ không giống kẻ lông bông như anh ta tự nhận – chỉ vẽ cho, Ba đã tìm được nơi nho sĩ đang trú ngụ. Trong một thời gian khá lâu, Ba chỉ biết theo dõi vị này từ xa xa. Nếu không có cơ hội ở chợ Bạch Mã ấy, không biết làm sao Ba dám đến gần ông ta?

- Vậy mà chú đã dám và còn dám bạo nữa đấy chứ! - Nguyễn Trãi vừa cười vừa trả lời chú ta, rồi với vẻ trang nghiêm, chàng nói tiếp - Lòng tín trung của mẹ chú đối với vị Hoàng thân ông ngoại ta thật rất đáng ca ngợi. Tuy nhiên ta có làm gì đâu mà cần đến người giúp việc?.

Nhưng Ba chẳng bao giờ đòi đến thù lao. Sự lam lũ trên bến cảng cũng đủ bảo đảm cho chàng nuôi miệng hàng ngày và sắm một tấm áo mới hàng năm vào dịp Tết. Chú ta chỉ đơn giản phục vụ ông thầy khi ông thầy xét thấy cần đến chú vào công việc gì cũng được. Đề nghị này quả thực là không vô ích. Ngay từ những ngày kế tiếp, Ba, kẻ lang thang tạm thời, và đồng thời là tay thợ rèn chuyên nghiệp đã lộ ra cho Nguyễn Trãi thấy năng khiếu tuyệt vời nhất của chú ta. Thực thế, với mười ngón tay, mười ngón chân, Ba làm được tất cả mọi sự: nào chiếu, nào quạt, nào dù, nào ống sáo, nào rèm, nào đồ gốm và hàng ngàn vật dụng linh tinh khác với nét đẹp thô sơ mộc mạc. Ngoài ra, chú ta còn là tay chài lưới giỏi giang nữa chứ. Để cho hai bàn tay rảnh mà tung lưới, chú dùng chân khéo léo đưa mái chèo đi. Thêm vào đó, Ba còn có hoa tay vẽ khéo, năng khiếu này thường trợ lực cho vốn ngôn từ thô sơ nghèo nàn của chú. Chỉ cần vài nét vẽ, chú đã trình bày cho tư tưởng của mình được rõ hơn, rồi tươi cười nhe hàm răng vững chắc, đều đặn và đen bóng ra.

Một ngày nọ, Nụ Nhài la lên: "Chắc là chú đã nhuộm răng hàng năm như một phụ nữ phải không? Vậy thì không bao lâu nữa phải kiếm thêm cho chú một cái yếm nữa!". Nghe thế nhưng Ba vẫn không giận. Chú ta thừa hưởng sự làm dáng từ bố chú tức ông Phụng ngày xưa từng rất hãnh diện về sự làm đỏm của mình. Ông ta đã chết trong lúc phục vụ nhà vua Hồ Quý Ly tám năm về trước.

Ba sớm nhận ra được dưới khuôn mặt như bức tượng mới tô sơn, cô hầu trẻ này mang mối tị hiềm về việc vị nho sĩ không ngừng biểu lộ sự quan tâm đối với chú. Dù cô ả luôn nhiệt tình thi hành mọi ý muốn của ông chủ, ả vẫn làm bộ như không nghe thấy gì mỗi khi ông bảo cô ả phục vụ Ba, hoặc rồi khi thì đũa gãy, khi thì cơm nguội, trà ôi, hoặc giả trong những lần trong bình không còn một giọt rượu mà cô ả cau có không muốn đi mua. Nhưng dù cho phải chịu những nỗi bạc đãi tồi tệ hơn, Ba vẫn cứ luôn luôn đều đặn mỗi ngày đến viếng thăm vị nho sĩ.

