Tập 7 Chương 1
Khi nghĩa binh mới nổi, thế giặc hoành hành,
Cả nước anh hào như lá thu sương.
Chí nuốt Ngô chừ, ai là Chủng? Ai là Lãi?
Mưu hưng Hán chừ, ai là Bình? Ai là Lương?
Vua ta giấu vết ở núi này, đành nín hơi để náu nương.
Vợ con lưu ly, quân sĩ tan tác.
Tuy khốn đốn mà lại hay, vì có điều sắp vẻ vang
Mang giáp trụ để che thân, lấy củ rau để làm lương.
Chí hăm hở lo toan, lòng căm tức chẳng hề quên
Tưởng núi này lúc bấy giờ chẳng khác nào núi Mang Đãng của vua Hán
Bởi biết người biết mình, hay yếu hay mạnh.
Đợi thời chờ dịp.
Giấu sắc, giấu tài
Ăn thường nếm mật,
Ngủ thường nằm gai.
Lo rửa nhục cũ, khôi phục đất xưa.
NGUYỄN TRÃI (Phú núi Chí Linh) - (Chí Linh Sơn Phú). Trích
Đại huynh, anh coi chừng những hầm chông dưới chân anh đấy! - Nguyễn Trãi đi sau Trần Nguyên Hãn tiến dần vào rừng rậm theo lối đi mở ra bằng dao mã tấu. Một mùi hôi thối từ các lùm cây cỏ sà mặt đất xông lên làm chàng nghẹt thở. Trong ánh sáng lờ mờ màu xanh đục, chỉ có những vòm cây lá um tùm lộn xộn, những thân cây tối sẫm và đầy leo rủ xuống như những chiếc võng.
Hai người bước đi trong im lặng. Thỉnh thoảng một vài tiếng vượn lẻ loi vang lên. Ở đây, khắp nơi, dưới những chùm hoa phong lan giống như những chiếc chuông nhỏ màu vàng và lứa hoa cà tỏa mùi hương lôi kéo hàng nghìn côn trùng, những chiếc lá to bản xanh mướt của các cây vả vặn vẹo, những gốc già mang nhiều thân con của cây gòn128, đều có một cạm bẫy ẩn giấu: những cây gai có chứa chất độc bị chích vào là lên cơn sốt và mưng mủ, các loài rắn độc chết người, bọ cạp đen, đỉa và ác thú...
Giờ đây họ đã cách xa bản làng của người Mường nửa ngày đi bộ. Chính ở cái làng ấy, họ đã thay áo dài đạo sĩ, mặc áo dài màu củ nâu của nông dân người Kinh và để Ba và Vô Kỷ ở lại.
Ra khỏi khu rừng, họ đi vào một con đường dài một dặm đường, sau đó đụng vào một ngọn đồi dốc. Trần Nguyên Hãn bước vào những bụi cây.
- Đây rồi! Tôi đã tìm thấy đường.
Một con dốc đẽo thành bậc thang, dọc theo là một lan can bằng mây để người ta vịn vào leo lên tới đỉnh. Đến nửa đường, họ dừng lại để thở đôi chút.
Những dải sương mù bao quanh đỉnh các ngọn núi.
Một bóng cây màu đen nổi bật lên ở đằng xa trên nền trời giông tố.
Phóng tầm mắt xa tít đến đâu Nguyễn Trãi cũng chỉ nhìn thấy toàn là những thung lũng chen giữa các ngọn đồi bao phủ rừng rậm leo từng nấc một lên những ngọn núi thấp um tùm cây cối. Ở giữa cảnh trí hỗn độn ấy bao gồm những đỉnh núi nhọn chen nhau trùng điệp chỉ cách nhau bởi những hẻm hóc ngoằn ngoèo, chàng cảm thấy một cảm xúc khắc khoải như bị giam hãm. Với những hẻm núi và dốc đèo hiểm trở, những khu rừng rậm có tê giác và bò rừng, hổ, báo, vô số những hang động, sào huyệt của bọn cướp và dân cư miền sơn cước còn man rợ, tỉnh Thanh Hóa này từ Bắc xuống Nam, từ Đông sang Tây đã có sẵn mọi thứ chướng ngại. Chàng nghĩ đây là một nơi biệt lập lý tưởng để tiến hành hoạt động du kích.
Sau lưng họ là thành Tây Đô, phía bên kia những ngọn đồi. Nhóm nhỏ của họ gồm những người bỏ trốn đã khôn ngoan tránh xa cổ thành nhà Hồ và những trạm quân canh gác ba cửa vào thành. Trong xứ này, người ta tính độ đường bằng ngày đi bộ, và họ đã mất ba ngày mệt nhoài đi bộ lòng vòng, khi thì xuyên qua rừng già nguy hiểm, khi thì dọc theo các nẻo đường cheo leo.
Lê Lợi đang ở một nơi nào đó trong vùng Khả Lam. Ông là một ngườiphản loạn bị các đội quân của chính quyền Giao Chỉ tìm bắt. Tình cảnh của ông thật bấp bênh khiến ông phải đổi chỗ không ngừng và không có gì bề ngoài phân biệt ông với bất kỳ thuộc hạ nào của ông. Trong hoàn cảnh này, Nguyễn Trãi không biết mình sẽ gặp ông ở đâu và lúc nào nếu như Trời không giúp chàng. Chàng chỉ có thể phó thác vào người em họ Trần Nguyên Hãn đã từng quen biết xứ này và các bộ tộc vùng sơn cước.
Lúc ấy, Hãn nhảy bổ đến:
- Đại huynh, nếu chúng ta gặp một trạm nghĩa quân, anh hãy làm như thể chúng ta thuộc cùng một nhóm và anh hãy nói rằng anh đi theo em.
Họ tiếp tục đi lên dốc giữa các cây đỗ quyên và cây tai hùm vào tháng bảy đang nở hoa đỏ thắm, tô điểm cả ngọn đồi. Dường như trước họ, không có ai đi qua vùng đất này, tuy nhiên Nguyễn Trãi thường xuyên cảm thấy bị rình rập. Nhiều lần, chàng thấy - hay tưởng mình thấy - như có bóng người lướt qua.
Những đám mây lớn trôi qua như các đám khói đen. Từng cơn gió lạnh làm cành cây vặn vẹo, níu lấy vạt áo dài bằng vải mỏng của họ, làm họ khát. Khi đi xuống sườn đồi bên kia xuyên qua tiếng sấm ì ầm ở xa, họ nghe thấy tiếng nước chảy. Dưới kia, một cái máng nước bắt vào một dòng suối. Họ đến gần dòng suối, bỗng có những người đàn ông từ khu rừng thưa vọt ra: ba nông dân người Kinh và hai người miền núi mặc áo màu xanh chàm. Ở thắt lưng họ lủng lẳng một thanh mã tấu bén nằm trong bao gỗ mà người Mường luôn mang theo bên mình, có thể làm đứt đầu hoặc đốn một thân cây trong nháy mắt.
- Dừng lại! Đầu hàng đi hoặc chịu chết!
Một cách bình thản, Trần Nguyên Hãn rút từ trong áo ra một cây sáo mà Hãn vẫn luôn mang theo bên mình rồi bắt đầu thổi những nhịp đầu bài "Chào sông Mã anh hùng", một khúc ngâm cổ của những người chèo thuyền đất Thanh Hóa mà Nguyễn Trãi không biết.
Khi nghe khúc ca tập hợp của họ, các nghĩa quân bèn mở miệng cười và vội đến chào họ. Khi hai người giải khát xong, họ tiễn chân hai người đến tận ngôi làng trước khi rút lui.
Đằng sau những thân cây cọ trơn và thẳng với những chòm lá nhỏ, như xuyên qua các chấn song của một cái lồng, những căn nhà sàn ở vùng núi khác xa các căn nhà làm trên mặt đất của vùng châu thổ, náu mình sâu trong hẻm núi.
- Hãy chờ một chút, đại huynh ạ.
Sau đó không lâu, Trần Nguyên Hãn ra khỏi căn nhà và mời Nguyễn Trãi leo lên chiếc thang đặt dựa vào mặt tiền dành riêng cho khách. Cả hai ngồi xuống chiếc chõng tre trong gian nhà có đặt bàn thờ tổ tiên. Ở chính giữa, trong một khung vây bằng cây rui, một ngọn lửa nổ tí tách, trên đó vài bó lúa đang được hong khô đặt trên một cái vỉ. Trên các bức vách treo những cây mã tấu dài, những lưới bắt chim, các ống tre có độ dài khác nhau, và tên nỏ. Phía sau nhà, một khung cửi đang buông tiếng kẽo kẹt.
