← Quay lại trang sách

Chương 2

Chưa bao giờ Nguyễn Trãi hạnh phúc như vậy.

Nền giáo dục chàng đã nhận được, lý tưởng nhân nghĩa mà trước đây lắm lúc chàng cảm thấy như xa rời thực tế, niềm tin của chàng vào một "chính nghĩa", giờ đây đã hoàn toàn được chứng tỏ là đúng.

Bình Ngô Sách, là "chiến lược thắng Ngô" của chàng. Chàng đã soạn thảo và suy đi ngẫm lại suốt bao nhiêu năm trường khi còn bị quản thúc không hoạt động gì được ở Đông Quan (Thăng Long), rồi được tranh luận gay gắt, được sửa đổi lại cho thích nghi với thực tế từ ngày chích huyết ăn thề ở Lũng Nhai trước đó chín năm, hiện nay đã có kết quả.

Việc chinh phục lòng người, nhất là chinh phục được lòng người dân, là "dòng nước nâng đỡ chiếc thuyền quyền bính nổi lên, mà cũng có thể làm đắm chiếc thuyền đó", việc liên kết những người có tài và những bài văn chàng viết cho các tướng lĩnh Trung Hoa để tranh thủ họ, hoặc để làm họ nản chí, là nguồn gốc đem lại những chiến thắng về quân sự, và những chiến thắng ấy bây giờ đang chuyển sang những cuộc chinh phục ngoại giao.

Chàng không còn bị ám ảnh về một cuộc đời thất bại nữa.

Đã mười năm nay, kể từ khi chàng tham gia cuộc kháng chiến ở miền Nam, một tình bạn thâm sâu đã liên kết nho sĩ này với Lê Lợi, tình bạn ấy phát sinh từ sự ngưỡng mộ và tin tưởng lẫn nhau, lại được củng cố bằng những thử thách và chờ đợi bằng thất bại cũng như thành công (biết bao lần hai người lâm vào tình thế thật là ngặt nghèo, thậm chí hầu như tuyệt vọng nữa), Đó là sự kết hợp giữa cây bút và thanh kiếm, giữa mưu sĩ và chiến sĩ, giữa nhà ngoại giao và vị tướng điều khiển ba quân, là những tay lão luyện bậc thầy, họ cùng với nhau quyết định tương lai, Lê Lợi là vua, còn Nguyễn Trãi là quân sư. Định mệnh mà các tinh tú đã tỏ lộ ra, giờ đây đang thành hiện thực, cái định mệnh mà ngày trước đã khiến cha chàng phải khiêm nhượng rút lui vào bóng tối.

Năm trước, hai người đã đồng ý với nhau lợi dụng cuộc khủng hoảng ở Trung Quốc do cái chết của Hoàng Đế Vĩnh Lạc gây ra để tái tấn công, thay đổi kế hoạch và mục tiêu: là giải phóng các tỉnh ở phía Nam Thanh Hóa.

Nếu núi Chí Linh là một địa điểm đóng quân chắc chắn trong cuộc chiến tranh quấy rối, thì nó không phải là một căn cứ vững chắc để phát triển phong trào, một phần vì nó quá gần với các thành Đông Quan, Tây Đô. Hai người đã quyết định tấn công vào Nghệ An, một tỉnh rất đông dân. Tại đây, quân Tàu đóng quân ít hơn ở Thanh Hóa, và viện binh từ phương Bắc khó lòng đến tiếp cứu họ được.

Kẻ thù vốn đông quân hơn, nên để làm điều ấy, nghệ thuật quân sự là làm sao lôi được quân thù vào vùng đất mình lựa chọn, trong trường hợp này là vùng nội địa của mình, chứ không phải để cho quân thù lôi được mình vào vùng đất của họ. Tại Khả Lưu, quân ta đã trương cờ gióng trống lên và đốt lửa để hư trương một quân đội rất lớn mạnh, nên đã lừa được quân Tàu, đã che giấu được đội quân tinh nhuệ do Trần Nguyên Hãn chỉ huy vượt qua sông Lam, và ngay khi qua được bờ bên kia, tướng này biệt danh là Hổ Trầm đã vào trong các ngọn núi phục kích tại đó. Tảng sáng hôm sau, quân đội Thiên Triều với kỵ binh dẫn đầu, cờ xí rợp trời tới tấn công, Lê Lợi giả bộ chạy trốn, dẫn họ tiến thẳng vào cái bẫy đang giăng ra, tại đó quân thù có thoát được thì cũng phải thiệt hại rất nặng.

Nhưng chưa phải là đã thắng lợi. Quân thù cũng chỉ tổn thất nhẹ và sau khi chúng rút về phía hạ lưu vào trong chiến lũy vừa được xây cấp tốc chỉ với mục đích trì hoãn, hòng đẩy nghĩa quân đến chỗ thất bại, Nghĩa quân trái lại, phải hành động chớp nhoáng giáng một đòn như sấm sét, đốt trại của chúng, rồi làm như rút quân lên phía thượng lưu, nhưng thực ra là vòng về phía sau, và giăng ra một mạng lưới mai phục rộng lớn tại Bồ ải. Đây là một chiến thắng lớn! Sử có ghi lại:

"Thuyền quân thù trôi theo dòng nước, xác quân thù chất đống trên sông, vũ khí chúng để lại chất đầy các khe núi".

Các đội quân Trung Hoa thua chạy toán loạn. Một tướng lĩnh của họ bị giết và xác của hắn bị bêu trước công chúng. Một tướng khác bị bắt làm tù binh nhốt trong cũi. Tổng binh Trung Hoa Trần Trí và tàn quân của hắn chạy trốn như một làn khói về thành Nghệ An.

Quân ta đã thu vũ khí và lương thực của quân đội Thiên Triều. Các đội quân của ta đã tiến tới với bầu nhiệt huyết sấm vang dậy đất, tung bụi ngất trời. Từng mũi tên một đã góp công vào chiến thắng.

Tháng Giêng năm Ất Tỵ (1425), quân ta đã được dân chúng tiếp đón nồng nhiệt tại Đa Lôi (thuộc huyện Thổ Du, tỉnh Nghệ An). Dân chúng tràn ngập đường mang đến cho họ những món quà, thịt trâu và rượu. Các cụ già nước mắt rưng rưng vừa đi vừa lẩm nhẩm: "Ai mà ngờ được ngày hôm nay mình được thấy lại vẻ oai phong của quê hương xưa". Dù bị thiếu lương thực suốt ba ngày, nhưng không một quân nhân nào vi phạm lệnh cấm không được đụng chạm gì đến của cải của đồng bào, trừ của cải của quân Minh. Vì thế, dân chúng tung hô Lê Lợi là người giải phóng dân tộc và gia nhập hàng ngũ của ông, cho đến những bà mẹ còn bồng con nhỏ trên tay cũng vậy.

Thật đúng với câu: "Anh hùng tạo thời thế".