Lần đầu tiên nhìn thấy vị nho sĩ bước đi từ đằng xa, chiếc khăn quấn trên đầu trông quái dị, mảnh áo phất phơ hướng đông hướng tây, trên vai mang túi thơ nghiên bút, chàng thợ rèn tự hỏi không biết đó có thực là vị Đình Nguyên, vị quan chức cao cấp trọng vọng mà mẹ mình đã từng khoe không. Anh chàng lãng du ấy mà lại là người thân cận trong cấm thành và được gần gũi với vị Thiên Tử sao? Là một nho sĩ, sao trông ông ấy chẳng giống ông giáo làng trang nghiêm và đạo mạo trong chiếc áo dài đen bốn vạt nhỉ? Mãi về sau, việc ăn mặc kỳ quái này đối với Ba đã được bù đắp bằng khuôn mặt phương phi vừa khắc khổ vừa tinh tế, mặc dù hàng ria mép và chòm râu cằm của Nguyễn Trãi một đằng thì giống như sợi dây mịn căng trên cửa miệng, còn đằng kia là lông sợi dài mọc tiếp giáp với khóe môi và lê thê dưới chiếc cằm đã đem lại cho khuôn mặt vị tôn sư một dáng vẻ man dại không kém phần độc đáo. Tuy nhiên, chính tia nhìn tuyệt vời tỏa ra từ ánh sáng nội tâm của Ngài đã chinh phục được người nông dân trẻ tuổi. Ba có cảm tưởng đang được kề cận một bực hiền giả và cuộc đời của chú đã tìm ra được lẽ sống. Không ngày nào chú không cảm ơn Trời đã cho một người dân cày ngu dốt như chú được tiếp thu những bài học của một bậc thầy như thế. Lời nói của vị nho sĩ có sức mạnh không thể cưỡng nổi, một thứ quyền lực khiến mỗi lần được kề cạnh ngài, Ba đều cảm thấy như đang ở trong một thế giới đầy ánh sáng, còn ra ngoài những lúc ấy thì chú giống như ở trong tăm tối vậy.

Tuy nhiên nếu bình thường, Tôn sư rất chăm chú và linh hoạt trong lúc giảng dạy, thì khi lao đầu vào công việc, ngài lại có vẻ xa vời tựa áng mây trôi đến tận những chốn xa xăm nào đó. Những lúc ấy, Ba thường ra ngồi dưới mái hiên yên lặng đợi chờ.

Một ngày nọ tình cờ, Ba bắt gặp Tôn sư đang miên man suy nghĩ. Trong khi hắn ta sắp sửa rút lui, Ba nghe tiếng vị Tôn sư lẩm bẩm: "Nhưng tìm vị ấy ở đâu? Làm thế nào nhận ra vị ấy?"

Ba liền sửng sốt hỏi:

- Thưa Tôn sư, vị nào ạ?

Rồi run sợ vì đã quá táo bạo, Ba chuẩn bị biến đi thì chú thấy Tôn sư đăm đăm nhìn mình khiến chú quá đỗi ngạc nhiên. Rồi Tôn sư lên tiếng trả lời:

- Hẳn nhiên là Đấng minh quân

Quá hớt hải, Ba mong được Tôn sư cắt nghĩa rõ hơn. Nhưng không thể chờ lâu hơn nữa, chú liền vội lên tiếng:

- Thưa Tôn sư, một lần nữa xin tha thứ cho sự ngu dốt của con. Đồng ý là phải tìm ra một minh chủ. Nhưng có phải người ta thường đánh giá một ông Hoàng là anh minh khi dưới triều đại ông ấy không xảy ra lụt lội, mất mùa, đói kém, dịch tễ, chiến tranh và bóc lột không?

Câu hỏi của Ba tuy xem ra chân chất nhưng chứng tỏ cho thấy chú là một nông dân có óc phán đoán vững chắc. Đôi môi Nguyễn Trãi vừa nở nụ cười vừa đáp:

- Đó là một cách nhìn thực tế để xem một ông Hoàng có được kể là anh minh hay không. Các vị vua thời xưa như Thuấn, Võ, Thang, Văn, dù đã đạt đến bậc thánh hiền nhưng ngày đêm vẫn lo sợ không chu toàn được trọng trách của mình nên lúc nào họ cũng một lòng kính sợ Trời và lo lắng cho dân không hề dám lơ là điều gì hết. Bởi vì một ông Hoàng được nung nấu một lòng thương yêu nhân dân, sẽ không tưởng thưởng ai theo ý thích riêng mình và cũng không trừng phạt ai vì hằn thù cá nhân. Ông Hoàng ấy luôn giữ mức trung dung trong mọi sự, biết ban phát ơn phúc mặc dù ông nắm trong tay quyền làm điều ác. Chính trong việc này biểu lộ ra sự anh minh của ông ta và đó quả thực là một đức tính hiếm có. Một con người như thế rất hiếm thấy ở trong nước mình cho nên tụi ngoại bang mới thống trị được đất nước này. Nhưng dù sao, một con người như thế vẫn đang hiện hữu ở một nơi nào đó. Các vì tinh tú không thể sai lầm, nhưng biết dựa vào dấu hiệu nào để nhận ra vị ấy đây? Vị ấy sẽ cất lời hiệu triệu từ chốn nào đây?

- Thưa Tôn sư, có phải ngài muốn nói đến một vị thủ lĩnh sẽ đứng lên chống lại quân Tàu, chống tên tướng mệnh danh là nhân đạo và chống luôn tên "Đề đốc văn minh hóa", đúng không?