Mọi người dân trong xóm đã ra rẫy. Chủ nhà, một bà cụ già miền núi mời họ dùng một bát cơm nấu bằng gạo đỏ và một đĩa rau xào hơi đắng. Thật ra, bà ta chưa già lắm, nhưng bao năm tháng mang gùi nặng trên vai đã làm cho lưng bà còng trước tuổi.
Trần Nguyên Hãn nói khá sõi tiếng Mường và cả tiếng Thái. Sau một hồi nói chuyện huyên thuyên, khuôn mặt rạng rỡ, ông cất tiếng:
- Bà ấy nói rằng "người anh hùng áo vải" không ở xa đây lắm. Trong nhiều con đường băng qua núi ở đây, chỉ có một con đường dẫn tới chỗ ở của con người ấy. Các ông cứ tiếp tục con đường mòn dốc đứng thì sẽ thấy trại của ngài.
Người đàn bà đi đong đầy hai đấu tre gạo, lấy thêm mấy lát gừng. Họ phải nhận món quà ấy vì sợ bà phật lòng.
Từ cửa sổ nhà mình, cô thiếu nữ Mường dệt vải nhìn theo hai chàng trai người Kinh đi xa dần rồi nàng tiếp tục đưa thoi. Nàng thoáng nghĩ trong đầu đến một bài hát như sau:
Này là năm núi lở
Này là năm suối cạn
Chúng tôi ăn hạt gạo cay đắng bi thương
Chúng tôi ở căn nhà đen tối buồn tủi.
Dọc theo con đường dốc đứng chạy quanh co giữa đất với trời, Trần Nguyên Hãn giải thích cho Nguyễn Trãi biết: cách những cánh đồng đá dựng lởm chởm này đúng hai dặm đường, theo như lời người phụ nữ Mường, họ sẽ tìm thấy một ngọn đồi có nhiều hang động rải rác. Lê Lợi đã đặt đại bản doanh trong một hang động ở đó.
Để vượt qua một số đoạn đường, họ phải bám hai tay vào vách đá. Nhờ sức mạnh của đôi bàn tay bám chặt, họ leo lên những tảng đá phủ rêu trơn trượt. Mồ hôi vã ra như tắm, họ len lỏi trong các hẻm núi, lách mình giữa các tảng đá. Mỗi khi vận động mạnh, Nguyễn Trãi cảm thấy cuốn "Bình Ngô sách", một cuốn sách về chiến lược quân sự mà chàng luôn mang theo bên mình trong thắt lưng, thúc vào lớp da cạnh sườn.
- Chúng ta đến rồi kìa! Anh hãy quan sát ở đằng kia cái động to như một cái nia với bức bình phong bằng đá ở lối vào. Đại huynh, mời anh!
Nguyễn Trãi nắm lấy tay áo của Hãn.
- Anh Cả, anh hãy nhớ rằng tôi chỉ muốn thấy Lê Lợi trước mà không bị Lê Lợi nhận thấy mình.
- Anh hãy để cho tôi hành động, tôi đã nghĩ ra rồi. Hiện tại, lính gác đã phát hiện chúng ta, nên chúng ta cần phải đến trại. Sau đó, tôi chỉ cần nói với minh chủ Lê Lợi rằng nhà nho Nguyễn Trãi đã bị cơn sốt giữ lại ở một ngôi làng cách đây hai ngày đường. Trong khi đó, tôi sẽ giới thiệu anh với những người khác - nếu có ai hỏi - như một người quen biết lâu ngày làm thầy dạy học ở xung quanh vùng Đông Quan. Anh viện cớ đi đường mệt nhọc để lui về trong lều của tôi chờ. Khi nào có cơ hội nhìn thấy Lê Lợi xuất hiện, đích thân tôi sẽ đến tìm anh ở lều. Bằng cách ấy, anh có thể tha hồ mà đánh giá. Đại huynh à, như thế là làm theo đúng ý của đại huynh đấy, phải không?
- Đúng vậy! Nào, chúng ta đi!
Lần này thì Trần Nguyên Hãn nắm lấy tay Nguyễn Trãi.
- Chúng ta phải cẩn thận khi đến gần trại, cái hào nước ấy hẳn phải cắm đầy chông.
Hãn vừa mới nói xong, các nghĩa quân mặc áo màu củ nâu và màu chàm từ sau các tảng đá hiện ra, bao vây họ. Người chỉ huy quen biết Trần Nguyên Hãn và nói chuyện cùng Hãn với vẻ trân trọng đồng thời liếc đôi mắt tò mò về phía Nguyễn Trãi.
Xa xa, tiếng sấm tiếp tục ì ầm. Bầu trời xuống thấp đến độ như màn đêm sắp buông xuống. Họ đi vòng qua cái hào nước. Tất cả đều võ trang bằng cung, tên và mã tấu giắt trong bao gỗ. Doanh, người chỉ huy nhóm binh sĩ tuần phòng, đi trước mở lối. Ông còng lưng tới trước không phải như một ông già bị tuổi tác uốn cong, mà như một con người cả đời mình len lỏi trong rừng rậm. Tới chân đồi, họ rẽ về hướng Đông, tiến vào rừng.
Đến bờ một con suối, có dựng những căn lều làm bằng cành cây, không lớn hơn chỗ bày hàng của các bà bán nước chè ở Đông Quan. Những cành cây được cột lại với nhau một cách sơ sài làm thành bộ khung của căn lều. Trong lều không có chõng tre mà chỉ có một tấm thảm bằng lá kêu sột soạt. Nguyễn Trãi sung sướng ngả mình nghỉ ngơi trên tấm thảm bằng lá đó. Trong suốt những năm bị quản thúc, chàng đã sống trong cảnh giam hãm và không có dịp luyện tập. Chàng nghe người em họ bảo những người khác đừng quấy rầy chàng, rồi khi đi để báo cáo về nhiệm vụ của mình cho Lê Lợi.
Việc chàng đi theo Trần Nguyên Hãn đủ để cho người ta tiếp nhận chàng không chút nghi ngại. Căn cứ vào câu chuyện họ nói, mọi người dường như tin chắc không bao giờ người Trung Quốc dám phiêu lưu trong vùng núi non này. Sự hiện diện của con Rồng đất Lam Sơn đã thuyết phục họ phải lánh xa không dám bén mảng. Nguyễn Trãi nằm ngửa vươn dài tứ chi tê cứng. Chàng không ngạc nhiên khi càng rời xa phương Bắc đang bị ngoại bang thống trị, càng đi về phương Nam, phương Nam kháng chiến này, chàng càng nghe nói về Lê Lợi! Con người này dường như gần gũi với các người nông dân ấy cả Kinh lẫn Thượng, như môi với răng. Đối với họ một tấc đất còn quý hơn một tấc vàng. Lê Lợi là hiện thân niềm hy vọng của họ.
Bên trên đầu chàng, các cành cây của mái lều rên rỉ dưới những cơn gió thổi liên tục. Chàng cảm thấy giấc ngủ xâm chiếm chàng. Bên ngoài người ta đã đốt lửa để xua đuổi dã thú. Gió đưa những luồng khói đến nơi chàng nằm.
Ảnh hưởng của ông Lê Lợi này đối với mọi người thật là to lớn, kể cả Trần Nguyên Hãn, vốn là một người thuộc hoàng tộc nhà Trần. Giữa chàng và Hãn phải có mối quan hệ thân tộc gần gũi và lòng tôn kính chung với người ông của họ là Hoàng thân Trần Nguyên Đán, thì người em họ của chàng mới chấp nhận nói dối để cho chàng được giấu tên tuổi. Ít ra chàng cũng có một lý do khác, chàng suy nghĩ để chống lại sự đờ đẫn đang xâm chiếm mình. Mặc dù Trần Nguyên Hãn tán thành toàn bộ chiến lược của chàng, Trãi cũng đoán ra sự dè dặt của anh ta. Với tư cách là một võ tướng, Hãn đặt niềm tin của mình vào quân đội hơn là vào nhân dân, như thể cả hai lực lượng không thuộc về một cuộc chiến đấu chung. Hãn là một chiến sĩ xuất sắc. Nếu người ta cho Hãn đủ phương tiện thì Hãn sẽ trở thành một vị tướng đại tài. Hai mắt của chàng nhắm lại, chàng đã ngủ.