Tri phủ châu Ngô Mã là Cải Bình đã phủ phục xuống giao thành lại cho ông cùng với tám nghìn người và mười thớt voi. Khắp nơi trong tỉnh, các viên chức ở các phủ, các huyện đều đua nhau thuận phục.

Quân ta đã chiến đấu như vũ bão tại Khả Lưu, và đã đánh bại quân thù ở Bồ ải dễ dàng như chẻ tre.

Tinh thần của binh sĩ vì thế lên như diều.

Đến tháng tư, họ bao vây thành Nghệ An, nơi Tổng binh Trần Trí cùng với Phương Chính và tàn quân của hắn đang cố thủ. Theo gương các vị đại tướng tiền bối là giảm binh ở những nơi phòng thủ kiên cố để tập trung tấn công vào những điểm yếu nhất, nên chắc hẳn họ đã bỏ mặc bọn Tàu đang cố thủ trong thành vốn nhát như chuột, nếu họ không nghe đồn về đạo quân đang từ phương Bắc xuống qua đường biển dưới quyền điều khiển của quan phó tổng binh Lý Ngân. Với bản năng tiên đoán chắc chắn của một vị tướng thiện nghệ, Lê Lợi biết trước rằng bọn Tàu bị bao vây sẽ cố tìm đường thoát ra để hợp với đạo quân cứu viện, nên ông đã dùng một chiến thuật táo bạo nhử cả hai đạo quân vào một ổ phục kích ở Đỗ Gia (huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh) và đánh tan cả hai.

Thây của giặc chất thành đống ở hai bên bờ sông.

Những tên chết trôi bồng bềnh dọc theo dòng sông La Giang.

Khó nhọc lắm mới phá được vòng vây, lại bị quân của Lê Lợi đang hăng máu đuổi theo, Tổng binh và phó tổng binh tìm cách thoát thân, Trần Trí thì chạy về hướng Đông Quan, Lý Ngân chạy về hướng thành Nghệ An cùng với Phương Chính, ông này vì quá sợ đã tắt thở.

Tháng năm, quân ta lại chặn được một đoàn tàu tiếp tế lương thực gồm trên ba trăm chiếc thuyền và đuổi theo đoàn tàu hộ tống tới tận tường thành Tây Đô.

Đến tháng bảy, Lê Lợi vì muốn đề phòng bọn Tàu đánh tập hậu nên đã ra lệnh cho Trần Nguyên Hãn, được gọi là Hổ Trầm và Lê Ngân, còn gọi là Bất đắc Kỳ tử, đánh chiếm hai tỉnh miền Nam là Tân Bình và Thuận Hóa (ở phía nam tỉnh Thanh Hóa).

Mùa Thu năm Ất Tỵ (1425), tất cả miền Nam Đại Việt đã được giải phóng trừ hai thành Nghệ An và Tây Đô.

Còn phải chiếm lại các tỉnh phía Bắc nữa, đó là mối quan tâm lớn nhất của Lê Lợi và quân sư của ông là Nguyễn Trãi.

—★—

Chẳng mấy chốc, mặt trời mùa xuân đã ngả về phía những đỉnh núi xa xa.

Ra khỏi khu rừng thoai thoải trải xuống phía thung lũng, hai kỵ sĩ dáng vẻ quý phái đang ngắm nhìn trại quân đóng ở phía dưới cách họ bằng khoảng một làn tên.

Dưới mắt họ là cả một lực lượng hùng hậu, những chiếc lều với những cờ xí màu đỏ thẫm bay phất phới trước gió chiều, có tướng, có sĩ với hàng binh lính võ trang đầy đủ, có ngựa chiến, voi chiến. Tất cả đều lẫn lộn trong cả một đám đông ô hợp của một binh đội gồm đàn ông, đàn bà, trẻ con đang sinh hoạt nhộn nhịp bên những đàn gà vịt, heo, bên những đống dụng cụ đủ loại. Chỗ này đang nấu cơm chiều, chỗ kia đang múc nước... Trong đám đông đó có các phụ nữ theo chồng đánh giặc, cùng với tôi nam tớ nữ, kẻ chuyên nấu bếp, người chuyên đánh xe, đang sát cánh làm việc với những đám đông gồm vô số công nhân, có những tiều phu bận áo màu lam từ những khu rừng cao gần sông Mã, có những thợ mộc và thợ thủ công người Kinh mặc áo nâu sẫm, có những thợ chăn ngựa và thợ rèn người Mường, vân vân. Nhìn quang cảnh ấy người ta có thể bảo rằng các vị thần Thổ Địa đã đưa về tập trung ở đây, giữa núi Lam Sơn và sông Luông, cả một lực lượng hùng hậu của đất nước, gồm một đạo quân vĩ đại được tăng cường một cái chợ khổng lồ và một công trường thật quy mô.

Bất cứ nhìn về hướng nào, dù là đông tây hay nam bắc, người ta cũng nhận thấy doanh trại ấy thật rộng lớn, vượt ra khỏi vòng rào chắn trải dài đến tận các sườn núi. Nó bao gồm khoảng 200 chiếc lều rạp, xen lẫn các chòi rơm, thêm vào đó là những lò rèn đang rực lửa trong các hang động, và các chú lính gác đang lúc trực trên đỉnh canh. Tất cả tạo nên một cảnh tượng hùng tráng tựa như cả chục ngàn mãnh hổ đang sắp sửa vồ mồi.

Trong nắng lửa chiều tà, hàng binh đao lấp loáng.

Kia là những chàng xạ tiễn đầu viền dải băng đỏ thẫm, đang thao dượt cung tên trên lưng năm mươi thớt voi... Xa xa hơn, cưỡi trên mình chú ngựa Mường, một chàng trai trông thật khỏe khoắn, đang dẫn đầu toán kỵ binh sơn cước, tay chàng vung tít con dao cán ngà phía trên đầu. Đó là ai nếu không phải là chàng Hiểm lực lưỡng và gân guốc, với biệt danh Con Chồn Ngoài hang? Xa hơn tí nữa, không ai khác ngoài anh chàng Lưu Nhân Chú, biệt danh Diêm Vương, nổi bật lên trong chiến bào màu da tê giác rực rỡ, đang dẫn theo đoàn bộ binh của mình. Ai mà chẳng ngán anh chàng này? Và trên khu đất được rào kín, chính thị là con hổ Trần Nguyên Hãn, ông ta đang một mình giao đấu với cả 10 địch thủ một lượt mà đầu óc vẫn lạnh lùng, cử điệu thật chính xác không hề nao núng. Ai dám nghĩ mình qua mặt được ông ấy về nghệ thuật chinh chiến?

Khắp nơi, mọi người đều phô diễn những nhịp chuyển động náo nhiệt tựa như bầy kiến dưới đáy lò lửa nóng... Ở chỗ này người ta đang vận chuyển những tấm ván rừng dày cần cho việc chế tạo tàu chiến mới, nào là đẽo, nào là cắt, nào là đóng, nào là xảm... Ở chỗ nọ, người ta đang phơi những tấm da trâu chưa thuộc lên dãy sào tre, chúng sẽ được dùng làm chiến bào và thuẫn đỡ.

