← Quay lại trang sách

Chương 2

Viên Đề đốc Trình đang giám sát thầy lang chuẩn bị chén thuốc nhân sâm trong phòng chữa bệnh thì một người đầy tớ của ông báo tin một lữ khách từ phương Nam đến, mang theo một bức thư để trao cho ngài Hoàng Phúc.

Nghe tin ấy, ông Đề đốc leo lên kiệu và cho người khiêng về nha môn. Từ khi được nâng lên cái chức vụ cao này, và theo nguyên tắc, con rắn mất đầu không tài nào tiến lên được, ông ta đã dựa dẫm vào vị Bố Chính, người duy nhất được giữ nhiệm sở lâu dài ở đất Giao Chỉ. hơn bất cứ các tướng lĩnh khác chỉ chấp sự nhất thời. Như tướng Trương Phụ, vừa mới được phong làm Tổng binh đã bị gọi về triều đình Bắc Kinh tháng mười một năm Bính Thân (1416) và đã có vấn đề thay thế Trương Phụ bằng một tướng nào đó tên là Lý Bân.

Sau khi hỏi han sứ giả và đánh hơi biết một tin tức quan trọng có thể có lợi cho mình, ông ta vội vã đến điện Thiên An là nơi có cuộc họp ban sáng.

- Thế nào, Hoàng Phúc nói với ông khi nhìn thấy bộ mặt vui vẻ của ông, ông dẫn ai đến vậy?

- Một sứ giả đến từ phương Nam vừa đến trong ngày hôm nay, mang theo một bức thư cho Ngài - ông ta nói, cúi người chào thật sâu. - Kẻ hèn này nghĩ rằng phải dẫn gấp người đó đến cho Ngài.

- Cho anh ta vào!

Được lệnh truyền, các vệ binh đưa sứ giả vào. Người này bèn giập đầu xuống đất chờ.

- Người hãy nói cho ta ngươi từ đâu đến và ai sai ngươi đến?

- Kẻ nô bộc của ngài từ Thanh Hóa đến và lãnh trách nhiệm trao cho ngài, bức thư của tướng quân Mã Kỳ.

Hắn cung kính dâng thư bằng hai tay.

Hoàng Phúc xem xét dấu triện trước khi đập vỡ. Quả thật đó là bức thư của tưởng Mã Kỳ, tổng trấn Tây Đô. Phúc bắt đầu đọc:

"Tướng quân Mã Kỳ, Tổng trấn Tây Đô, cung kính và vinh dự được dâng thư này cho Ngài.

Vừa qua, hạ quan được đặc ân biết được nhiều sự kiện mà nếu chúng ta không đề phòng có thể đe dọa dân chúng và trị an đã được thiết lập ở vùng đất này.

Vậy dám xin ngài vui lòng lắng nghe từ miệng của người sứ giả đáng tin cậy những chi tiết của câu chuyện làm hạ quan băn khoăn và ngài bằng trí minh mẫn của mình xem xét nó đặng nhổ tận gốc mọi nguy cơ gây lên tai hoạ cho xứ sở này. Vân vân..."

Tiếp theo đó là những câu thăm hỏi như thường lệ.

Hoàng Phúc đưa ánh mắt xuống con người đang phủ phục dưới chân mình. Tên gián điệp được nói đến như người ta thường ví, có đôi mắt ong bầu và dáng vẻ của loài rắn, không gây được sự tin tưởng.

Hai hàng quan lại, quan võ bên trái, quan văn bên phải, các sĩ quan của điện Thiên An, những người hầu cận và thị thần cũng như những người mang nghi trượng, mọi người xôn xao, tò mò muốn biết con người có bề ngoài rất tầm thường này sẽ tiết lộ những gì?

- Ngồi lên và nói đi. Ta đang nghe nhà ngươi, Hoàng Phúc nói.

Tên sứ giả không dám tuân theo, hắn quỳ gối, kể lại câu chuyện như sau:

- Tổ tiên của nô bộc này sinh ở Quảng Tây, còn chính kẻ nô bộc này sinh ở làng Tây Giai, phủ Quang Hòa gần thành Tây Đô. Ở đó, tôi đành phải sống với nghề bán dầu sau nhiều phen thất bại ở các kỳ thi được tổ chức ba năm một khóa. Do sự may mắn của số mệnh, tôi đã được đưa vào làm gián điệp lúc đầu trong rừng núi Khả Lam, kế đó ở Lũng Nhai, nhờ thế được chứng kiến những thủ đoạn của một tên Lê Lợi nào đó vì sau một vụ kiện cáo ở huyện với Đỗ Phủ, hắn đã xây dựng sào huyệt ở giữa nơi có nhiều hang động trong vùng. Kẻ nô tỳ này lúc còn nhỏ đã học được tiếng của dân Mường man rợ và nhờ giao dịch buôn bán nên không gặp khó khăn gì thu thập tin tức từ chúng mà chúng không hay biết. Nhờ thế, sau khi biết được mật hiệu cũng như bài ca liên minh, tôi đã len lỏi vào một trong những đạo quân tiếp tế qua lại băng rừng vượt núi mà không làm cho ai nghi ngờ. Có một lần, ngay tại vùng rừng núi ấy, tôi đã ghi nhận được, ngoài những môn hạ của hắn có hơn một ngàn người, tên cướp có đất đai được phong không ngừng tiếp đón những người đào tẩu, mời mọc những kẻ có trình độ kiến thức hầu quy tụ những người dũng cảm dấy lên một cuộc khởi loạn to lớn. Những người từ Nghệ An, Kinh Lộ, Tam Giang, Thái Nguyên và từ nhiều nơi khác đến đã tập hợp xung quanh hắn tại sào huyệt của hắn. Trong số đó có những người thuộc hàng quý tộc, nhà nho, thổ ti136 và có cả nông dân và nô bộc. Cũng vì muốn nắm những tin tức này và thắc mắc về số lượng dầu lớn mà tôi phải cung cấp cho bọn giặc cỏ, lại lo lắng muốn biết khi nào chúng định bắt đầu hành động nên kẻ nô tỳ này quyết định theo chúng di chuyển về Lũng Nhai trong bộ y phục hóa trang thành người miền núi...