Cái lạnh đã đánh thức chàng dậy và gió gào rít trong rừng cây. Mặt trăng lọc qua những kẽ hở của mái lều. Hãn vẫn chưa thấy quay lại. Trong lúc chàng ngủ, một người nào đó đã đến đốt lửa trong cái lò đất. Chàng cố thử khêu lại ngọn lửa nhưng chỉ làm cho tro bay dính đầy mũi chàng. Mọi vật đều lạnh lẽo. Nguyễn Trãi đi nằm lại. Tư tưởng chàng lan man hướng về Côn Sơn, các con trai và nàng Thanh, vợ chàng. Chàng nhìn thấy lại nước da trên khuôn mặt ảo não, tang tóc với mái tóc dài của nàng. Sức khỏe nàng không được tốt. Ngay từ nhỏ nàng đã được kẻ hầu, người hạ, đi đâu cũng bằng cáng có nhiều người đi theo hộ tống. Cuộc sống như thế đã không chuẩn bị cho nàng đối đầu với nghịch cảnh. Chàng buồn rầu biết rằng nàng phải một mình đối diện với những điều không thể nào lường được, chàng cảm thương cho nàng và hy vọng rằng con hầu Nụ Nhài sẽ có thể trở về lại ở với nàng. Đã lâu lắm rồi, chàng không nghĩ đến nàng với một sự tha thiết như thế. Họ đã chịu cảnh chia ly từ bao năm như hai sao Sâm, Thương. Một nỗi buồn to lớn làm trái tim chàng trĩu nặng, làm cho môi chàng bật ra những vần thơ. Chàng ước muốn leo lên đỉnh các ngọn núi để thổ lộ tâm tư với mây trời. Chàng đã viết được một tác phẩm nào có khả năng để lại danh thơm cho hậu thế? Tình nghĩa phu thê, vinh quang trong sự nghiệp văn chương, chàng đã gạt chúng ra khỏi những dự định của chàng. Lo cái lo của dân phải được đưa lên hàng đầu trước mọi việc khác. Bọn cá mập và cá sấu còn cướp phá đất nước này, khắp nơi bốc lên mùi hôi thối của những tội ác tày trời do chúng gây ra, người dân ở tận những thôn xóm xa xôi không còn biết đến cảnh thanh bình. Ước muốn trả thù, khát vọng lấy lại đất nước ấp ủ mọi con tim, nung nấu trong lòng những người dân miền núi có mái tóc dài. Trong cơn khốn cùng này, người anh hùng nào lại chịu phung phí đời mình bên đống sách cũ. Món nợ đối với cha và tổ quốc, không ai có thể tránh né. Thời cơ đã đến để hành động. Chính sự xác tín ấy đã đưa đẩy chàng đến tận ngọn đồi này, nơi mà Lê Lợi cũng đang thao thức.
Bầu trời đã rạng sáng. Một con hoẵng kêu lên từ xa. Kéo tấm chăn lạnh giá vào người, Nguyễn Trãi tự hỏi ngày mới mọc có phải là ngày đế chàng gặp được "người anh hùng áo vải".
—★—Giữa đám nông dân người Mường, Nguyễn Trãi leo lên đồi. Giống như họ, chàng mặc quần áo màu xanh chàm, một cái khăn cột vòng qua bên dưới búi tóc và cột lại một cách cẩu thả trước trán, ở thắt lưng một cây mã tấu dài và trên lưng một cái gùi nhét đầy lá mù tạt. Một vài người phụ nữ vùng sơn cước, to khỏe đội khăn đỏ và mặc váy nhiều màu đi theo sau.
Tế vật dâng lên trong ngày giỗ của thân phụ Lê Lợi là cơ hội đến gần ông mà ông không thể ngờ tới.
Sau cùng, khi đoàn người đã đến một cái động to nhất, gia đình người có đám, người chủ tế, cả đến những người chết được gọi về để thượng hưởng cũng đã phân tán đi rồi. Trước bàn hương án, vẫn còn cây samao129ướt đẫm rượu dùng để tế lễ.
Nguyễn Trãi thất vọng, chàng bắt chước các bạn đồng hành để tuột khỏi vai những dây leo dùng làm dây đeo gùi để gỡ gùi xuống một lúc. Bao giờ chàng mới tìm lại được một cơ hội khác để lên đồi mà vẫn không ai biết? Chàng ném cái nhìn bực dọc về phía một người nông dân Mường đang ngồi đằng kia ăn ngấu nghiến một miếng thịt vẫn còn dính máu. Không ai ra khỏi hang động. Khó mà nghĩ rằng chàng lại còn có dịp trở lại nơi này nay mai, trừ phi phải để lộ tông tích của mình và như vậy thì mọi tính toán để thăm dò Lê Lợi mà không cho ông ta hay, thành ra vô hiệu.
Một mệnh lệnh ban ra bằng tiếng Mường và trong nháy mắt, gùi lên vai, đoàn quân lại chuyển động. Chàng nho sĩ giả vờ cột dép và lùi lại sau một gốc cây nơi người ta cột ngựa. Từ đó, chàng dễ dàng quan sát lối vào động. Nếu có ai trông thấy ắt phải nghĩ chàng là người giữ ngựa. Tâm trạng bực dọc của chàng dần dần nhường chỗ cho niềm hy vọng.
Nghiêng mình trên cổ một con ngựa nhỏ giống Việt, chàng chờ đợi.
Chẳng bận tâm đến người đi, kẻ lại, người nông dân Mường vẫn ở đấy - Có đúng là một con người không nhỉ? - Vẫn tiếp tục dùng răng xé những miếng thịt còn đẫm máu. Máu chảy nhỏ giọt xuống miệng anh ta, chảy xuống bộ râu mà anh ta dùng mu bàn tay chùi quẹt, khuôn mặt của anh ta vô cảm đờ đẫn trong khi bộ xương hàm mạnh mẽ như cọp vẫn làm việc. Nguyễn Trãi chán ngấy quay mắt nhìn sang chỗ khác. Nhưng chàng đã theo dõi một cách vô ích cái động và các vùng kế cận, không có người nào xuất hiện với nước da sẫm, tướng đi vương giả như hổ báo, tiếng nói âm vang gần giống, hay giống với con người mà Trần Nguyên Hãn đã mô tả.
Ngồi bảnh chọe trên chõng tre, con người cục cằn ấy dùng mã tấu róc từng mảng lớn từ khối thịt đặt trước mặt mình: khối thịt trích phần từ con trâu đã dùng làm tế vật. Người ấy ra sức róc thịt như đẽo một thân cây. Máu bắn ra tứ phía.
Nhìn mãi người ấy, Nguyễn Trãi sợ làm hắn chú ý. Quả thật, chàng tức giận nghĩ, có phải sự hội tụ của các tinh tú đã đưa chàng đến từ phương xa, vượt qua bao nhiêu nguy hiểm chỉ để ngắm con người thô lỗ và chán ngấy này? Tuy nhiên, một nhà nho tao nhã như chàng dù có chán ngán cảnh tượng ấy bao nhiêu nhưng chàng vẫn cứ mãi đưa mắt nhìn người Mường ấy đang mở cái miệng to, xỉa răng với một cây que nhỏ và phun các mảnh vụn thức ăn ra xung quanh.
Có lẽ nào những người dân sơn dã, mặc áo tơi để tóc dài, sống trong những căn nhà như chuồng gà ngất ngưởng lại mọi rợ như thế? Làm sao chủ tướng Lê Lợi, con rồng lừng lẫy đất Lam Sơn lại chịu để sự bừa bãi, cẩu thả như thế ở gần sát đại bản doanh của người?
Chính lúc đó, người đàn ông Mường gạt cái đùi trâu cụt ngủn đã bị xé nát ra một bên, kêu lớn lên một vài tiếng - Nguyễn Trãi sửng sốt vì đó là tiếng Kinh. Tiếng kêu vang khắp núi đồi, tên Quỷ ấy, hơn nữa, lại chẳng cần dùng đến loa.
Một con hầu xuất hiện trên cửa hang. Nó mang một ấm nước trà tròn có nắp vàng lóng lánh, loại ấm trà đặc biệt của đất Thanh Hóa và một bình thuốc lào thanh lịch. Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là những đồ dùng của Lê Lợi. Các ngón tay của chàng nho sĩ bám vào bờm chú ngựa con làm hai vành tai nó run rẩy. Theo bản năng, chàng quay đầu chờ vị tướng sẽ xuất hiện trên con ngựa ô danh tiếng màu gỗ mun.