Dọc theo bờ sông Luống, những chiến thuyền mang đôi mắt cú vọ đang đứng cạnh nhau, những anh chàng thuyền đánh cá mà chạy kề bên chúng chắc là khó khăn lắm đó!

Từng chập từng chập lại vang lên tiếng kèn sơn cước hay vài điệu hò dân ca như muốn lấn át tiếng binh khí va chạm nhau chan chát và tiếng náo nhiệt phát ra từ xưởng đóng tàu trong bầu không khí buổi chiều tà.

Trong khi ấy, từ khắp mọi nẻo đường miền núi lẫn miền xuôi, từng đoàn nông dân lũ lượt kéo về hướng doanh trại để tôn vinh Lê Lợi, vị chúa của họ và dâng lên lương thực tiếp tế cho đoàn quân, người sơn cước y phục màu xanh chàm đang còng lưng dưới chiếc gùi, người miền Kinh y phục màu nâu sẫm đang uốn lưng dưới chiếc đòn gánh.

Và dưới bàn tay vuốt nhẹ của làn gió hoàng hôn, giữa hàng cờ xí rợp trời, lá đại kỳ "nhân nghĩa" giương cao đang tung bay phất phới.

Làm sao ai có thể nhận ra đây chính là đoàn quân chân đất bụng meo ngày nào nhỉ?

Đôi quai hàm hung hãn của Lê Lợi trông dịu hẳn đi trong nụ cười chiến thắng. Thân hình của người như thư giãn ra. Ngài vuốt nhẹ vào chiếc cổ con chiến mã đang đứng run rẩy. Lực lượng quân sự của ngài càng ngày càng gia tăng, bước chân ngài đi đến đâu là mang về chiến thắng đến đó. Tại các tỉnh phía Nam, dù quân thù có chui rúc trong các làng mạc miền núi hay đồng bằng hoặc ngay cả trên sông nước ngài cũng tiêu diệt hết. Tất cả mọi viên chức từ Phủ Huyên đến các ty chức quèn và cả đám dân đen đều nhất mực nhìn nhận quyền uy của ngài.

- Quân Sư Ức Trai này, ông còn nhớ thuở binh đoàn chúng ta chưa có được tới 500 người không? Lúc đó chúng ta chẳng có đủ cấp chỉ huy cũng chẳng đủ khí giới, không biết chúng ta sẽ ra sao nếu không nhờ các bộ lạc sơn cước giúp đỡ? Nếu không nhờ Lê Lai biệt danh Chú Vượn dám khoác chiến bào của ta đánh lừa quân địch để tự nhận cái chết cho mình? Ta đã đem cả ngàn chiếc đầu giặc Ngô ra chặt tại đèo Kình Lộng160 vào năm Tân Sửu (1421) để rửa hận cho cái chết này. Ta biết, vào dịp ấy, vì lòng nhân đạo, chắc chắn ông bị tổn thương lắm đó!

Nguyễn Trãi thở ra một nụ cười, nụ cười vốn bao giờ cũng thâm thúy khôn dò. Quả thật chàng nhớ lại mình đã mãnh liệt chống đối lại cuộc trả thù man rợ ấy, nhưng vào lúc bấy giờ, vì bị tên Lê Sát với biệt danh Sấu Thần nịnh bợ, nên Lê Lợi chưa có được tầm nhìn đúng đắn về các sự việc. Ngài không hiểu rằng một tướng lĩnh tài ba thực sự sẽ ghê tởm các cuộc tàn sát dã man như thế.

- Tâu chúa thượng, cũng như ngài, tôi tin rằng sử dụng bạo lực cách chính đáng là điều cần thiết, nhưng một khi chúng ta có thể chiến thắng mà không cần phải đụng đến gươm giáo thì tại sao chúng ta lại không dùng đến đường lối ngoại giao đối thoại thu phục? Nói tóm lại là dùng phương cách tác động đến trái tim của quân địch để chúng quy hàng mà chẳng cần phải chiến đấu, làm thế sẽ tiết giảm được biết bao sinh mạng khỏi phải chết oan uổng không?

Lê Lợi lắc đầu:

- Ngài Quân Sư Ức Trai ơi, tôi hiểu, tôi hiểu. Song ông hẳn còn nhớ sự láo xược và tàn ác của đám giặc thù chứ? Ngày hôm nay khi nghe tiếng tăm chúng ta, đọc thư ngỏ chúng ta gửi, (Quân Trung từ mệnh tập: thư gửi tướng lĩnh quân địch mà Nguyễn Trãi nhân danh Lê Lợi soạn ra) chúng đã ngán quá chui rúc vào các thành trì để ẩn trốn, nhưng tôi nghĩ rằng chắc ông không thể nào quên được khoảng thời gian ở vùng núi Chí Linh chứ? Khi ấy phần thì chúng ta bị bao vây, phần thì bị thám quân địch theo dõi, phần thì bị mấy thằng Ai Lao phản bội, những thằng mới hôm qua vẫn còn là đồng minh chúng ta. Ông không quên chứ? Chúng ta đã phải giết voi để nuôi quân, cả hàng chục ngày phải ăn rau cỏ để sống? Mắt chúng ta mờ đi vì đói, phụ nữ chúng ta không còn sữa cho con bú, chúng ta phải run lên vì sốt vì rét, còn quân thù thì quấy nhiễu dân cư, tàn sát gia đình, cướp phá đất đai, xâm phạm mồ mả, phơi bày hài cốt tổ tiên chúng ta! Đối với lũ quân Ngô khốn nạn ấy, cần gì phải thương phải xót! ôi mười năm khủng khiếp mới có được ngày hôm nay! Ngày trước quân ta thiếu thốn mọi bề, ngày nay nhờ tịch thu chiến lợi phẩm của quân thù, chúng ta đã tích trữ được lương thực. Ngày trước quân ta phải trốn chui trốn lủi, ngày nay quân ta xuất đầu lộ diện tấn công quân thù để đánh cướp quân lương. Chúng ta dùng chính giáo mác khiên mộc của chúng để làm khí giới, dùng chính vàng bạc bọn chúng để trả lương cho quân ta. Thật đúng là "Gậy ông đập lưng ông".

Càng nói Lê Lợi càng bừng sôi lửa giận. Đoàn quân hiện đang có trước mắt ngài là đoàn quân đã được ngài dẫn đi từ chiến thắng này đến chiến thắng khác. Chính nó sẽ là phương tiện giúp ngài trả thù báo oán. Bạo lực sẽ phải trả bằng bạo lực! Lòng khát khao chinh phục khiến ngài run bắn lên, ngồi trên mình con tuấn mã, búi tóc ngài đựng đứng lên theo đỉnh gió núi đang thổi ào ào. Suýt chút nữa ngài đã hét lên tiếng thét vọng khắp các lũng đồi giống như dạo ngài đang xung trận...