Tên sứ giả ngừng lại và mạnh dạn đưa mắt nhìn quanh, một lượt để tìm một bản đồ đất Giao Chỉ, sau cùng hắn thú nhận mình cần bản đồ. Trong chốc lát, người ta trải một tấm bản đồ được vẽ trong thời kỳ tướng Tổng binh Trương Phụ cầm quân chinh phạt. Tên gián điệp đưa đầu cành tre ở tay chỉ vào địa điểm Lũng Nhai trên bản đồ và nói tiếp:

- Lũng Nhai ở đây rất gần vùng đất Lam Sơn, đất được phong của tên cướp Lê Lợi. Vào tháng mười, sương mù nhớp nháp quyện thành những khối dày, đến nỗi người ta khó mà phân biệt người đi trước mình và cái lạnh thấu xương. Sau khi đã băng qua nhiều hẻm núi, đoàn người cẩn thận phân tán mỏng để rồi tập hợp lại trong hẻm núi sâu, một bên là núi thẳng đứng, một bên là đồi chơ vơ vài mái tranh với những thửa ruộng đã gặt hái. Lệnh truyền dựng trại được ban ra trong lúc những người lính gác canh giữ những đỉnh núi cao xung quanh, còn Lê Lợi và các người thân cận vào ở nhà dân. Nhiều ngày trôi qua mà không ai hiểu lý do tại sao bọn chúng có mặt ở đây, và kẻ nô bộc này đã dùng thời gian đó để ghi chép đường lối vào, ra khu vực phụ cận nơi đang đóng trại và quan sát những người có mặt ở đó. Mọi người, ngoài những tài năng đặc biệt, được huấn luyện sử dụng vũ khí và đi thuyền. Riêng tên giặc Lê Lợi đó, hắn không chỉ to, khoẻ, có tiếng nói như sấm mà còn có những tài năng đáng ngại: hắn sử đụng gươm giáo rất giỏi và trong lúc chiến đấu, hạ mười địch thủ như chơi.

Nghe kể tới đây, Bố Chính Hoàng Phúc tỏ dấu hiệu nóng nảy. Ông sắp la to: "Đừng nói vòng vo mà hãy đi vào sự kiện". Nhưng khi nhìn về các quan võ, ông tự kiềm lại. Họ gật gù đầu, lúc nào cũng muốn nghe thật nhiều chi tiết, như ngay từ bây giờ họ đã lập kế hoạch để mở chiến dịch tấn công.

- Vậy đó - tên sứ giả nói tiếp - tôi còn đang theo dõi căn nhà tranh, ở đó Lê Lợi và những người của ông ta trao đổi bàn bạc thì một buổi sáng, lúc gà gáy, trong hẻm núi và sườn đồi thình lình có tiếng quân tập họp. Trời còn mờ đất, người ta đã nghe thấy tiếng ngựa giậm chân hí vang, tiếng nhạc ngựa kêu lách cách và tiếng vũ khí lẻng kẻng. Các mệnh lệnh được loan truyền tới tấp. Tuy nhiên không hề có sự hoảng loạn của một đạo quân đụng độ thình lình với quân của triều đình, cũng không có hiệu lệnh sắp sửa xuất quân. Tôi chưa biết tính sao thì đã thấy một đoàn kỵ binh và bộ binh xếp thành hàng ngũ trước căn nhà tranh của Lê Lợi, nhấp nhô trong sương mù buổi sáng như từ đâu hiện đến. Có tổng cộng một ngàn năm trăm người đang chờ đợi trong gió lạnh ban mai. Đúng lúc đó, thủ lĩnh bọn loạn quân từ trên nhà bước xuống cầu thang, theo sau là các tên tùy tùng của hắn. Người nô tỳ của các ông đếm đúng mười tám người. Với giọng rền như tiếng trống, hắn nói với họ như sau:

"Hỡi các bạn! Tất cả các bạn đến từ mọi miền đất nước về tập họp ở Lũng Nhai này, hãy lắng nghe! Vào ngày lành hôm nay, 12 tháng mười năm Bính Thân (1416), ta, Lê Lợi với tư cách là thủ lĩnh trong vùng cùng với các vị hào kiệt có tên sau đây: Lê Thạch, Lê Sát, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Phạm Văn Xảo, Trần Nguyên Hãn, Lê Lai, Lê Hiểm, Nguyễn Chích, Trịnh Khả, Trương Chiến, Lưu Nhân Chú, Lê Ngân, Mộng Tuấn, Lý Tử Tấn, Lê Lý, Khuyên" - rồi hắn nắm tay một nhà nho có đôi mắt dài như mắt phượng để chỉ cho mọi người - "và Đình Nguyên Nguyễn Trãi."