Khi chàng nhìn lại, chàng chưng hửng ngạc nhiên: con hầu dâng bát nước trà cho người Mường phàm ăn thịt sống ấy với dáng điệu tôn kính sâu xa.
Nguyễn Trãi tưởng như chàng bất ngờ tỉnh sau một cơn mơ. Nước da người đó sẫm, tiếng nói vang như tiếng đại hồng chung, trên vai phải có một cái nút đen. Tuy vậy, chàng không thể tin rằng cái... rằng con... rằng người đang uống nước ừng ực kia là... ngài? Lê Lợi?
Hai người đến tháo ngựa vô ý đẩy chàng ra. Nguyễn Trãi sững sờ ấp úng:
- Nếu tôi không lầm thì có phải đó là chủ tướng Lê Lợi?
- Phải đấy, bạn ạ! Bạn nhận ra ông Vua của chúng ta thì cũng là có mắt tinh đời đấy! Người trẻ tuổi hơn nói đùa.
Họ phá ra cười.
Có phải vì Nguyễn Trãi ném cho họ một cái nhìn giận dữ nên các kỵ sĩ hiểu rằng chàng không điên, cũng không say rượu?
- Này, anh bạn từ đâu mà có vẻ hoảng hốt như quạ vào chuồng lợn? Người kỵ sĩ lớn tuổi quát chàng rồi nói với bạn đồng hành: - Đó là một người Mường mà lại nói tiếng Kinh của chúng ta.130
Nguyễn Trãi bị một nỗi tức tối không thể kìm hãm tác động khiến chàng chạy như bay xuống con đường dốc, một nỗi thất vọng không thể nói được và một cảm xúc khó chịu lạ lùng tóm tắt được trong mấy chữ: con người ấy không phải là một đấng minh quân! Chàng chạy suốt ngọn đồi, vòng vèo giữa các bụi cây, chàng nguyền rủa ý kiến sai lầm của Ba và Lê Cảnh Tuân, của Vô Kỷ và Trần Nguyên Hãn đã đưa chàng đến tận nơi đây! Con người ấy không phải là vị minh quân. Dòng máu ở thái dương, trọn vẹn thân thể của ông ta từ chân tóc đến móng chân đã thét lên với chàng điều đó.
Những người chàng gặp hỏi chàng có phải chàng bị Quỷ ở Địa ngục đuổi không? Chàng vẫn cứ tiếp tục cất bước bị cuốn vào cơn lốc tức giận và rối loạn, chàng không có một giải pháp nào khác là lập tức lấy hành lý và ra đi.
Ở bìa rừng, Trần Nguyên Hãn đợi chàng với một nụ cười tin cậy. Nhanh và bất thần, chàng đi qua Hãn và bước vào lều. Bọc quần áo nhỏ bé của chàng đã được buộc lại vội vã.
- Đại huynh à, anh làm gì thế? Nguyên Hãn hỏi với sự kinh ngạc tột bậc.
Nguyễn Trãi chỉ ném một cái nhìn u ám và vác túi lên vai, chàng chạy ào ra ngoài.
- Đại ca, em van anh, anh hãy nói cho em điều gì đã xảy ra?
Nguyễn Trãi bước nhanh hơn:
- Nếu ý anh muốn thế, ít ra anh hãy để cho tôi đưa tiễn anh nếu không đám quân sĩ canh tuần đầu tiên sẽ lại đưa anh về trại và lúc đó anh sẽ chẳng thế nào mà giấu được tông tích của anh. Trong các vùng lân cận e rằng có cọp mà anh lại không có khí giới.
Khi họ đã đi tới cánh đồng đầy đá tảng ở trên cao, Nguyễn Trãi mới chịu quay đầu nhìn lại.
- Tôn huynh ạ, đi xa hơn nữa quả là vô ích. Mặt trời còn cao, đệ không có gì phải sợ. Tới làng đệ sẽ thuê một đoàn hộ tống người sơn cước. Vậy xin tôn huynh hãy bình tâm, đừng lo lắng gì cả.
Nhưng Nguyễn Trãi đã quên rằng chàng không hề biết nói một tiếng Mường nào cả. Còn có gì ngang ngạnh hơn nữa!
- Đại huynh, giờ thì anh sẽ nói cho em biết phải không?
- Con người ấy, cái ông Lê Lợi ấy không phải là Đấng minh quân sẽ từ phương Nam thổi ngọn gió tự do trên khắp nước. Cả anh và em sẽ chẳng thể làm được gì thay đổi được điều ấy!
Nguyễn Trãi mang một khuôn mặt lạnh lùng như sắt nguội đối diện với Nguyên Hãn, tỏ thái độ của một người đã tự thu mình vào thế phòng thủ. Làm sao thuyết phục nổi một con người đã thừa hưởng của cha mẹ tính ngang bướng và cao ngạo? Không thể lay chuyển được chàng. Hãn nhớ lại, hồi còn nhỏ, thường nghe ông mình nói: "Trãi bướng bỉnh và đặc biệt thiếu sự mềm dẻo. Ông e rằng trong tương lai, tính tình cố chấp của Trãi sẽ làm cho Trãi có nhiều kẻ thù!".
- Em có mang theo khí giới. Dù muốn dù không, em sẽ đi với anh tới làng và gọi cho anh một đoàn tùy tùng. Nếu em không thể thuyết phục anh bỏ quyết định của anh thì anh đừng bắt em bỏ quyết định của em.
Thật ra, Nguyên Hãn vẫn còn nuôi hy vọng! Đường đi nếu không xa ít nhất cũng mấp mô, hiểm nghèo, họ phải giúp đỡ nhau. Có lẽ sau cùng, Trãi sẽ giải thích điều gì xảy ra trên đó, Lê Lợi không xứng đáng ở chỗ nào.
Họ lại vượt qua những bậc thang bằng đá, lần này không phải là để tuột xuống với sức mạnh của đôi tay dọc theo những tảng đá trơn trượt, đi luồn lách trong các hẻm núi. Nguyễn Trãi nhốt giữ mình trong sự im lặng, vầng trán sa sầm bước đi chẳng khác gì như chỉ có một mình và tập "Bình Ngô Sách" cuộn tròn trong thắt lưng đè nặng trên bụng chàng với sức nặng vô ích. Suốt dọc đường, Trãi không hé răng.
Họ đến làng lúc mặt trời sắp lặn. Họ chia tay nhau lúc rạng đông. Khi về lại trại, Trần Nguyên Hãn tiếc rằng cuộc khởi nghĩa đã mất một người như thế. Giờ đây, chàng sẽ nói lại với Lê Lợi gì đây?
Nguyễn Trãi, nhờ ơn Trời và được Thánh Thần che chở, xuất hiện lại trong ngôi làng nơi Ba và Vô Kỷ còn ở lại. Lúc đó Vô Kỷ ngồi xổm ở hiên nhà vừa uống rượu vừa nhấm nhi một vài hạt bí ngô, mấy cô gái Mường nước da sạm nắng, ánh mắt khiêu khích vây xung quanh. Nhìn thấy lão đạo sĩ với cái tật xấu uống rượu, khuôn mặt sa sầm của Nguyễn Trãi càng thêm rầu rĩ. Bởi sự ngốc nghếch mù quáng nào mà đem giao số phận mình cho lão đạo sĩ say rượu và thằng Ba ngây ngô ấy! À, mà thằng Ba đâu rồi nhỉ?
- Quỷ sứ đã cắn nó rồi, Vô Kỷ trả lời trong khi các cô gái cười vui vẻ. Từ nay, không có đứa con gái nào muốn lấy nó làm chồng.
Trong vùng núi này, ma gà thích mổ những gì đi qua gần nó: trâu, bò, lợn, gà, con nít và người lớn. Điều này thường xảy ra và những người dân vùng núi nói: "Ma quỷ, ma gà đã cắn nó!". Những nạn nhân của ma quỷ chỉ còn có nước phải làm lễ cúng ma và đi tìm một người cùng bệnh ở nơi khác để lấy làm vợ hoặc chồng, họ bắt buộc phải như thế vì đã mang tiếng xấu "bị ma ám".
Nằm trên chiếc chiếu đầy ghét, thằng Ba chảy mồ hôi ròng ròng như dưới mặt trời nóng bỏng, răng đánh lập cập như dưới ngọn gió bấc và nói sảng.