Bên cạnh ngài, hình ảnh Nguyễn Trãi trông thật hoàn toàn trái ngược. Tia nhìn mang sắc lửa hoàng hôn tạo cho khuôn mặt chàng dáng vẻ trầm mặc của mặt nước hồ vào tiết trung thu. Tự toàn thân chàng, tuy mặt nào đó có chiều lãng tử, như toát ra một thứ quyền lực cao thâm của một triết nhân đã từ lâu biết dùng lý trí chế ngự xúc cảm. Chính chàng cũng đang chiêm ngắm doanh trại...

- Tâu Chúa thượng, tôi còn nhớ vào thời kỳ ở Chí Linh, ngài đã phải thâu đêm trằn trọc trong đơn độc, trời cao quả thật đã thử thách ngài hết sức gay go, nhưng giờ đây vinh quang đã tới lấp đi những tháng ngày khốn khổ đó. Tôi còn nhớ rõ chúng ta đã cố quên đi cái bụng đói để nghiền đi ngẫm lại chiến lược. Chẳng bao giờ chúng ta để cho suy giảm cái ý chí dùng chính nghĩa khuất phục sự man rợ. Trong khi tấc lòng mình sẽ đau khủng khiếp, chúng ta vẫn biết nghĩ đến đám dân lành đang là mồi ngon cho biết bao nỗi thống khổ. Tâu Chúa thượng! Hôm này đây, lòng tràn đầy hy vọng, dân chúng đang mong chờ ngài đuổi hết quân xâm lược, và một khi đem được chiến thắng trở về, ngài sẽ không quên những hy sinh họ đã đóng góp. Tại Nghệ An, ngài đã quy phục được nhân tâm khi ban hành lệnh cấm quân lính xâm phạm vào của cải nhân dân. Chính ngài đã biểu lộ được lòng nhân thứ của vị thống lĩnh khi bằng mọi cách ngài tránh cho nhân dân những nỗi thống khổ do chiến tranh gây ra... Còn về đám quân Tàu, thì theo thiển ý của thần, chúng ta cần phải tiêu diệt mọi dục vọng xâm lược của chúng, đồng thời chúng ta cần xây dựng nền tảng cho việc bang giao với anh bạn láng giềng hùng mạnh phương Bắc này. Các việc này còn quan trọng hơn là chỉ lo tàn sát sinh mạng chúng nó. Nhờ khéo phối hợp giữa thuật quân sự và thuật tâm chiến mà thiểu số đã chiến thắng đa số, sự yếu đuối đã khuất phục được sức mạnh bạo tàn.

Ánh mắt Lê Lợi tóe lên vẻ bí hiểm. Những cuộc tranh luận thế này rất bổ ích cho con người chinh chiến thường xuyên phải đương đầu với những vấn đề cụ thể. Càng tiếp xúc với Nguyễn Trãi, tầm nhìn của ngài ngày càng được mở rộng, và hiện tại đang mở rộng ra trước những viễn cảnh tương lai tươi sáng. Ngài còn nhớ rất rõ, cách đây nhiều năm, khi còn ẩn trú ở truông Khả Lam, trực giác về Nguyễn Trãi đã không đánh lừa ngài và rồi trong suốt cuộc chiến đấu gian khổ, con người ngoại hạng này với biệt tài về ngoại giao và có tầm nhìn chiến lược cao đã thực sự vô cùng quý báu cho ngài. Ngài ngầm nghĩ: Cần phải tận dụng con người này tối đa, rồi ngày mai lại sẽ tính sau. Dù vậy đứng trước vị nho sĩ này, ngài vẫn thường xuyên cảm thấy một sự bực tức ngấm ngầm nào đó xâm chiếm mình, sự bực tức khi đối diện với một lương tâm sống động khó lòng thoát khỏi sự chi phối của nó chính vì nó trong lúc mời gọi con người hướng thượng nhưng vẫn không hủy diệt những gì là nhân tính. Lê Lợi chợt hiểu ra tại sao tên sủng thần Lê Sát có biệt danh Sấu Thần rất đố kỵ với con người này, con người chẳng hề biết hạ mình, nịnh bợ ai hết.

Ngài đưa mắt thăm dò Nguyễn Trãi trong lúc chàng vẫn đắm mình trong suy tưởng.

Lững lờ giữa cụm mây màu tím sẫm, vừng ô từ từ khuất dần sau rặng núi. Phía dưới, toán quân gác đêm đang bắt đầu làm phận sự. Thế rồi chẳng bao lâu, hiệu chuông tắt lửa vang lên báo hiệu giờ đóng cửa doanh trại, Lê Lợi bảo: "Chúng ta trở về thôi".

Đồng nhịp vó ngựa phi, hai kỵ sĩ đổ dốc trở về. Đến gần doanh trại, họ nhận ra cô gái Thị Lộ đang dắt bé Nguyên Long ra đón. Cậu bé trạc độ ba tuổi. Với động tác nhanh nhẹn, con Rồng Lam Sơn bế cậu bé đặt lên yên ngựa đằng trước ngài và hỏi: "Trai cưng của ta có khỏe không nào?".

Cậu bé chẳng để ý đến việc đáp lời bởi vì cậu ta đang chêm chệ trên lưng ngựa đầy kiêu hãnh, một tay thì giật giật dây cương, tay kia thì khua khua đâm chém đám quân thù tưởng tượng bằng thanh kiếm vô hình. Nhìn vào cậu bé, Lê Lợi tưởng chừng mình đang thấy lại những dáng vẻ yêu kiều của Ngọc Trân, vị hôn thê đã dũng cảm bỏ mình hai năm về trước. Trên thi hài của nàng, ngài đã long trọng tuyên thệ dành ngôi hoàng tử kế vị cho Nguyên Long, giọt máu yêu dấu của hai người. Thế mà cậu bé nào hay biết gì về thân phận cao cả của mình, kìa cậu ta đang đóng vai chú lính anh hùng với chủ ý làm cho Thị Lộ phải khâm phục.

Về phần Thị Lộ, trong chiếc áo dài đơn giản màu củ nâu, lúc này trông nàng còn rực rỡ hơn cả giả sử như nàng được phủ đầy người nhung lụa, đầu đính cài kim cương. Hoàng hôn tím viền lên mái tóc nhung huyền còn đậm đà hơn màu son của nàng, đôi mi dài đang hướng về vị nho sĩ trông mới đượm nồng làm sao! Gương mặt run run tựa nhành hoa yểu điệu đang tố cáo sự chờ đợi và bối rối của nàng. Nhưng chiều hôm ấy, chắc gì Nguyễn Trãi đã lưu ý đến sự hiện diện của nàng?

Bỗng dưng Nguyên Long dừng chơi. Tựa như tia nhìn của một người lớn, cậu bé đưa mắt theo dõi ánh nhìn của Thị Lộ rồi cậu nhìn sang Nguyễn Trãi cái nhìn đầy ngờ vực, sau đó cậu lại quay nhìn về Thị Lộ lần nữa như muốn chiếm hữu, quy phục nàng.