"Chúng ta thề kết nghĩa anh em và cho dù cuộc đời và quê quán có khác nhau vẫn coi nhau như những cành của cùng một cây, nguyện cùng nhau sống chết!"

"Trước mặt tất cả các bạn, có sự chứng giám của Trời Đất, của các thần linh, không kể thứ bậc, chúng tôi long trọng thề chung thủy với nhau để dưới lá cờ đại nghĩa đồng tâm hiệp lực tiêu diệt bọn kình ngư nhà Minh, bảo đảm sự an toàn và cuộc sống thanh bình cho thôn xóm, và với sự trợ giúp của các bạn, chúng tôi thực hiện công trình của lòng nhân ái và sự công bình."

"Nếu ta, Lê Lợi và mười tám chiến hữu của ta mà quên đại nghĩa chung và tìm lợi riêng thì chúng tôi là những kẻ bội thề, chúng tôi xin Trời Đất và chư vị thần linh gieo xuống muôn tai họa trên chúng tôi, gia đình chúng tôi và con cháu chúng tôi cho đến mười đời theo đúng luật Trời!"

"Đem văn bản đến đây! "

Lê Lợi ấn bút ký vào đó, kế đó các tên bạn của hắn cũng ký. Rồi họ gắn bó với lời thề bằng việc uống máu một con bạch mã. Sau đó, mọi người trong đoàn quân đến trước mặt họ, cúi đầu chào theo nghi thức, trong lúc người ta mổ trâu, làm thịt heo và gà vịt để tế lễ một cách xứng đáng với hội thề đặc biệt này. Đấy là điều mà kẻ ngu hèn này đã thấy và nghe, và theo lệnh của ngài tướng công Mã Kỳ, dám được báo cáo cho Đại nhân.

Hắn quỳ mọp dưới chân bục ghế và khi được lệnh của Bố Chính, hắn thụt lùi đi ra.

- Thế nào? - Bố Chính nói với các quan võ, sau khi nghe câu chuyện, các vị có ý kiến gì không?

Câu hỏi vừa mới đưa ra, một người trong bọn đã quỳ gối tuyên bố:

- Nếu kẻ thuộc hạ ngu muội này có thể có ý kiến, thì xin thưa với ngài rằng dù bọn chúng có ký vạn lời thề liên minh và trở nên chiến hữu, chúng cũng chỉ là vài trăm tên đầu óc bốc đồng, một mớ tạp nhạp những kẻ phạm pháp, những kẻ lang hồ kỳ bạt, những kẻ trốn tránh trong núi. Binh sĩ của chúng ta đã từng đè bẹp cả những đạo quân lớn sẽ tiêu diệt chúng không khó khăn gì như chẻ tre!

Một quan võ thứ hai bước ra khỏi hàng.

- Ngài tướng quân Mã Kỳ dù là một dũng tướng không bao giờ hành động vội vã, nhưng trong trường hợp này sự lo lắng của ngài quả là không đáng! Thành Tây Đô có sẵn một đội quân phòng ngự mạnh mẽ đủ sức vào tận rừng sâu nhổ đám cỏ dại đó tận gốc. Quân dã man bỉ ổi đó, bọn răng đen đó có đáng cho người ta lo âu không? Xin cứ trao cho tôi quyền chỉ huy và dù tài hèn, tôi nguyện quét sạch bọn chúng chỉ trong một ngày.

Vị quan võ trình diện sau đó đã từng tham dự vào cuộc đánh bắt người miêu duệ137 cuối cùng của nhà Trần và chân ông hơi bị tật khập khiễng từ chiến dịch đó.

- Kẻ bề tôi này dưới quyền của ngài Tổng binh Trương Phụ đã chiến đấu ở miền Nam và biết qua thực địa. Bọn giặc cỏ ấy trong vùng đồi núi đó sống thoải mái như trong nhà riêng của chúng. Chúng quen thuộc mỗi con đường, mỗi hang động và đường ngầm. Nếu chúng ta quá tin tưởng vào ưu thế trội hơn hẳn của mình để ào ạt tiến sâu vào những vùng đất mà mỗi bước tiến lên rất mệt nhọc, gặp nhiều trở ngại hoặc lao vào những hẻm núi làm mồi cho các ổ phục kích, tóm lại, theo ý tôi đi vào các vùng hiểm trở ấy sẽ phung phí nhiều lực lượng và sinh mạng để rồi mất trắng, chính là để cho kẻ thù có thêm cơ hội trở thành một tai họa thật sự trong tương lai. Xin ngài hạ cố xem xét gợi ý sau đây: Tôn Tử138 nói: "Không nên chiến đấu trên những vùng cao khi việc tiến quân vào các vùng cao đó không cần thiết. Nhất là đừng bao giờ đi đến các vùng cao để tìm kiếm kẻ thù", do đó cần phải tôn trọng nguyên tắc đó và trong trường hợp này nên áp dụng nguyên tắc sau đây: "Nếu quân số của bạn mạnh gấp mười lần kẻ thù, bạn hãy bao vây chúng từ mọi phía, không để cho chúng có được một con đường trống đến nỗi chúng không hề trốn đi đóng quân chỗ khác, hoặc nhận được bất cứ sự cứu viện nào". Với các đạo quân gửi đến tăng viện cho quân đồn trú ở Tây Đô, chúng ta sẽ bao vây quanh núi, chiếm các thung lũng màu mỡ, khóa chặt kẻ thù trong sào huyệt của chúng cho đến khi mệt mỏi vì phải ăn rễ cây, chúng cố sức mở một lối ra đồng bằng, lúc đó chẳng cần nhiều quân cũng tiêu diệt được chúng dễ như trở bàn tay.