- Nó nói gì?
Nguyễn Trãi lo ngại quay về phía Vô Kỷ. Lão đang im lặng theo dõi Ba.
- Nói về "Chủ tướng Hổ". Nó lấy làm tiếc lỡ mất cơ hội gặp chủ tướng vì tối hôm qua dường như chủ tướng đến quanh quẩn gần nơi đây. Cơn sốt làm nó huênh hoang. Núi đã làm cho nó bệnh - Vô Kỷ chỉ chén thuốc màu nâu - Núi sẽ chữa lành nó.
Lão nhìn Nguyễn Trãi với cái nhìn sắc bén. Bên ngoài vang lên những tiếng động quen thuộc ở các làng Mường lúc hoàng hôn: tiếng chày giã gạo, tiếng lợn ủn ỉn đang giành ăn, tiếng trâu rống kéo dài và buồn thảm, tiếng gà vịt kêu khi người ta lùa chúng vào chuồng bên dưới nhà sàn vào ban đêm.
Trong suốt bữa ăn và lúc canh thức bên ngọn lửa, Nguyễn Trãi cảm thấy ánh mắt đăm đăm của lão đạo sĩ dán vào người chàng.
Tuy nhiên chàng đã quyết định rồi. Dù cho lão đạo sĩ phù thủy có nói hay làm gì, thì ngay ngày mai chàng sẽ về lại miền Bắc và đất Côn Sơn.
Khi chàng thức dậy trước buổi rạng đông, Vô Kỷ đã đứng đó cho Ba uống thuốc sắc bằng lá cây. Ba đưa đôi mắt của người bị sốt nhìn Nguyễn Trãi.
- Vậy thì, thầy, chính thầy đã nhìn thấy ông ấy và thầy đến tìm chúng tôi? Ngày mai, con sẽ đứng dậy được, phải không ngài Đạo sĩ? Ngài cho tôi uống chén thuốc đáng ghét ấy nhanh lên nào.
Nhếch khóe môi, Nguyễn Trãi ra dấu cho ông thầy đạo lão đừng nói gì. Lão đạo sĩ tiễn đưa nhà nho họ Nguyễn và đoàn tùy tùng ra tới cổng làng. Hôm ấy bầu trời trên các đỉnh núi màu xanh thẫm.
Ánh mắt của Vô Kỷ dán chặt vào ánh mắt của Nguyễn Trãi thình lình nảy ra một ánh sáng màu đỏ sẫm siêu phàm, gần như ánh mắt sát nhân. Nguyễn Trãi đột nhiên lùi lại. Lão đạo sĩ nắm tay áo Trãi kéo ra để nói riêng với chàng.
- Này con, con sợ gì ta chớ? Điều anh vừa trông thấy chỉ là sự phản ánh tính gây hấn của anh. Có cần phải nhắc cho anh câu châm ngôn của Lão Tử?
Người nào biết người khác là hiền nhân,
Người nào biết chính mình mới thật sáng suốt.
Người nào thắng được người khác là dũng,
Người nào thắng chính mình mới thật sự kiên cường.
Anh đi tìm vị minh quân nhưng chính anh đã tỏ ra đủ sáng suốt không khi để cho cái vẻ bề ngoài đánh lừa? Lịch sử dạy chúng ta rằng, Đinh Tiên Hoàng là một người chăn trâu, Lê Đại Hành là một vị tướng, Lý Thái Tổ là một nhà sư, Trần Thái Tông là con quan. Có phải anh giống người nông dân nọ than thở mùa màng không chịu mọc khi mà anh ta không chịu gieo trồng? Hành vi của chính mình tạo nên duyên nghiệp, đó là Đạo của con người! Vị lãnh đạo cuộc giải phóng cho nước Đại Việt phải do anh tạo nên!
Nguyễn Trãi đón nhận những lời nói sau hết ấy với một nụ cười nhỏ nhẹ và lạnh lùng rồi leo lên ngựa. Khi chàng đi xa dần theo những bước chân của những người miền núi, những lời nói của vị đạo sĩ còn làm tăng thêm sự khó chịu đã xâm chiếm lấy chàng kể từ lúc chàng rời khỏi vùng rừng núi Khả Lam và con người cục cằn đó chẳng có gì giống với hình ảnh của một ông Vua.
—★—Ở bến đò Mỹ Tân, hàng quán đầy nghẹt người Tàu, thương gia và binh lính ngà ngà say. Mọi cái chõng tre đều có người ngồi. Một mùi hôi hám xông lên như trong tổ chim cú. Trong lúc chờ đò, Nguyễn Trãi thích đi loanh quanh trong chợ và dọc theo bờ sông hơn là vào quán.
Chợ thật nghèo! Trên những tàu lá chuối phập phồng trải trên mặt đất ướt sũng sau cơn mưa rào, người ta bày dăm ba món hàng nghèo nàn. Ở đây là một mớ gừng xắt lát chai cứng lại, xa hơn là một nắm đậu đen, hạt nhỏ hơn đậu ở vùng châu thổ sông Hồng. Những người miền núi xuống đây bán vài bó củi, một ít lá mù tạt hay một nồi gạo nếp. Các bà vợ của họ ngồi sau sạp hàng luôn tay se sợi gai. Những người gầy giơ xương ăn mặc rách rưới, đi lang thang, da mặt họ xanh xao, bị những cơn sốt giày vò, vẻ mặt ngơ ngác.
Nguyễn Trãi ngồi riêng ra trên một gốc cây, đặt túi hành lý ở dưới chân, lòng ngao ngán. Chàng đã cho đoàn tùy tùng quay về vùng núi non từ hôm trước. Họ đã tỏ ra là những người bạn đường tận tụy và chàng nhìn họ ra đi với lòng luyến tiếc. Mặc dù họ chẳng có gì nhiều, họ cũng đã cho chàng đậu nành, rau phan và một nắm cơm miền núi chỉ ăn một miếng dính miệng thôi cũng đủ no.
Một bà già mang trên lưng một đứa trẻ gầy còm như một con nhái đến ngồi không xa đó. Đứa bé không ngừng khóc nức nở. Bà già hướng khuôn mặt u tối về đứa bé khô quắt: cái nhìn của bà như rơi vào bóng tối không đáy của hai hố mắt của nó. Hình ảnh này nhắc Nguyễn Trãi nhớ đến khuôn mặt của nhiều tù nhân trong đoàn người phát vãng131 mà chàng đã đi theo sang Trung Quốc. Lòng chàng buồn héo hon khi nghĩ đến điều đó. Đến bao giờ, chàng sẽ trả xong món nợ đối với cha chàng và với Tổ quốc.
Từ lúc rời khỏi Khả Lam, nhiều cuộc gặp gỡ đã quấy rối chàng.
Trước hết, trong rừng rậm, chàng đã gặp một xác chết trơ xương với con mắt mở to và nắm tay còn giữ chặt một cây mã tấu cũ kỹ, sứt mẻ: người đàn ông chết vì đói trước khi đào được rễ cây, cũng mới chết thôi nếu không thì khí nóng và các côn trùng dưới lớp lá rừng đã làm biến đổi thành một thây ma hư thối. Những người miền núi đã phủ lên xác chết một khăn liệm bằng lá cây nhưng Nguyễn Trãi lúc nào cũng nhìn thấy mắt của người chết nhìn dán vào mình một cách ngoan cố. Kế đó, sau ba ngày đi bộ, chàng đến Vạn Sơn với chợ máu bán đầu lâu và lỗ tai của những người "nổi loạn" mà bọn người Tàu bày ra trên những cái khay, như những chiến lợi phẩm. Và sau cùng, khi ra khỏi thành, cánh đồng trước mặt họ bắt đầu chuyển động. Đoàn tùy tùng người miền núi bị một nỗi sợ hãi đầy mê tín xâm chiếm đã dừng lại. Cái gì đang chuyển động trong cỏ sát mặt đất thế kia? Từ xa, cứ nhìn thấy màu nâu nhạt, chắc người ta phải nói là một bầy chó. Khi đám đông đến gần, Nguyễn Trãi và các bạn đồng hành sững sờ nhận ra đám đông ấy giống, hay ít nhất trước kia đã giống, những con người! Họ không đi. Họ trườn mình trúc trắc trên cùi chỏ, bụng, đầu gối như những con sâu róm. Chính sự co thắt, thu ngắn thân xác đói khát họ lại làm họ di chuyển như thế. Nạn đói! Vì chính nạn đói đã dùng bản năng sinh vật khủng khiếp của họ đẩy họ về Vân Sơn tìm sự cứu giúp không lấy gì làm chắc. Dĩ nhiên, trong đám người đang bò ấy có đàn ông, đàn bà, trẻ nhỏ. Làm sao nhận ra họ trong những con người dở sống dở chết với những khuôn mặt đen đủi, đống thịt thối rữa đang bò lết ấy làm chuyển động cả cánh đồng? Họ bò qua sát đất không nhìn thấy Nguyễn Trãi và các bạn đồng hành của chàng. Chàng không thể quên sự vặn vẹo đáng thương của những người hấp hối đang bò đi tìm sự phục sinh ảo tưởng.