Sự kiện này không thoát khỏi cái nhìn tinh tế của chàng nho sĩ. Dù chẳng thể tự giải thích cho mình, chàng bỗng cảm thấy một cơn khó chịu xâm chiếm, tựa như một điềm gở nhanh như chớp, sắc như lưỡi gươm, tiên báo sợi dây oan khốc đã trói buộc số phận ba người lại với nhau.

Chàng xao xuyến nhủ thầm: "Một cậu bé và một cô bé thật lạ lùng". Lúc ấy chàng mới lưu tâm nhìn nàng, và nhan sắc óng ả của nàng mới lọt vào mắt chàng.

Về phần Nguyên Long cũng như mọi đứa trẻ tinh nghịch khác, cậu bỏ mặc hai người, quay về phía cha cậu đùa giỡn.

- Bố ơi! Một con rắn kìa! - Vừa nói cậu vừa chỉ ngón tay về phía trước.

- Ở đâu vậy con? - Cha cậu hỏi, tay vội tra vào thanh kiếm.

Nguyên Long chỉ vào đỉnh núi nơi mặt trời vừa bỏ lại đằng sau dải mây màu huyết dụ, mà đáp.

- Đằng kia kìa!

- Con trai cưng ơi, cụm mây ấy báo hiệu sự nổi dậy đó! Chính nó tiên báo sự chiến thắng của chúng ta phải không ngài Quân sư?

Và vừa bật cười giòn giã, Lê Lợi cùng con trai bước vào doanh trại.

—★—

Vào tháng Tám năm Bính Ngọ này (1426), theo sự thúc giục của tướng Trần Nguyên Hãn, Lê Lợi đã phát động cuộc nổi dậy tấn công vùng châu thổ sông Hồng và thủ đô.

Trần Nguyên Hãn nói:

- Tấn công vào các đô thị, quân ta sẽ có nguy cơ bị kiệt sức, chi bằng tốt hơn ta nên dồn sức lực để tấn công vào đám viện binh từ Trung Quốc đến. Một khi viện binh bị tiêu diệt, lập tức các đô thị sẽ đầu hàng. Như thế là "Nhất tiễn hạ song điểu.

- Ngài cố vấn tài ba, ngài nghĩ sao? - Lê Lợi hỏi.

Nguyễn Trãi tán thành đề xuất của người anh em họ:

- Tâu Chúa thượng, theo thiển ý của tôi, nghệ thuật quân sự thể hiện nơi cách dụng thời gian và hoàn cảnh. Một khi ta biết thuận thời và biết nắm bắt hoàn cảnh thuận lợi thì một lực lượng nhỏ bé sẽ trở thành hùng mạnh hơn lên. Thời cơ hiện nay rất thuận lợi. Ngay lúc này đây, nhờ tên thám báo gài vào cấm thành, chúng ta được biết viện binh mà tân hoàng đế nhà Minh hứa gửi sang cho tổng binh Trần Trí từ tháng tư năm nay đã chậm đến, thế tại sao chúng ta lại không cấp tốc tiến công về những tỉnh phía Bắc tạo điều kiện để đánh bại quân tiếp viện, và dựng lên những trận đánh có tầm chiến lược cao, như thế sẽ khiến cho chiến tranh có chiều kích lan rộng khắp cả nước?

Lê Lợi hỏi:

- Theo ước tính của chúng ta, đám quân hoàng đế nhà Minh cần phải gửi đến cứu viện cho Trần Trí chắc chắn sẽ rất hùng hậu, gồm khoảng độ 50 ngàn người. Liệu quân ta có chuẩn bị đủ để nghênh chiến chưa?

Trần Nguyên Hãn trả lời:

- Tâu Chúa thượng, theo lời hai vị chỉ huy Mộng Tuân và Lý Tự Tân với trách nhiệm tuyển quân thì chúng ta đã chuẩn bị đủ. Mỗi ngày còn có hàng trăm người đến xin đăng ký nhập ngũ.

Sau một hồi suy nghĩ, vầng trán con rồng Lam Sơn vụt sáng lên, ngài đề ra quyết lệnh: Ba đạo quân tiến chiếm miền Bắc sẽ phải nhắm vào những mục tiêu chính xác như sau:

- Đạo quân thứ nhất: gồm ba ngàn người và một thớt voi trận do tướng Phạm Văn Xảo biệt danh Kiếm Ngọt chỉ huy, có Mộng Tuân biệt danh Trời Con trợ tá, sẽ trực chỉ về hướng hợp lưu ba con sông nhằm mục đích canh giữ con đường xâm lăng cổ truyền từ Vân Nam, đồng thời gây sức ép mạnh mẽ lên phần phía Tây thủ đô.

- Đạo quân thứ hai gồm bốn ngàn người và hai thớt voi trận do tướng bộ binh Lưu Nhân Chú biệt danh Diêm Vương và Lê Thụ biệt danh Tận Thoát chỉ huy sẽ chia thành hai nhóm: Một nhóm có nhiệm vụ chặn đứng tất cả đường di chuyển của địch quân từ Nghệ An về thủ đô, còn nhóm kia có nhiệm vụ chặn đứng đám xâm lăng quân Minh từ Quảng Tây xuống.

- Sau hết, đạo quân thứ ba là đạo quân chủ lực gồm hai ngàn chiến binh tinh nhuệ do tướng Trần Nguyên Hãn biệt danh Hổ Trầm chỉ huy với sự trợ tá của các chính ủy Đinh Liệt biệt danh Xác Gấm và Lê Ngân biệt danh Bất Đắc Kỳ Tử. Đạo quân này sẽ tiến chiếm phần phía Nam thủ đô và kết hợp với đạo quân thứ nhất kiềm chặt Đông Quan chờ cơ hội hành động...

Thế là cùng đoàn cờ bay phấp phới, ba đạo quân lên đường tiến về châu thổ sông Hồng trong nhịp bước khải hoàn. Trên đường tiến quân, họ tuân thủ nghiêm ngặt lệnh cấm quân lính xâm phạm tài sản của nhân dân.

Tất cả những người trước kia từng bí mật giúp đỡ cuộc nổi dậy nay tiến ra chúc mừng đoàn quân: Chủ làng có, thầy đồ có, chăn trâu có, chủ quán có, bán hàng rong có, ôi thôi là vô số hạng người khác nữa đếm không hết được! Chủ quán Vân Sơn chiêu đãi binh lính một chầu rượu, vị sư cụ Pháp Vân trước đây đã từng cho phép hai đệ tử Từ Chi và Phi Hùng theo chân Lê Lợi ở Chí Linh nay cũng ra tiễn đưa đoàn quân một dặm đường, trong khi đó cô lái đò Chiêm đang ra đứng ngắm đoàn quân của bóng đêm mà trước kia, đêm qua đêm, chính mình đã đưa đò cho họ sang bên kia sông (ý nói sông Đáy) và cô cũng đâu ngờ rằng chính nhờ hành vi cao đẹp ấy một ngày kia cô xứng đáng được phong làm vị Hộ Thần cho ngôi làng Đông Mai của mình.