Các vị võ quan đều đồng thanh tán thưởng.

- Đấy là điều hoàn toàn thích hợp và trùng ý kiến của ta.

Viên Bố Chính đáp lại với giọng điệu như một ông vua làm cho Đề đốc Trịnh mỉm cười. Tuy nhiên, ông ta nói thêm với vẻ tiếc nuối, chúng ta không thể đưa dự án đó ra thực hiện mà lại không tham khảo triều đình Bắc Kinh trước. Chúng ta hãy phái ngay một sứ giả đến Bắc Kinh.

Và buổi hội kiến kết thúc.

- Xin ngài hạ cố nghe lời kháng nghị của tôi. - Đề đốc Trịnh hạ thấp giọng nói khi mọi người đã lui về - Đấy chẳng phải là một công việc nội bộ của đất Giao Chỉ và chỉ thuộc phạm vi của chính quyền ở đây sao? Hạ quan rất e ngại rằng ở Bắc Kinh, lấy cớ sự đe dọa của loạn quân còn mơ hồ, để rồi kéo dài ra hoặc chần chừ gửi các đạo quân qua và điều này sẽ để cho những tên cướp ấy ở đất Thanh Hóa có thời giờ khởi động. Như thế Trời cho ngài biết được âm mưu của những kẻ phản nghịch theo chân Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng chẳng ích gì nếu ngài không dùng yếu tố bất ngờ để nắm lợi thế! Kẻ bề tôi bất xứng của ngài nói vậy có đúng không?

Viên Bố Chính thở dài. Từ vài tuần nay, ông cảm thấy một cảm giác mệt mỏi nhất là buổi sáng khi thức dậy. Ông hấp tấp quay về những căn phòng riêng dành cho mình trong Cấm Thành. Vả lại, ông không phải không biết gì về mối thù hằn của Trịnh đối với Nguyễn Trãi.

- Dĩ nhiên, ông đáp, đó là một trong những nguyên tắc chiến tranh139: "kẻ thù muốn bất ngờ tấn công ta, chính ta hãy bất ngờ tấn công chúng". Nhưng hiện nay, chúng ta trách cứ họ đã có hành động gì để biện minh cho một cuộc đàn áp? Ông đã nói đó, hiện tại chỉ mỗi là một sự đe dọa mơ hồ, có gì làm chúng ta phải lo ngại? Chẳng bao lâu nữa, triều đình ở Bắc Kinh sẽ cử một vị tổng trấn quân đội mới ở Giao Chỉ. Nếu ta giải quyết một vấn đề mà nó chỉ thuộc phạm vi của ông ấy mà thôi tức là liều mình vi phạm nặng nề các đặc nhiệm của ông ấy là bảo vệ danh vị của Hoàng đế, giám sát các vùng mới chiếm cứ và tiêu diệt các kẻ thù của Thiên tử. Ta không thể chấp thuận việc bỏ qua nguyên tắc đó. Vậy ông hãy trả tên sứ giả về cho tướng công Mã Kỳ cùng với một vài gián điệp giỏi nhất của chúng ta được gài vào trong hàng ngũ của kẻ thù như là tai mắt của chúng ta và chờ quyết định của Bắc Kinh. Giờ đây xin ông vui lòng về nghỉ.

Đề đốc Trịnh không thể không nhận thấy mồ hôi đã nhỏ giọt trên trán của ngài Bố Chính, vẻ mặt của ông mệt mỏi. Nên trước khi về nghỉ, ông ta vội vàng nói thêm:

- Những lo lắng về trách nhiệm của ngài làm ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của ngài. Ngọc thể của ngài quý giá, hạ quan xin ngài nên bảo trọng. Bề tôi của ngài đã cho thầy thuốc chuẩn bị một món thuốc nhằm điều hòa dương khí lúc người ta đến báo cho kẻ thuộc hạ biết có viên sứ giả đến. Thuốc này uống xong mấy thang đã cho những kết quả kỳ diệu. Sau khi uống thang đầu tiên người bệnh cảm thấy mát mẻ và sảng khoái, sau ba thang bệnh giảm ba bốn phần, tới thang thứ năm bệnh giảm tám phần. Xin đại nhân hạ cố chấp nhận để thuộc cấp sai đem thuốc ngay tức thì cho ngài. Chỉ xin ngài coi sự nài nỉ này như xuất phát từ lòng nhiệt thành muốn phục vụ ngài và lòng biết ơn ngài về tất cả những ân huệ mà ngài đã ban cho!

- Được rồi - Hoàng Phúc nói - không phải vì tin thuốc công hiệu nhưng vì vội vã muốn tránh khỏi kẻ quấy rầy ông.

Xong đâu đó, ông cho người cáng ông về với con voi Vijaya. Cho dù mệt mỏi, ông cũng tuân giữ nghi thức trong buổi sáng này, chỉ với mục đích muốn giảm thiểu nỗi bực dọc của con thú da dày ấy vì nó vừa mới hồi phục sau một cơn khủng hoảng tính khí và trở nên cáu kỉnh.