Đứa trẻ trên lưng của bà già không còn nấc nữa. Giống như một chiếc lá héo, nó kiệt sức, nghỉ yên. Nó có cơ may nào để sống còn? Và những con người ăn mặc rách rưới chỉ còn da bọc xương kia thì sao?
Nỗi khốn cùng của nhân dân, Nguyễn Trãi đã gặp trên mỗi bước đi dọc theo con đường xuống phương Nam, nhưng lúc đó niềm hy vọng chàng chia sẻ với Trần Nguyên Hãn, Ba, Vô Kỷ làm cho chàng thấy nó có phần nào có nhân tính hơn. Sự khốn cùng ấy là nguyên nhân để họ liên kết với Lê Lợi, cũng chính là lý do của cuộc chiến đấu. Còn hiện tại, sự khốn cùng tuyệt vọng ấy tràn ngập bốn phương. Nó thét gào trong cái chợ này với tiếng kêu dài im lặng, trong những hàng nông dân bất tận đang oằn người dưới đòn gánh vì bị cưỡng bách phải đi theo những đoàn quân Ngô giẫm nát núi đồi. Chàng đau khổ vì sự khốn cùng ấy, như phạm một lỗi lầm mà chính mình có trách nhiệm nặng nề. Ánh mắt người chết trong rừng rậm, những cái đầu xát muối của các nghĩa quân ở Vạn Sơn, đoàn người đang bò lê lết ám ảnh chàng.
Chàng chộp lấy túi hành lý, dúi nắm cơm của người miền núi cho chàng vào bàn tay của bà già rồi đi đến bến tàu.
Ở đấy một rắc rối nhỏ xảy ra. Một tên lính Ngô bị một phụ nữ ngạo mạn khước từ lời ve vãn định dùng roi để sửa trị cô này. Đám đông can thiệp: "Này, chú lính, anh định hiếp mẹ anh hở?". Trước vẻ mặt cương quyết của họ, một vài người có mang mã tấu, tên vũ phu phải chịu thua. Tuy vậy, trước khi chạy về quán trọ, hắn cấm dân chúng xuống đò cho tới khi có lệnh mới.
Tất cả mọi người quyết định cứ xuống đò làm cho một cụ già có chòm râu lưa thưa hoảng sợ:
- Các người không nghe thằng lính Ngô ấy nói sao? Nếu các người ra đi họ sẽ giết chết chúng ta.
- Chúng say rượu như thế, phỏng làm được gì? - Nếu chúng ta vâng lệnh chúng thì chúng sẽ không tàn sát chúng ta sao? Vậy từ tháng giêng cho tới tháng chạp chúng làm gì nào? Ông cố ơi, ông cứ ở lại nếu ông muốn! Người phụ nữ ấy là một người đàn bà nông dân có đôi chân rắn chắc và vẻ mặt điềm tĩnh. Một đứa bé đeo trên lưng khóc oe oe, hai đứa lớn đeo dính vào vạt áo mẹ. Bà nhổ bã trầu đỏ như máu.
- Còn ông, ông du khách?
Mặc dù quần áo xộc xệch của Nguyễn Trãi không khác với quần áo của một nông dân, người ta cũng đoán biết chàng không phải là một người tầm thường.
- Các ông bà muốn qua sông, tôi cũng muốn thế!
Một nụ cười thoáng qua xóa đi những nét nhăn nhó trên mặt chàng.
Con đò cặp bến, người gồng gánh, người mang túi hành lý lần lượt bước lên.
Khi họ đi ngang qua, ông lão cố giữ họ lại.
- Ngừng lại! Các ông bà ngừng lại thôi! Chúng nó sắp ra và tàn sát hết!
Họ tuôn khỏi bàn tay ông lão. Người vừa nói với Nguyễn Trãi ngồi xuống bên cạnh chàng. Mọi người đều xuống đò.
Ông lão vẫn còn ở trên bờ, bộ râu run lẩy bẩy, đôi tay khẩn khoản, không ngừng lặp lại: "Tàn sát! Tàn sát!". Đôi mắt cú vọ hết nhìn con đò rời bến lại nhìn quán trọ, không có một tên lính Ngô nào đi ra. Lúc ấy, lo sợ như cá nằm trên thớt, lão vội vàng bước thấp bước cao chuồn mất.
Trên đò, mọi người nhìn ông lão chuồn đi liền chế giễu:
- Lão ta dám cãi lời quân Minh hẳn phải có gan hùm, dạ sắt!
- Chúng lục lọi làng mạc, chúng đốt nhà, cưỡng bức phụ nữ, cướp bóc trâu bò, thế mà chúng ta phải im lặng chờ chúng tiêu diệt cho đến người cuối cùng! Cầu cho chúng bị bệnh dịch mà chết hết! Người đàn ông ngồi bên cạnh Nguyễn Trãi nói giọng khàn khàn.
Con đò đã ra giữa sông, không còn sợ ai nghe họ đã nói gì.
- Chúng bắt đi hàng trăm thanh niên, một người ở cuối con đò đáp lại. Những ai may mắn trốn thoát thì chạy vào rừng. Lúc đó chúng bắt những người già cả và chỉ thả họ ra khi con trai họ về để tự nộp mình. Hoặc là chúng tịch thu hộ thiếp132 để có cớ đưa người ta vào danh sách những người lao dịch. Chúng lấy lại thẻ mua muối. Tất cả những phương cách hay ho ấy là để bắt người ta làm việc cho chúng. Nhưng đã đến lúc Bình Định Vương sẽ thọc huyết chúng như những con heo vì chúng là heo mà!
Một giọng nói đáp lại. Đó là người đàn bà nông dân đã nói cộc lốc với lão già nhát gan ở bến đò.
- Trong làng tôi, chúng đã đốt tất cả, rồi gom trâu, bò, dê lại để lùa đi. Chúng đã giết Yến em gái tôi và đứa con còn nằm trong bụng nó. Một tên lính đã túm tóc lôi nó đi trên đường, đánh nó tới tấp rồi dùng gươm đâm nó chết. Những con thú ấy không phải là con người! Phải từ chối vỗ béo binh lính nhà Minh với trâu bò và thóc lúa của chúng ta! Phải ngăn cản người mình đi làm phu dịch và chết một cách vô ích!
Người đàn bà càng nói càng sôi nổi, rồi cúi đầu xuống đứa bé đang ngủ mặt đỏ bừng.
- Giải pháp là ở chỗ đó, người ngồi cạnh Nguyễn Trãi nói tiếp. Cần phải tiêu diệt quân Ngô và bọn quan lại phản bội. Trên kia giữa vùng rừng núi, người của ta có những chỗ trú ẩn bí mật, các cạm bẫy nằm trong những góc kín. Họ đang tập luyện sử dụng vũ khí và chờ thời. Hai đứa con trai của tôi đã đến đó. Với vị Vua của chúng ta, quân khởi nghĩa nói rằng họ không sợ gì cả.
- Tôi biết có người đang chờ cơ hội để trốn thoát và để theo Lê Lợi về nơi đồn trú của ngài, một cụ già nãy giờ vẫn im lặng nói. Lê Lợi không phải là một kẻ vương giả sinh ra trong nhung lụa, chẳng biết gieo trồng gặt hái. Ngài biết đất đai, cấy cày và làm ruộng. Đầu ngài vượt xa chúng ta và hiểu chúng ta. Ngài đối xử chúng ta như những con người. Ngài thuộc về phe chúng ta!
- Mong sao ngài nổi dậy và chúng tôi sẽ theo ngài! Nhiều tiếng nói vang lên.
Nguyễn Trãi nhận thấy những người đi đò là các nông dân, người buôn bán và trẻ nhỏ, chàng lắc đầu, ánh mắt họ rực sáng, họ không còn vẻ mặt ủ rũ của các nạn nhân.