Trên bước đường tiến quân, khắp nơi mọi đám dân từ lâu bị áp bức nay cũng đứng lên ủng hộ và tiếp tế lương thực cho họ. Trước ngọn lửa hoan lạc pha lẫn hận thù này, đám quân Minh run sợ chui rạp sâu vào trong thành quách chờ viện binh đến cứu, còn các quan chức địa phương, những đồng minh của chúng mới ngày hôm qua đây thôi, thì chúng bỏ mặc cho dân chúng trừng phạt. Những kẻ hợp tác nồng nhiệt với quân thù ấy, những kẻ đã tàn xử với dân chúng còn tệ hơn cả quân thù nữa, giờ đây mặt mày đang xám ngoét vì kinh hồn, miệng mồm câm thít vì khiếp vía. Dễ gì dân chúng xót thương bọn ấy? Bao nhiêu năm qua, chúng đã gây biết bao tủi nhục lầm than, sách nhiêu, tra tấn, cướp bóc cho nhân dân! Mồ hôi và máu nhân dân đã đổ ra bởi chúng, cho chúng và vì chúng! Giờ đây chúng phải trả giá "một lần cho tất cả". Mới hôm qua đây thôi, những nông dân khốn khổ này còn phải khom lưng, hạ mình hứng chịu bao trận roi mây của chúng, giờ đây họ đang khạc đờm nhổ bọt vào mặt chúng và thét lên: "Đồ chó ghẻ phản bội hôi thối!" Nỗi nhục nhằn hôm qua như sống lại sôi sục trào lên. Và trong cơn say sưa với quyền bính đến bất ngờ này, đám nông dân gần như hóa điên lên. Họ như bị quấn chặt vào những móc sắt của lòng căm phẫn hận thù. Trong mọi trường hợp, cái chết của bọn phản quốc ấy hầu hết đều đích đáng nhưng không khỏi mang tính cách tàn khốc vô cùng.

Tại Vân Sơn, các quan chức bị rút móng, bị chọc thủng mắt, bị lột da làm giày. Chúng bị giết ngay trên phố chợ trời đây là nơi từng chứng kiến biết bao binh sĩ của Lê Lợi bị bêu đầu. Sau đó dân làng tịch thu tài sản ruộng đất của chúng.

Tại Giàn Khăn, một quan chức địa phương hy vọng dùng phương cách giả chết để tránh. Nhưng ngay khi phát hiện ra mưu kế này, dân làng đã dùng dây leo cột chặt nắp quan tài rồi ném xuống nước y hệt quăng một cái bè xuống ao hồ công cộng vậy. Thế là dưới đám bèo đám sen, chiếc quan tài với ông chủ nó đã chìm nghỉm mất tăm.

Tại Thương Hồng, trong cơn nổi điên, một số phụ nữ đã dùng máu kinh nguyệt bôi trét vào mặt các tên phản bội. Đây là hình thức lăng nhục cực kỳ ghê tởm. Tiếp đó, người ta chặt tay chặt chân, cắt tai cắt mũi chúng rồi cột chúng vào những cái bè. Sau khi đã nhét vào những cái mồm dơ bẩn xấu xa ấy đầy nhựa thông, người ta thả bọn phản bội ấy xuống dòng sông Đáy đang chảy xiết. Những thửa đất công mà chúng chiếm đoạt từ nhiều năm trước nay được các nông dân chia nhau.

Trên đường tiến về phương Bắc, từ làng này sang xã khác, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo và các phó tướng của họ, xác nhận được những biến động đang xảy ra qua nét mặt tràn đầy hy vọng của họ và thẩm định được tầm vóc của những biến động ấy qua những trao đổi như sau:

- Nhờ ơn Lê Lợi, giờ đây tôi có được năm mẫu ruộng để cày, con cái tôi không còn chết đói nữa

Người thì hét:

- Quân lính chúng ta đang đến kìa! Đất nước chúng ta sẽ được giải phóng, ruộng vườn ta sẽ thuộc về ta!

Còn các vị cao niên nhất ngậm ngùi nói:

- Ngày hôm nay chúng ta tìm lại được phẩm giá của mình, tre trúc sẽ lại đâm chồi nẩy mộc, trâu bò sẽ được sống và chúng ta sẽ thấy lại mảnh đất cha ông chúng ta trong cảnh thái bình. - Họ còn nói thêm: - Sau khi lấy lại các mảnh đất thật màu mỡ của quân Minh và của những tên phản bội, chúng ta sẽ cày cấy chúng theo nguyên tắc từ xa xưa tức là "Người cày có ruộng". Minh chủ Lê Lợi của chúng ta từng khai khẩn mảnh đất của riêng ngài, chắc chắn ngài cũng chấp nhận nguyên tắc này.

Rồi từ làng này sang xã nọ, Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo và các phó tướng của họ, không ngừng nhắc nhở họ rằng:

- Các bạn hãy ráng bảo vệ những vùng đất vừa lấy lại được từ tay quân thù và các tên phản bội, bởi vì nay mai quân thù có thể trở lại đây. Các bạn hãy tổ chức thành các nhóm dân quân, thâu nhập lại tất cả mọi loại đồ vật dùng để chặt, để cắt hoặc để đâm. Nếu bọn Tàu có đến đây, chúng ta sẽ không cho phép chúng nó tìm ra được một hột gạo để nuôi thân. Nếu cần các bạn hãy thiêu hủy cả mùa màng đi. Hãy tấn công vào đoàn xe tiếp lương thực của bọn chúng. Hễ bụng chúng càng rỗng, người chúng càng yếu và càng dễ bị đánh gục thì chúng càng chống cự tồi đi. Các bạn không được phép quên khẩu lệnh "Chúng ta hãy giết giặc Tàu".

Rồi họ nói thêm:

- Hỡi các dân làng, chúng ta đang chiến đấu dưới ngọn cờ nhân nghĩa. Hãy nhớ rằng, một phần đất đai đã lấy lại được sẽ phải được phân phối cho các nông dân đã dấn thân bảo vệ tổ quốc vĩ đại của chúng ta. Một mai khi chiến cuộc tàn, Minh chủ Lê Lợi của chúng ta đích thân lo việc cấp phát đất đai cho họ và gia đình họ.

Cả hàng trăm người trong số đó nhiều người còn rất trẻ đã từ giã làng mạc để gia nhập đoàn quân. Áo quần của họ thường chỉ là những miếng giẻ rách. Một số chỉ trang bị đơn giản một ngọn tre hay một cây thiết lĩnh. Đây là những dụng cụ dùng để đập lúa. Số khác chỉ đem theo mình cái câu liêm, tức cái móc sắt cán dài gắn theo cái lưỡi liềm thường được sử dụng trong các cuộc cứu hỏa. Mỗi ngày đều có thêm người gia nhập vào quân ngũ.