Viên Bố Chính không xao nhãng việc chăm sóc nó, trái lại là đằng khác. Tranh thủ việc Tổng binh Trương Phụ vội vàng quay về Trung Quốc giao quyền bính cao nhất ở đất Giao Chỉ vào tay ông, ông đã bố trí ngay cho người bạn khổng lồ một công viên rộng. Vườn này có những ngọn đồi nhân tạo, một hồ nước để voi tắm mỗi ngày và những lùm tre dày rậm. "Khuôn viên của sức mạnh vô địch" đem lại cho một con vật biết tưởng tượng như Vijaya ảo tưởng về một cuộc sống hoang dã mà ngày xưa nó đã sống trong vùng rừng rậm nơi nó sinh ra. Một tòa nhà rộng hơn tòa nhà phía trước, ghép vào nhau được giao cho một toán hoạn quan chọn lựa kỹ càng và một nhóm nhạc công bởi vì con vật mà ông thường thích tâm sự rất khoái nghe dạo nhạc. Nó thường lắc lư theo nhạc đệm đều đặn với nhịp trống và tiếng sáo du dương. Đưa con voi Vijaya vào nơi ở mới vào một ngày tốt mà nhà chiêm tinh của hoàng cung đã chọn là dịp để người ta vui chơi yến tiệc, hòa nhạc, nhảy múa không thiếu thứ gì. Một bài văn đả kích được truyền tụng ở Đông Quan140 về việc này nhưng ông chẳng chút quan tâm.

Mặc dù mọi sáng kiến do tình bạn dịu dàng nhất gợi ý, đột nhiên, như một đám mây mờ che khuất mặt trăng, chú voi đánh mất tính tình dễ thương và cung cách lịch thiệp. Nó lại đi phun nước vào người nào đi ngang nó hay nhặt đá ném các gia nhân trong vườn và một vài người đã chết. Tóm lại nó chứng tỏ mình bất kham với quản tượng và bực dọc với chính chủ nó. Ông này cứ việc mơn trớn ve vuốt ngàn cách cũng vô ích. Khi thì ông cho nó đường, khi thì rượu a-rắc, Vijaya mắt cứ lườm lườm, trán cứ cáu kỉnh, vẫn ì ra vo tròn mình lại.

Và viên Bố Chính trải qua những đêm mất ngủ, đó là dấu hiệu rằng điều may mắn đã bỏ rơi ông! Từ khi con Vijaya đến đất Đông Quan, mọi việc đều mỉm cười với ông. Trương Phụ, người mà ông chịu hết nổi, sau cùng đã trở về Tàu. Sự nâng đỡ và cảm tình mà Đức bà Hoàng thái hậu dành cho ông tăng lên theo những món quà xa xỉ mà ông đã gửi biếu bà. Từ đó nước này sống trong cảnh thái bình và vì không có một viên tổng trấn nên các quan võ thừa nhận quyền uy độc nhất của ông. Cuộc sống của ông về mọi mặt đâu thua gì cuộc sống của đấng Thiên Tử và hơn thế nữa ông còn chiếm được tình yêu của một mỹ nhân có sắc đẹp khuynh thành. Cho tới nay, mọi việc đều đồng nhất chỉ ra rằng, qua chú voi Vijaya, ông được mệnh trời giao cho việc trị vì đất Giao Chỉ! Giờ đây chú voi ấy lúc nào cũng khinh khỉnh, điều gì sẽ xảy đến với ông? Làm cách nào để nguôi cơn giận của đấng Hoàng thiên? Phải dùng đến mưu lược gì đây?

Thượng thư gần như tuyệt vọng khi ông phải thừa nhận - như một tiếng sét từ trời xanh - rằng tính tình cáu kỉnh tồi tệ của con Vijaya trầm trọng thêm đúng vào cái ngày ông giới thiệu nàng Hương Thầm với nó. "Nó ghen!" ông thốt lên lòng vơi nhẹ. Con Vijaya phải sung sướng trở lại, hạnh phúc của ông tùy thuộc vào hạnh phúc của nó. Mong sao chỉ có vậy mà thôi! Ngay sau đó, ông dò hỏi để tìm cho nó hai con voi cái tuyệt đẹp. Nhưng mặc cho những lời mời gọi tưởng như không cưỡng được của ái tình, con bạch tượng dửng dưng với hai cô bạn gái. Nó bị bệnh sao? Hoàng Phúc vội vàng kêu thầy thuốc của ông ta đến, chẳng ăn thua gì. Người ta đã chẳng nói rằng các giống vật này vẫn giữ được sự điều độ cả trong lúc đam mê đó sao? Vì vậy người ta cứ để cho các con voi cái động đực ấy nô đùa trong công viên trong lúc chờ đợi con Vijaya nổi hứng. Nhưng khi con Vijaya vừa mới hưởng được chút thỏa mãn sơ sơ, nó liền đuổi cả hai nàng voi ra khỏi "Khuôn viên của sức mạnh vô địch".

- Mày có lý đấy - ngày hôm sau Hoàng Phúc thì thầm vào tai con bạch tượng - những con voi cái đó thật nguy hiểm, giao du với chúng có khác gì cưỡi ngựa chạy nước đại lại mang dây cương sắp đứt! Khi chúng ta để dành tinh dịch, chúng ta đang bảo vệ chính sự sống của chúng ta.