- Một ngày nào đó, một bà già nói bằng một âm điệu như đang cầu nguyện trong một ngôi chùa, một ngày nào đó nhờ ngài, bọn chó má ấy sẽ bị tống cổ, người ta sẽ thấy lại Đất Trời, người và vật sống lại, tre trúc sẽ mọc lại.
Cảm động, họ tặc lưỡi tán thành.
Con đò đã đến bờ bên kia. Bên kia sông bọn lính Ngô đã không hiện ra. Có lẽ bọn chúng mải mê với chè chén trong quán trọ. Nhưng ở đây, những tên lính Ngô khác đang chờ họ để không ngừng kiểm soát và bắt họ đi lao dịch. Những khuôn mặt lại tỏ vẻ lo lắng, ủ dột bởi vì họ nhớ lại những cuộc đàn áp hung bạo trước đó, mùa màng bị đốt sạch, phụ nữ bị cưỡng hiếp ngay ngoài ruộng. Phải giữ niềm hy vọng ở tận đáy lòng, phải lừa phỉnh chúng trong lúc chờ đợi.
Trong lúc Nguyễn Trãi rời bước, một vài hành khách hỏi nhau: "Người này ở đâu tới? Anh ta ăn mặc như một nông dân nhưng có đôi bàn tay của một nhà nho còn giọng nói đúng là của người ở kinh đô".
- Anh ta có dáng vẻ của một người không tìm thấy điều mình đi tìm kiếm - người có hai đứa con đã đi theo Lê Lợi nói vẻ trầm ngâm.
Lúc đó vào giờ ngọ, các nông dân còn làm việc trên những cánh đồng dưới ánh mặt trời chói chang giữa hai trận mưa rào. Ngày xưa, Nguyễn Trãi tự nhủ, vào giờ này các nông dân làng Nhị Khê đã tháo ách cho trâu và trở về căn nhà mát mẻ của họ.
Cơn cuồng nộ đã thúc đẩy chàng lên đường bỏ về bỗng biến mất. Người chết trong rừng già, những cái đầu đẫm máu ở Vạn Sơn, đoàn người chẳng ra người bò lết và giờ đây sự phản kháng của các nông dân này, cùng với niềm tin của họ vào Lê Lợi kéo chàng lùi lại. Mỗi bước chân, đối với chàng dường như đang đẩy chàng thêm một chút vào sự sai lầm. Cho đến lúc này, chàng vẫn bướng bỉnh không chịu xem xét với tất cả sự sáng suốt những lý lẽ đã thúc đẩy chàng bỏ đi và chàng vẫn giữ thái độ cố chấp trước bài học mà Vô Kỷ đã cho chàng.
Giờ đây vượt lên trên niềm xấu hổ thầm kín, chàng bắt mình xem xét lại sự việc.
Khi nhìn cái người đàn ông ấy đang xé thịt như một dã thú, có khả năng tồn tại thật mạnh mẽ nhờ cơ bắp, nhờ xương cốt và sự ngon miệng dung tục, chàng cảm thấy bị tràn ngập bởi một niềm ghê tởm man rợ. Cũng như Vô Kỷ đã phản ánh tính hung hăng của chàng, chàng đã phản ánh thú tính của Lê Lợi. Và chàng đã chạy trốn hình ảnh không thể chịu đựng nổi ấy hay đúng hơn chàng như một ông quan để móng tay dài chuốt nhọn, có những cử chỉ và cung cách tinh tế, một thi sĩ say mê những thú vui thanh tao, đã chạy trốn quang cảnh không thể chấp nhận được ấy, và đã phản ứng lại, đã lên án bằng một câu: "Người đàn ông này không phải là Minh quân".
Cần phải có thời gian để Nguyễn Trãi thừa nhận điều đó. Giờ đây chàng đã chiến thắng chính mình như lời Lão Tử đã nói, chàng nhận ra chàng đã mâu thuẫn với những bài học của Hoàng thân Trần Nguyên Đán. Trong những việc của thế gian, con người tốt lành không có một thái độ từ chối hay chấp nhận cứng ngắc, sự công bằng là quy tắc của người ấy. Một lần nữa, chàng nghe lại giọng nói nghẹt thở của ông ngoại cậu lúc hấp hối, nhắc lại lời Khổng Tử. Trong cơ hội gặp gỡ đầu tiên này, chàng đã không chứng tỏ sự mềm dẻo, khoan dung và công bằng. Chàng chỉ nhìn thấy ở Lê Lợi một con người man rợ, một nông dân thô lỗ, không có khả năng hiểu được dù một chữ cuốn "Bình Ngô Sách" của chàng. Tại sao thế mới được chứ? Bởi vì ông ta ăn uống như một con lợn! Chàng cười với chính mình lúc đi đường, mặc kệ những người nông dân dưới ruộng tưởng chàng là một anh khùng nào đó trong làng. Chàng đáng bị coi là một anh khùng. Thật nực cười! Khi rời bỏ Lê Lợi, cùng là lúc chàng đã rời bỏ nhân dân, dân tộc này như nước sông, nâng chiếc thuyền quyền lực, đó là cây đòn ống (là tư tưởng chủ đạo) trong cuốn "Bình Ngô Sách" của chàng. Cho tới nay chàng thật sự hiểu gì về nhân dân? Nhân dân chính là những người nông dân ở Côn Sơn, Nhị Khê, Thanh Hóa, là làng mạc đã tiếp đón họ, là người phụ nữ Mường đã nuôi sống họ, đó là những người miền núi đã cho chàng phần lương thực mà họ có, đó cũng là người chết mở to đôi mắt nhìn thẳng vào sự khốn cùng, những nghĩa quân ở đất Vạn Sơn, những người đói khát bò lê tìm sự sống, những nông dân ở bến đò Mỹ Tân sẵn sàng chiến đấu và hy sinh mạng sống, đó là bà cụ già ấp ủ niềm hy vọng "Ngài là người của chúng ta". Niềm tin kỳ diệu nơi những người nông dân ấy! Một người đần độn có thể đánh động lòng dân như thế, được không? Tại sao sau bao năm chờ đợi, Nguyễn Trãi tự hỏi như thể chàng đang phán xét hành động của một người khác, chàng đã không chế ngự sự dị ứng của mình và không đủ kiên nhẫn để quan sát cẩn thận một người đã tập họp mọi nhóm kháng chiến và là người duy nhất hôm nay giương cao ngọn cờ khởi nghĩa? Nếu Lê Lợi chưa phải là một minh quân, thì ông ta có thể là một minh quân sau này không? Làm nên việc ấy phải chăng như Vô Kỷ đã nói, đó là nhiệm vụ mà số mệnh đã giao phó cho chàng.
Đã dám nhìn thẳng vào mắt con rồng và chiến thắng lòng kiêu ngạo của mình, lập tức Nguyễn Trãi cảm thấy tâm hồn thanh thản hơn. Dù vậy, chàng vẫn tiếp tục con đường đi về Gian Khẩu và đến nơi khi đã xế chiều. Con đò đang ở giữa dòng sông. Ngày kia mới lại có chuyến đò khác.
Chàng nho sĩ dừng lại ở quán trọ bến đò để nghỉ đêm. Một viên đội trưởng quân Minh cùng với tốp tiền vệ từ Đông Quan (Thăng Long) đến để tăng viện đã xuống đò chiều nay. Một sự xao động lớn bao trùm bến đò. Chủ quán với một nụ cười xum xoe khúm núm, lăng xăng chạy từ phòng ăn xuống nhà bếp chỗ nước dùng đang sôi, nấu mì sợi và la mắng các đứa tớ gái.
- Đồ ngu, làm gì mà chậm thế? Hắn quay về một đứa bé gái láu lỉnh gầy còm, khuôn mặt bự của hắn mà mọi dấu vết nô lệ ngọt ngào trước đó đã biến mất. - Cái Mỹ, mày ra mà phục vụ người khách vừa mới đến. Nhanh lên nào vì rõ ràng là chúng ta sẽ không giàu nổi với ông khách này.
Đứa tớ gái xin lỗi vì chỉ dành cho Nguyễn Trãi một căn phòng tồi tàn trong gian nhà phụ, nó chỉ cho chàng bình nước rồi chuồn mất.