Thế là với ngần ấy số người gia nhập thêm, đạo quân đã đạt được con số trên 15 ngàn và hiện đang tiến vào châu thổ sông Hồng. Sau khi thực hành các nghi thức lễ bái, họ đã phân nhánh ra theo các hiệu lệnh như sau:

- Đạo quân thứ nhất nhắm mục tiêu chiếm lĩnh hợp lưu ba con sông và vô hiệu hóa viện binh từ Vân Nam đến.

- Đạo quân thứ hai có nhiệm vụ ngăn chặn quân Thiên Triều từ Quảng Tây đến cũng như toán quân địch di chuyển từ Nghệ An tiến về Đông Quan.

- Còn đạo quân thứ ba sẽ tập trung sức mạnh vào phía Nam thủ đô.

Tất cả các đạo quân đều phải nghiêm chỉnh thi hành huấn lệnh sau: ngoại trừ của cải, tài sản của quân Minh và bè lũ phản bội, quân lính tuyệt đối không xâm phạm tài sản nhân dân đồng thời phải bảo vệ mùa màng sắp được gặt hái.

—★—

Trời đã về đêm. Danh tướng Phạm Văn Xảo biệt danh Kiếm Ngọc đang rong ruổi tiến dọc theo bờ sông Thái Bình tiến về ngã ba sông (hợp lưu với Sông Thương và Lục Nam) trên lưng chủ ngựa Mường, món quà do thủ lĩnh Hiểm, người sơn cước, biệt danh Chồn Ngoài Hang đã tặng chàng. Trên đầu chàng vầng trăng đang dõi theo bước chân ngựa đi. Phía trước mặt chàng, đoàn phu khuân vác thỉnh thoảng khua chàng bó đuốc chạm vào các bụi rậm để gạt tàn. Tia sáng tóe ra rọi chiếu khắp cánh đồng. Xoay mình trên yên ngựa, chàng nhận ra những hàng quân tiên phong của mình đang di chuyển dưới ánh lửa lập loè. Các chiến binh bước đi êm ru dịu dàng và lặng lẽ như những chú mèo. Chàng chia sẻ niềm hưng phấn trước khi xông vào trận mạc với các chiến binh anh dũng này. Trước kia thân phụ chàng đã từng là một chiến binh. Vào năm Đinh Hợi 1407, ông ấy đã gây dựng lên một đội quân nông dân nhằm mục đích phò trợ Vua Trần Ngỗi và rồi đã anh dũng phơi thây ngoài trận mạc. (Theo niềm tin bình dân thì người trai đức hạnh thường chết ở trận mạc còn kẻ hung ác thì chết ở nhà mình).

Cũng thế, chàng chẳng mong chờ một số phận khác hơn. Giác quan chàng cực kỳ tỉnh táo trong lúc chàng phi ngựa: Đây là một phản xạ được hình thành nhờ những năm hoạt động bí mật. Dưới ánh đuốc thì mỗi bóng người tựa như một địch quân, một cánh rừng giống hệt một đoàn quân. Chàng phóng tầm nhìn về Mộng Tuân biệt danh Trời Con đang thiu thiu ngủ chập chờn trên lưng ngựa, rồi lại tiếp tục theo đuổi dòng suy nghĩ của mình. Quân Tàu chẳng thể tìm ra được lấy một người để cậy dựa ở các tỉnh miền Bắc vừa được giải phóng này. Dân chúng Đại Việt hoàn toàn chống đối chúng. Chúng cảm thấy điều đó nên càng rút chặt vào thành quách của mình. Nếu như viện binh không đến, chúng sẽ phải đâm đầu vào những thảm họa khủng khiếp nhất. Tâm hồn Phạm Văn Xảo tràn đầy hoan lạc khi chàng dự đoán điều này. Ôi! Chàng thèm được đấm đá thẳng tay vào cái bọn viện binh từ Vân Nam xuống biết bao để chặn đứng chúng lại!

Kể từ lúc còn chiến đấu như một chú bé trong băng nhóm của Lê Lợi đến nay, hình như chàng chỉ sống để chờ đợi trận chiến này. Chàng như thấy lại hình ảnh Chủ soái tê Lợi lúc bấy giờ đang cầm đầu đám chăn trâu. Ngay từ thuở ấy, uy tín của Lê Lợi đã rền vang đến nỗi các đối thủ cũng cảm thấy kiêu hãnh nếu được gia nhập băng nhóm ngài chứ không hy vọng gì chiến thắng được ngài. Thực tế, ngoại trừ Trần Nguyên Hãn ra thì Lê Lợi thực sự là người chế ngự được đối thủ mình nhờ vào cái đặc ân làm cho ngài như có thần tính đoán ra được nhược điểm tinh tế nhất của đối thủ, sau đó chỉ cần ngài ra tay một cái lập tức các sinh mạng bị kết liễu ngay! Ngài đã nhận được sự suy phục tận trung của binh sĩ mình. Trường hợp tận trung báo Chúa của Lê Lai biệt danh Con Vượn cho thấy rõ điều này. Ngài sinh ra để làm chủ kẻ khác. Chưa ai từng gây được ảnh hưởng trên ngài trừ Nguyễn Trãi... Phạm Văn Xảo thở dài... Chàng khâm phục nho sĩ ấy nhưng không cảm thấy mến yêu. Chàng thầm nghĩ: "Quyền lực của quân sư Ức Trai thật đáng sợ!". Nó không được đo lường bằng tài cung kiếm. Nó hoàn toàn phát xuất từ khả năng thâm hiểu, phân tích dự đoán, và tập trung tuyệt vời vào các mục tiêu cần đạt được. Thêm vào đó, vị quân sư còn lại có những quan điểm hết sức độc đáo, một lý tưởng về tự do hết sức tân kỳ. Tất cả đặc điểm ấy khiến con người Nguyễn Trãi trở thành một lãng tử không dính bén vào bất cứ cái gì, lại còn có phần nào cao ngạo nữa! Quả thật đây chẳng phải là một con người đơn giản dưới gầm trời!