Vijaya rùng mình, con mắt đen của nó sáng lên vẻ tinh nghịch. Khi vuốt ve cái vòi của nó, ông muốn cho nó hiểu rằng ông đã quên sự cố hôm qua. Trong trường hợp này, làm sao Thượng thư có thể vắng mặt để xúc phạm đến tình thân ái cao quý giữa họ vừa mới tìm lại được?

Nhân danh tình thân ái ấy mà từ nay ông không thể đến với con bạch tượng Vijaya, nếu trước đó ông chưa tắm gội sạch sẽ, thay đổi quần áo và xua đuổi những kỷ niệm của người phụ nữ đã từng đe dọa nặng nề sự hài hòa trong mối thâm giao của họ.

Khi người quản tượng và các gia nhân rút lui, viên Bố Chính kể lại cho Vijaya nghe sự xuất hiện bất ngờ của tên gián điệp của tướng Mã Kỳ giữa buổi họp ban sáng, lời thề kết nghĩa ở Lũng Nhai và phản ứng của các quan, không sợ bị xét đoán nên ông không bó buộc phải giả vờ và có thể lớn tiếng bày tỏ điều ông cảm thấy trong chín khúc ruột của lòng ông.

- Này ông bạn to lớn, các ông quan võ ấy ngu ngốc như con la cái, dễ nổi nóng như đống củi khô. Ý nghĩ đánh nhau đủ để cho bọn ấy ngứa ngáy chân tay, ông vừa nói vừa đút mía cho voi. Nếu ta nghe lời chúng thì ngay ngày mai, chúng sẽ tràn vào Thanh Hóa mà chúng chưa biết gì để phát động cuộc chiến và làm cho Trương Phụ, con một con đĩ từ Trung Quốc, kéo sang. Điều mà ta không hề muốn, ngươi có biết không?

Vijaya lịch sự ngừng nhai và ngước đầu có vẻ lắng nghe.

- Nhưng - ông nói tiếp vẻ mặt ưu tư - trong nhất thời, ta đã cầm giữ được họ, nhưng ta rất e ngại chẳng mấy chốc mối nguy hiểm sẽ từ vùng rừng núi Lam Sơn làm cả xứ sở này sôi sục. Có một sự trùng hợp của các dấu hiệu làm ta lo ngại. Trước hết, đó là lời cảnh cáo mà tên tướng Mã Kỳ huênh hoang đưa ra từ Thanh Hóa, nói nhỏ với nhau giữa chúng ta thôi! Cái tên Mã Kỳ ấy làm gì có khả năng bảo vệ một vị trí chiến lược quan trọng như thế! Rồi sự xuất hiện lạ lùng của các ngôi sao hội tụ nhau mà Khâm Thiên giám đã quan sát được trên đất Thanh Hóa, điềm báo trước những tai họa lớn trong nước. Và sau cùng, tiếng tăm lớn dần của Lê Lợi. Vả lại hắn có hành động gì chói chang trong thành tích của hắn chứ, ngươi nói ta nghe coi?

Đôi tai to lớn của Vijaya động đậy từ trước ra sau.

- Ngươi đã nói: không gì cả hả? - Ông kêu lên - Thôi đi! Hắn chỉ là một anh nhà quê đã có lúc tỏ ra nhún nhường với chúng ta để giữ đất được phong cho và trở thành một ông quan ở địa phương. Và rồi tên phản bội ấy đã trả ơn lòng khoan dung của chúng ta bằng việc xúi giục làm loạn và lôi kéo về vùng núi non ấy những con người đâu phải là những kẻ tạp nham, bắt đầu là nhà nho kiết xác Nguyễn Trãi! À, Vijaya ơi, ông ta nói với người bạn thân đang dùng vòi cố gắng trấn an ông, phải nói rằng tên Nguyễn Trãi ấy biết cách đánh lừa ta dưới bộ mặt của một ông quan liêm khiết, với lý tưởng thanh bần, ẩn dật sợ đương đầu với sóng gió chốn quan trường và với bao lời lếu láo khác. Một cách kín đáo, hắn đã mưu định kế hoạch và trong lúc đứa tớ gái của hắn lớn tiếng kêu than hắn sắp chết, hắn đã chuồn về phương Nam. Mà để làm gì chứ? Để nhập bọn với tên giặc cỏ thô lỗ và tàn bạo, để đàn đúm với bọn ăn cướp khi mà chúng ta đã rộng lượng đề nghị cho hắn một chân trong ngành giáo dục! Ai đời lại chuộng man rợ hơn sức cảm hóa của văn minh. Một tên mọi rợ - ông tức giận rít lên - lại được trọng hơn vương triều Trung Quốc! Nếu Trương Phụ biết được chuyện này, thì tên chó sói ấy sẽ mừng quýnh và đem ta ra bêu riếu, làm cho cả triều đình Bắc Kinh phải cười bò. Tại sao mình lại cho rằng hắn sai lầm? Này nhé - ông ta nói với Vijaya đang trìu mến đưa đôi mắt ái ngại nhìn ông - lẽ ra ta phải dùng sức mạnh đối với tên Nguyễn Trãi ấy thay vì thuyết phục hắn và để cho Trương Phụ xử tử hắn hoặc nghe theo Trịnh chỉ muốn cho Nguyễn Trãi phải chết rũ ở trong tù. Nếu số mệnh ta có được một phần may mắn, ta phải trừ khử tên Nguyễn Trãi ấy đi thay vì cố gắng lôi kéo hắn theo ta một cách vô ích. Thế nhưng ta vẫn còn tiếc rẻ hắn ta! Nhưng giờ đây có bực tức cũng vô ích!