Ban ngày trời có mưa và một ngọn gió mát đã lùa đi những đám mây cuối cùng. Những ngôi sao đầu tiên bắt đầu lấp lánh. Chàng nho sĩ nhúng một đầu khăn vào bình nước lau mặt cho mát trước khi nằm dài trên chõng tre. Từ gian nhà chính, có tiếng cười nói vang lên đến tận nơi chàng nằm.
- Ê, chủ quán, rượu đây và nhanh lên.
Đêm có trăng sáng, ánh trăng lọt vào khe của vách nứa. Tiếng tắc kè chạy dọc theo kèo nhà. Mệt mỏi, chàng thiu thiu ngủ.
Có tiếng kêu trầm trồ ở bên ngoài đánh thức chàng dậy. Đó là tiếng một tên lính nhà Minh dưới hành lang gọi bạn hắn.
- Này, Đại huynh, đến đây xem cái này mau lên!
Nguyễn Trãi dỏng tai nghe.
- Anh nhìn lên trời xem. Anh có thấy ngôi sao kia sáng hơn những ngôi sao khác không? Lúc nãy, nó vừa lướt qua bầu trời và dừng lại đằng kia bên trên các ngọn núi vùng Thanh Hóa! Ngu đệ lúc nhỏ có học chút khoa chiêm tinh nên chắc rằng ngôi sao ấy loan báo một vị minh chủ vĩ đại của nước An Nam đã xuất hiện!
- Vậy thì vị minh chủ ấy của đất An Nam như thế nào? Một giọng nói thứ hai hỏi.
Nguyễn Trãi nín thở.
- Thưa Đại huynh, người đó có dáng dấp của một con hổ khát máu, phàm ăn tục uống, các quầng sáng to màu tím xung quanh mặt trăng là dấu hiệu những biến cố quan trọng. Dù không mong có được một phần vạn tài năng của Quách Phác133. Em e rằng chúng ta sẽ rơi vào tình trạng hỗn loạn.
Nguyễn Trãi lại buông người nằm xuống. Chàng lại nhìn thấy Lê Lợi, bộ râu dính đầy máu, đang cắn xé phần thịt trâu của mình. Nhân dân tôn kính ông và kẻ thù đã bắt đầu kiêng sợ ông.
Sáng sớm, lúc đội tiền vệ và đội trưởng quân Minh còn ngủ, Nguyễn Trãi đã có mặt để trả tiền trọ. Chàng nóng lòng muốn lên đường.
Con Mỹ lúc đó đang dùng chổi tàu lá cọ quét nền trong gian nhà lớn ngổn ngang xương gà, đầu cánh vịt, xương cá, vỏ hạt dưa. Nó đem đến cho chàng một bát cơm với một vài con tôm, một bình trà rồi tiếp tục làm việc và lén quan sát chàng. Cả đời, nó chưa từng thấy những cử chỉ lịch sự, cách uống trà thanh tao như thế... Khi nghe tiếng lẻng kẻng của tiền đồng trên khay, nó vội vàng xỏ tiền vào que gỗ.
Chàng nho sĩ chưa đi quá hai mươi bước khỏi sân quán trọ đã nghe tiếng gọi chàng lại.
- Ông du khách ơi! - Mỹ chay theo sau chàng, tay còn cầm chổi - Ông đã lộn đường rồi. Con đò Gián Khẩn ở hướng này. Đi đường này ông sẽ trở lại bến đò Mỹ Tân.
- Tôi cảm ơn cô, cô bé ạ, nhưng tôi đi đến bến đò Mỹ Tân mà.
Cô bé kinh ngạc nhìn chàng đi xa dần. Chẳng phải ông ta qua đêm ở quán trọ này chính vì đã lỡ chuyến đò ngày hôm trước sao? Dù sao, nó cũng nghĩ đến việc quét phòng trước khi ông chủ thức dậy, nhưng, dù là một cô gái nhà quê như nó, người du khách xa lạ ấy cũng gây ấn tượng và làm nó xao xuyến. Nó tưởng, nó nghĩ rằng các Vua chúa nước Đại Việt ngày xưa thì cũng như ông ấy vậy!
—★—Nguyễn Trãi sau bao nỗi gian truân đã quay về lại vùng rừng núi Khả Lam và cái chòi của người em họ Trần Nguyên Hãn, được mười ngày nay.
Hãn không hỏi chàng điều gì, không trách móc và cố gắng thu xếp để chàng có dịp quan sát Lê Lợi. Bởi vì Nguyễn Trãi - làm sao mà lại có người ngoan cố đến thế, Nguyên Hãn tự nhủ - không hề từ bỏ việc thăm dò kỹ lưỡng vị minh chủ xuất thân từ đất Thanh Hóa.
Trần Nguyên Hãn ngạc nhiên thấy Nguyễn Trãi về mọi mặt là một con người xuất chúng, lúc nhỏ là một cậu bé kỳ diệu, lúc mới hai mươi tuổi đã là một bậc túc nho, đã nghiên cứu tường tận các nhà văn cổ điển và chính sử, đọc mọi loại sách và lĩnh hội hoàn toàn, là một chuyên gia về quân sự cũng như về âm nhạc, nông nghiệp, thiên văn. Các bài văn của chàng được coi là mẫu mực, thơ chàng có thể sánh với thơ của Lý Bạch và Đỗ Phủ. Nguyên Hãn ngạc nhiên vì giờ đây thấy Nguyễn Trãi theo dõi sự lui tới của Lê Lợi, cách ông này lên ngựa và ứng xử khi tập luyện, suy nghĩ về từng lời nói của ông. Trong lúc chờ đợi một lời giải đáp cho những nghi vấn của chàng, Nguyên Hãn phải kết luận rằng có cái gì gần giống như sự choáng ngợp đầy thu hút.
Trong một mức độ nào đó, Nguyễn Trãi thật ra cảm thấy đối với Lê Lợi chàng vừa thấy, như bất cứ nhà nho nào, một sự hấp dẫn, vừa bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ trước viễn cảnh một cuộc đời lỡ vận, như tâm trạng của bất cứ con người hoạt động nào và đồng thời chàng cũng phải nắm chắc được con người ấy để có thể xác quyết được sự hữu dụng của chính mình.
Nếu là người khác, chắc Nguyễn Trãi đã đuối sức trong việc theo dõi Lê Lợi, khi ông này tập múa gươm làm các đối thủ phải mệt nhoài sau mỗi đợt tấn công, hoặc nai nịt gọn gàng, chân mang đôi ủng bằng da trâu cưỡi ngựa băng qua đồi núi. Ông ấy chỉ cần hét lên một tiếng "AAH" vang dội là mọi vật đều im lặng, và về nhiều phương diện, con người phàm ăn đó xé phần thịt của mình giống như một con thú dữ với đôi môi bóng nhẫy mỡ màng cũng cư xử giống như cách ông ta ăn, giúp đỡ người này với sự hào phóng, trừng phạt kẻ khác với sự dữ tợn. Khi ông ta nói, giọng nói âm vang đến tận các thung lũng như tiếng đại hồng chung134. Khi ông ta cưỡi ngựa, ông làm cho mười con ngựa cũng mệt lử. Khi ông ta ưỡn ngực, bộ ngực vung lên như một lá chắn và khi ông ta cất một bước thì cũng bằng ba bước.
Khi nhìn thấy tấm thân ông như con cọp bất kham tiến lên phía trước, Nguyễn Trãi say sưa nghĩ "Một con mãnh thú tuyệt vời!" Nhưng gặp lúc ông ta dừng lại - dừng lại chứ không phải nghỉ ngơi vì từ "nghỉ ngơi" không thích hợp với ông - chàng lưỡng lự không dám đến gần để ông ta nhận ra mình. Một linh tính xui chàng chờ đợi và bằng lòng với việc quan sát cái khuôn mặt dù có vẻ tợn tạo vẫn không thiếu nét lôi cuốn ấy. Nước da nâu sậm, quai hàm bạnh của loài thú ăn thịt, cái trán trâu bướng bỉnh, nhưng đôi mắt ngước cao chính là đôi mắt của một người lanh trí, có thể cơ mưu, hung hãn nhưng hết lòng với cha mẹ và hòa thuận với anh em. Trong số những người theo hầu, có tù trưởng Lai còn được gọi là Vượn, Lê Thứ với lối sống khắc khổ nên được gán cho biệt danh là Vô Cầu và Lê Thạch, người em họ của ông ta được mọi người gọi là Bão Tố. Họ đi theo ông ta khắp nơi và dường như ?