- Phải, đúng thế.

- Và ngài tính sẽ phục vụ một con người như vị ấy à?

Nguyễn Trãi trả lời:

- Ta sẽ chọn xem có phò trợ vị ấy hay không là do nơi cái chính nghĩa mà vị ấy phục vụ.

Ba đưa tay vỗ vào đầu nhiều lần, đoạn đứng lên bước tới vài bước rồi bất thình lình quay lại và nói:

- Thưa Tôn sư, có lẽ có vị thủ lĩnh ấy. Nhưng ngài, chỉ mình ngài mới biết được vị ấy có anh minh hay không.

Nguyễn Trãi tiếp lời:

- Đừng rối rắm lên và hãy nói rõ ý kiến của anh đi!

Nghe thế, Ba cố gắng hết sức bình tĩnh thuật lại những tiếng đồn hiện đang lan ra trong đám chèo ghe ở bến cảng về một vị điền chủ nào đó đang chiến đấu chống lại quân Tàu ở mạn Nam. Họ kháo với nhau rằng vị ấy là một con người phi thường mà dân chúng vùng Thanh Hóa gọi là đức vua của họ.

- Thế Chú có biết quê quán, tên tuổi vị ấy không?

Ba bối rối đáp lại.

- Anh Xuân, bạn con có kể đủ thứ điều đầy ắp đầu óc con nhưng con chỉ nhớ được mỗi tên của vị ấy mà thôi.

- Thế tên gì? Vị ấy tên gì? - Nguyễn Trãi hỏi dồn.

- Dạ Lê Lợi! Lê Lợi người làng Lam Sơn!

—★—

Tại khu vực Giang Khẩu, tửu quán Con Rùa nổi danh nhờ món cháo, nhưng một số đông khách chỉ cần đến đây để thưởng thức mùi thơm bốc hơi. Tuy vậy hàng quán trông sơ sài, không có màn chắn gió, vỏn vẹn chỉ có hai tấm phản, dăm ba ghế đẩu trên mặt đất nện mà thôi.

Trước khi bước vào quán, Xuân đảo mắt nhìn vào bên trong. Tại một góc quán, mấy lão thương gia cỡ lớn ở Đông Quan vừa uống rượu vừa chơi tổ tôm. Trong góc đối diện, Xuân nhận ra Ba và người bạn đồng hành. Xuân liền tiến tới phía hai người.

- Thưa Tôn sư, đây là anh Xuân người mà Tôn sư muốn gặp.

Nguyễn Trãi giật nảy người: trước mặt chàng không phải lạ một gã lãng tử nào đó mà chính là Thám hoa Lê Cảnh Tuân, tác giả "Lá thư thập vạn từ" nổi tiếng kêu gọi kháng chiến chống quân Minh, nghe người ta nói vị này đã bị lưu đày sang Trung Quốc rồi mà! Cho dù lao khổ đã làm đôi tay nghiên bút bị sần sùi, làn da bị rám nắng, bờ lưng hơi còng xuống nhưng Lê Cảnh Tuân vẫn có dáng vẻ không phải là người tầm thường, về điều này, chàng Ba quả là không thiếu tinh tế.

Nheo ánh mắt, Xuân muốn cho Trãi hiểu chàng không muốn bị nhận diện, Nguyễn Trãi đành bằng lòng với những lời thăm hỏi xã giao.

- Té ra đây là ông Xuân đầy uyên bác đấy à - Trãi nói với Xuân giọng điệu hơi tinh nghịch. Đã lâu lắm rồi tôi mong chúng ta có cơ hội gặp nhau mà mãi đến nay chẳng bao giờ có dịp. Xin mời ngồi cạn chén!

- Xin Ngài Đình Nguyên chớ nhạo báng kẻ khốn nạn này. Một vài năm kinh nghiệm và sự may mắn thỉnh thoảng có dịp mở mang kiến thức của tớ mọn này đã khiến cho chàng thanh niên kia đánh giá sai lầm về tôi.

Ba liền lên tiếng:

- Chà chà! Anh cả, bộ huynh đang cho đệ là kẻ nói dối đấy hả? Huynh đừng hòng bước ra khỏi đây trước khi khai thật hết mọi sự cho chúng tôi đấy nhá!

Cả ba bật cười giòn giã. Bỗng Nguyễn Trãi vỗ tay làm hiệu.