Ông lại gọi các gia nhân đến để dặn dò. Họ nhận những lời dặn dò với nụ cười nhẹ nhàng của những người biết kiên nhẫn tự giới hạn trong việc truyền giao mệnh lệnh cho đến khi các mệnh lệnh này biến mất trong vô số những người trung gian. Không biết rằng ở xứ này mọi mệnh lệnh không có tác dụng và coi như không có, nên ông hài lòng tạm biệt con vật thân thương với tâm hồn thư thái.

Trở về Cấm Thành, ông vội vàng cởi bỏ bộ lễ phục nặng nề cùng các thứ phù hiệu và đi thẳng đến phòng cô ái thiếp. Nhìn thấy ông, các bà hầu phòng đứng dưới hành lang vội vàng vén bức rèm cửa của phòng đợi.

Có con nhài Sương Núi ở bên cạnh, nàng Hương Thầm vừa đánh đàn tranh, vừa hát. Nàng chỉ mặc một cái quần hồng và một áo cánh tinh quái để hở trên chiếc yếm màu xanh lá hành cột lỏng tay. Cúi người trên đàn tranh với vẻ chăm chú của một cô thiếu nữ và mặc dù đã hăm ba tuổi, người ta phải cho rằng nàng mới độ tuổi cài trâm. Hoàng Phúc đến ngồi kề bên nàng trên chiếc giường bằng gạch, cảm thấy toàn thân bủn rủn.

- Thưa Tướng công, Tướng công mạnh khỏe không? Thiếp đợi chàng muốn chết đi được! - Nàng cầm tách trà mà con hầu mang lại và đưa hai tay dâng lên cho ngài - Tiểu thiếp cứ ngỡ rằng mình không đáng để tướng công quan tâm hơn ngọn gió trong tàu ngựa.

- Thế mà ta thì lại ước ao được nghỉ ngơi trong bóng mát của nhan sắc nàng.

Nàng nở một nụ cười rạng rỡ.

- Chẳng phải vừa rồi chúa công đã đến nơi của kẻ tình địch đáng sợ nhất của thiếp sao? Chẳng phải chúa công đã được hắn nâng đỡ, an ủi nhiều đến nỗi không gì còn làm cho chúa công bận tâm nữa sao?

Lần này đến lượt viên Bố Chính cười.

- Tiểu muội ơi, muội có giống như những cô nàng phải giấm không đấy? Muội thiếu tự tin vào giá trị vô song của muội rồi sao?

- Đúng vậy, Tướng công cứ việc chế giễu! Nàng đưa mắt nhìn quan Bố Chính và quay về phía con nhài đang tiếp tục công việc thêu thùa:

- Em bảo các bà hầu phòng đang nói huyên thuyên ở ngoài kia đem rượu a-rắc mà hôm kia có người đem biếu và cho hâm nóng để tướng công dùng.

Dựa lưng vào đầu giường, viên Bố Chính lắng tai nghe nàng dạo một vài điệu nhạc cổ. Ông đã uống cạn nhiều chén rượu a-rắc tuyệt hảo và tâm hồn ông nhẹ nhàng, tinh thần ông sảng khoái hoàn toàn, bao nhiêu mệt mỏi như tung cánh bay đi. Ông chiêm ngưỡng da thịt của nàng trắng muốt như mỡ lợn lộ ra sau chiếc yếm, dáng người nàng thanh tao như xấp lụa và ông cảm thấy sự nồng cháy của tuổi thanh xuân trỗi dậy. Trong ước muốn mãnh liệt giao hợp với nàng, ông tìm trong chín tư thế dùng để nuôi dưỡng cường lực của nam giới, tư thế nào ông sẽ áp dụng khi mà cơ hội sẽ cho phép họ ở riêng trong khuê phòng. Phải chăng là tư thế rồng lộn? Chân cọp, Rùa leo hay tư thế thỏ ngậm lông? Tư thế nào cũng được miễn là động tác đột nhập phải chính xác và không làm xuất tinh để bảo đảm cho ông mau lại sức, thận, mông, đùi được mạnh mẽ và chất tủy tăng thêm! Chẳng phải điều đó thâu gồm đủ mọi thứ khoái lạc lớn lao sao? Nghĩ đến đây, ông càng thêm khích động như một con chuột cống đói mồi. Bao giờ mới đến lúc nàng phải kêu lên với ông: "Ôi, chàng làm thiếp chết! Ôi, thiếp chết! Ôi, chàng giết thiếp". Vì Hương Thầm vẫn tiếp tục chơi đàn không biểu lộ dấu hiệu của một người phụ nữ đang thèm khát, ông phải nén lại mọi cử chỉ hấp tấp.

- Lúc nãy, khi ta mới vào, ta đã nghe nàng hát. Bài hát gì thế?

Hai má nàng đã ửng hồng vì rượu a-rắc, lại càng đỏ thêm, sự bối rối làm cho khuôn mặt xinh đẹp tô phấn của nàng càng khiến lòng người thêm mê mẩn.

- Ô, nói về chuyện ấy, chỉ phí nước bọt của Tướng công thôi!

- Nhưng thế nào nhỉ?

- Thiếp chỉ loay hoay soạn một vài câu thơ ca tụng con rùa khổng lồ mà người ta nói vừa mới xuất hiện trong hồ Lục Thủy...

- Lại còn chuyện bép xép gì thế? Và làm thế nào mà câu chuyện ấy chưa đến tai ta?

Trước vẻ bất bình thấy rõ của ông, nàng không dám nói tiếp ông ra hiệu cho nàng tiếp tục.

- Thưa Tướng công, có nhiều câu chuyện không bao giờ đến tai ngài đó là điều may mắn bởi vì không đáng loan truyền những chuyện ngu ngốc có rất nhiều bên ngoài bức tường này. Thường thì đó là những câu chuyện tầm phào vớ vẩn hay bịa đặt không có cơ sở. Nhưng về chuyện con rùa này, có nhiều nhân chứng đã trông thấy. Sáng hôm đó, người đầu tiên thấy nó là nhà sư từ chùa Báo Thiên đi ra. Ban đầu cứ ngỡ đây là ánh sáng phán chiếu của bảo tháp trên mặt hồ. Nhưng khi sư thấy ánh sáng phản chiếu trồi lên mặt nước như đáy thuyền úp ngược, sư mới biết đó là một điều huyền bí và đến gần hơn để nhìn cho rõ. Những cái vảy chói sáng hơn đom đóm, người ta dám nói rằng chúng bằng ngọc thạch gắn vàng dày cộm. Các vảy đó là mai của một con rùa khổng lồ từ dưới nước sâu nổi lên. Xin ngài tướng tượng một cái lưng màu vàng và xanh lục thật lớn với những cái vảy to và rộng hơn lá chuối. Sau đó nhiều người đã xác nhận như thế. Một số người còn cho rằng đó là con kim quy nổi tiếng mà ngày xưa Long Quân, vua Thủy Tề đã gửi đến cho An Dương Vương, một vị vua thượng cổ của chúng em để chuẩn nhận mọi ước muốn của nhà vua. Kẻ khác lại nói rằng con vật linh thiêng ấy biết mọi bí mật của Trời, Đất, của sự sống, sự chết của các thần thánh, báo trước các biến cố lớn lao sẽ xảy đến và...

- Ai đã đem những chuyện nhảm nhí như thế vào tận chốn này để nói tùm lum? Ai? Để ta cho đánh nó chết? - Ngũ tạng của ông chợt buốt lạnh. - Còn nàng bình thường là người biết suy xét, sao lại đi tin những câu chuyện đơm đặt của những con lừa trọc đầu?141

Từ ngày thái giám Du đặt nàng vào giường của viên Bố Chính, chưa bao giờ nàng nói hay làm điều gì cho ông tức giận. Là một phụ nữ dày kinh nghiệm, nàng không che giấu sự bối rối của mình và trái lại còn cố sức tỏ ra bối rối quá đáng. Trong nháy mắt, nước mắt nàng trào ra như những hạt châu tuôn rơi từ vòng chuỗi đứt, chân tay nàng run rẩy vì sợ hãi, nàng nức nở nghẹn ngào và nửa mê nửa tỉnh, nàng quỵ xuống như một chiếc áo rơi xuống đất.

Hoàng Phúc khi nghe những lời như thế cảm thấy ngọn lửa dục vọng trong lòng biến thành băng hà giờ đây lập tức bị đảo lộn. Ông quên hết mọi điềm báo bất thường, từ các tinh tú cho đến con rùa vàng. Ông chạy đến cứu nàng, đặt nàng nằm trên giường gạch với sự phụ giúp của Sương Núi, quạt cho nàng với chính cái quạt của mình cho tới lúc nàng mở đôi mắt dài đắm chìm trong sương mù và buông ra một tiếng thở dài không kém khêu gợi:

- Ta không muốn hành hạ khách má hồng như thế đâu, ông nói. Tiểu muội của lòng ta, nàng không có gì phải sợ hãi.

Chúng ta hãy quên đi câu chuyện ấy. Nếu nàng có điều gì ước muốn, nàng cứ việc xin dù nàng đòi xin ta hạt giống của chim Bằng!142

- Thưa Tướng công, nàng nói trong lúc ông thích chí nhận thấy má nàng ửng hồng và những cánh mũi nở ra, thiếp không muốn gì hơn có ngài bên cạnh thiếp.

- Thấm tí nước trên khuôn mặt của cô mày đi, ông ra lệnh cho con hầu.

Hương Thầm mau lẹ nhận ra ngôn ngữ lẳng lơ.

- Thiếp hạ mình nhận cơn mưa móc143.

Nghe những lời ấy đúng là một lời mời gọi làm chuyện ái ân, Sương Núi bật ra một tiếng cười nhỏ. Nàng sắp sửa lánh mặt thì ông giữ tay áo nàng lại.

- Đi chuẩn bị khuê phòng và cứ ở lại đấy chờ chúng ta, em sẽ không thừa đâu.

[←136]

Tù trưởng

[←137]

Con cháu đời sau, dòng dõi.

[←138]

Tôn Tử: "Mười ba mục về nghệ thuật chiến tranh"

[←139]

Theo Binh Pháp Tôn Tử

[←140]

Thăng Long

[←141]

Lời Chửi rủa các nhà sư

[←142]

Loài chim trong thần thoại.

[←143]

(Từ cũ, Văn chương) mưa và sương, dùng để ví ân huệ trên ban xuống