"Chàng nho sĩ kia làm sao lại có chuyện gì với hai gã lông bông này nhỉ?" Lão chủ quán vừa bưng những tô cháo thơm phức tới, vừa tự nhủ trong bụng, nhưng bao lâu lão còn đứng đó thì cả ba người chỉ cắm cúi lặng lẽ ăn uống không nói gì cả. Khi nước trà được dọn lên lần thứ ba, Nguyễn Trãi ghé vào Xuân thầm thì vừa đủ hai người nghe:

- Ngày nay quân thù rất hùng mạnh. Các bậc anh hùng như ngài ẩn mình khác nào những chiếc lá trong sương mù. Tuy nhiên, "Vinh quang có thể ấp ủ dưới hoạn nạn" (Trích Bài phú núi Chí Linh của Nguyễn Trãi). Thánh Gióng đã chọn sinh ra trong túp lều tranh cuối làng chứ đâu phải trong cung điện của kinh thành. Khi ngài trở nên người khổng lồ thì chính ngôi làng nuôi dưỡng ngài, chính toàn đất nước cho ngài ngựa chiến và thanh sắt làm khí giới. Thế tôn huynh có biết gì về vị điền chủ có tên là Lê Lợi hiện đang phất cờ khởi nghĩa ở Thanh Hóa không?

Xuân trầm giọng trả lời:

- Chúng ta là anh em đồng khoa, thuở chúng ta song song cưỡi ngựa dạo xem vườn Thượng Uyển, chúng ta đâu đoán trước được rằng một ngày kia số phận trái nghịch biến ngài, vị Đình nguyên, thành một tù nhân ngay trong chính thủ đô của mình và biến đệ thành một kẻ đào tẩu, một kẻ lang thang sông nước khốn khổ? Tin tức ngày ngày đều qua lại trên sông, vì thế, danh thơm của Lê Lợi đã lan đến tận nơi này. Lúc đầu đây chỉ là tên tuổi của người con thứ hai trong một gia đình đại điền chủ gồm cả hơn một ngàn người. Vị này đã dùng của cải mình để làm việc thiện, và được tất cả mọi người ở miền Thanh Hóa ấy kính trọng và yêu mến. Bây giờ thì hình như con người tên là Lê Lợi ấy là một người chắc hẳn phi thường. Ông ta đã từ chối địa vị cao sang mà quân Tàu hứa ban cho, sau đó rút lui vào trong núi Chí Linh và quy tụ tất cả những ai từ chối sự thống trị của giặc Tàu. Người ta còn bảo rằng Lê Lợi sinh vào năm thứ chín của thời Xương Phù nhà Trần (1385): Ông ta có vầng trán cao, miệng rộng, ít nói nhưng mỗi lần nói ra giọng vang lên sang sảng như tiếng chuông. Tiếc rằng Đệ chẳng thể nói cho huynh nhiều hơn nữa.

Trãi liền nói:

- Tiến sĩ Xuân ơi, xin cảm ơn ngài - Nguyễn Trãi nở nụ cười đồng lõa - Hiện giờ chúng ta đã tìm gặp được nhau, vậy xin hãy hứa sẽ liên hệ với người bạn đồng khoa này trong bất cứ dịp nào nhé, chú Ba đây sẽ làm trung gian cho chúng ta.

- Đệ xin trân trọng sự gợi ý đầy quảng đại của huynh. Trong hoàn cảnh đệ đang gặp phải, ít là đệ cũng hiểu được bài học của Trang Tử123 theo đó người ta vẫn có thể nghèo mà không khổ. Những lúc rỗi rảnh thì đệ làm thơ, đánh đàn - vừa nói Xuân vừa nheo cặp mắt cười. Trãi lên tiếng:

- Ta đang còn muốn nghe ngài nói thêm. Nhưng thôi liệu có trễ quá rồi chăng?

Đám thương gia đã biến đi từ lúc nào, lão chủ quán thì ngáp ngủ bên cạnh chiếc lò đất. Lúc nãy Ba vừa bỏ đi một chút bây giờ đã trở lại tay cầm một bông hoa đại, vừa nói:

- Lúc nãy có một đứa nhỏ đến nhờ con giao cho Tôn sư - vừa nói Ba vừa trao bông hoa cho Nguyễn Trãi - Người gửi cho Tôn sư bông hoa này sẽ đợi Tôn sư vào giờ Tỵ (9-11 giờ) ngày mai tại đền Trấn Vũ (Thần Chiến Tranh, Thánh hộ mạng của Đại Việt). Cậu bé bảo là nói thế Tôn sư ắt đã hiểu gì rồi!

Dáng vẻ trầm tư, Nguyễn Trãi đưa bông hoa thiêng liêng thường trồng ở các đền chùa, lên mũi hít, rồi nói:

- Có phải chú nói là đền Trấn Vũ không? - G