Dòng tư tưởng của Mộng Tuân đang ruổi ngựa bên cạnh Phạm Văn Xảo, theo một dòng tư duy ít nghiêm chỉnh hơn lại trùng hợp với suy tư của Phạm Văn Xảo. Rạp mình trên lưng ngựa, Mộng Tuân mơ màng nhìn ánh đuốc mà nhớ da diết những buổi lễ hội ngày xưa. Không hiểu tại sao mà luôn luôn những cô gái mà chàng thèm muốn chẳng hạn như Tiểu Mai, Thị Trân ngày trước hoặc Thị Lộ ngày nay, đều vẫn chẳng ngó ngàng gì đến chàng! Họ chỉ thầm yêu trộm nhớ Nguyễn Trãi, dù chàng nho sĩ ấy chẳng mấy chú ý đến họ. Bao tháng năm gian khổ nằm gai nếm mật ở vùng bưng biền cũng vẫn không thể giết chết nổi bản chất "con ông cháu cha" nơi Mộng Tuân. Thực xứng với biệt danh "Trời Con" người ta gán cho chàng trai này. Những thử thách gian nan chàng đã chia sẻ cùng Nguyễn Trãi trong cuộc chiến đã đem hai người xích lại gần nhau hơn, hơn là những ngày cùng nhau thi tài trên đường khoa cử thuở trước. Tuy nhiên, đứng trước chàng nho sĩ lúc nào cũng biết ý thức về bổn phận và sống hết sức nghiêm túc khắc kỷ này, Mộng Tuân vốn là một con người đầy thị dục khát khao được thỏa mãn vẫn còn tiếp tục cảm thấy khó chịu, nhất là thái độ thờ ơ của Nguyễn Trãi đối với cô gái Thị Lộ làm chàng hậm hực hơn hết. Trong suốt những năm tháng gian khổ này, Mộng Tuân nhận thấy Thị Lộ đã biến chuyển từ một cô bé ốm yếu trở thành một thiên thần mỹ lệ. Chính là nhờ lòng mộ mến nồng nàn đối với Nguyễn Trãi mà ngày qua ngày nàng đã trở nên càng ngày càng diễm lệ hơn, thông thái hơn để rồi cuối cùng nàng trở nên tuyệt hảo như một bậc anh thư trong huyền thoại, và trở thành cái biểu tượng nồng nàn, sáng chói cho cuộc chiến đấu chung vì chính nghĩa của họ. Lãnh nhiệm vụ tiếp lương, lắm phen nàng đã dấn thân vào những nơi gian nguy lớn lao, nhất là từ ngày vị hôn thê của Lê Lợi hy sinh, thì chính nàng đã bao lần hoàn thành nhiệm vụ tiếp lương ngay trước mũi đám Tàu. Ôi! Nguyễn Trãi có biết điều ấy không nhỉ? Hay đối với ông ta, đó cũng chỉ là một trong vô số hành vi anh hùng đã giúp họ giải phóng vùng châu thổ sông Hồng? Mộng Tuân tự nhủ thầm: "Con người nho sĩ này thực là hết chịu nổi!". Chàng hổ thẹn vì đã không hiểu được con người ấy, và cảm thấy rằng con người ấy quá cao vời nên không ai có thế hiểu được y. Người anh em đồng khoa ấy có phải là một triết nhân đang dấn thân vào hoạt động hay là mẫu người hành động đã đạt tới được minh triết?

Và như thế, những chàng chiến binh rong ruổi tiến vào trận đánh quyết định. Đêm nay, trước giờ lâm trận, mỗi người tự ngẫm nghĩ về số mệnh của mình. Tất cả đều tự cho phép mình những phút giây tạm nghỉ sau cùng này để nhìn về quá khứ bè bạn và tình yêu như hướng về một chỗ dựa.

Còn phần ngài thống tướng Trần Nguyên Hãn, biệt danh Hổ Trầm, đang dẫn đầu hai ngàn lính tiến về châu thổ sông Hồng, ông đang mơ màng gì vậy? Nẻo đường kỷ niệm nào đang tháp tùng vó ngựa miền sơn cước của ông đây?

Không tí lơi lỏng nhiệm vụ chỉ huy của mình, ông bỗng rùng mình hồi tưởng lại khoảng thời gian về trước, khi mà ông thực sự lo sợ chẳng làm nên được trò trống gì và không biết sẽ có lãnh tụ nào xuất hiện để cứu nước Đại Việt không. Thế rồi Lê Lợi đã xuất hiện ở bầu trời phương Nam. Nếu Thượng Đế đã không an bài, quy tụ tất cả mọi ngọn lửa nhỏ bé lập loè rải rác đó đây để gây nên một luồng lửa lớn và quy phục tất cả nhân tài về cho Lê Lợi thì rất có thể ngài chỉ là thủ lĩnh của một băng nhóm nổi loạn vô danh thôi. Với tâm hồn khiêm tốn, Trần Nguyên Hãn chỉ dám suy nghĩ về Nguyễn Trãi, người anh em họ của mình. Từ ngày chung sống ở ruộng Khả Lam đến nay, Lê Lợi có bao giờ rời xa anh ấy lấy một ngày? Đôi mắt ông mơ màng nhìn về vùng Châu Thổ mênh mông sẫm tối. Vầng trăng mờ nhạt đang le lói trên ruộng đồng tháng 8. Không có "Chiến Lược Bình Ngô" của Nguyễn Trãi, liệu Lê Lợi có tiến hành được một cuộc chiến thế này không? Trước đây Trần Nguyên Hãn đã từng đánh giá thấp chiến lược này. Ông cho rằng đó chỉ là những tư tưởng của một chàng nho sĩ bức xúc hành động, đó chỉ là những xây đắp của một anh chàng mơ mộng, ai đời lại nghĩ đến việc kết hợp việc thu phục nhân tâm với hoạt động quân sự và ngoại giao. Ôi! Đây chỉ là một lý thuyết cao cả thật đấy nhưng không thực tế! Quả vậy, trước đây Hãn đã không chấp nhận được điều mà Lê Lợi, con người nông dân ấy lại thấu hiểu ngay. Sức mạnh thần kỳ nằm ở nơi nhân dân. Chỉ cần đem lại cho họ cuộc chiến tranh giải phóng là hàng trăm ngàn nam nhân, phụ nữ này sẽ trở thành một đòn bẩy diệu kỳ làm lệch ngay cán cân lực lượng! Nguyễn Trãi lặp lại không mệt mỏi: "Các nông dân vùng Châu Thổ, cũng như các cư dân vùng đồi núi này chính là những chiến sĩ không mang sắc phục trong một cuộc chiến toàn diện, cuộc chiến của chính họ và vì sự sống còn của họ". Lê Lợi chỉ đạt tới chiến thắng với sự cộng tác giữa ngài và Nguyễn Trãi. Trần Nguyên Hãn quên mất những năm tháng Nguyễn Trãi đã trải qua ở ngôi làng Nhị Khê. Ông ngạc nhiên tự hỏi: "Làm sao cậu bé con trai vị Đại Thần này có thể thấu hiểu nhân dân đến thế nhỉ?

Đáp lại những suy tư của ông, từ phía xa xa vọng lại tiếng trống làng báo hiệu canh ba (từ 23 -1 giờ). Hiện giờ, biết bao nhiêu dân làng thức giấc, trái tim phập phồng niềm hy vọng, nhìn bóng dáng đoàn quân đang âm thầm lặng lẽ hối hả bước ra chiến trường. Câu tự vấn trên kia khiến ông giật mình. Làm sao không nhận thấy tầm ảnh hưởng lớn lao của Nguyễn Trãi trong sự kiện này? Chính vì luôn luôn biết lo lắng cho nhân dân mà vị nho sĩ kia đã đem lại cho chiến tranh một tầm vóc nhân văn. Trần Nguyên Hãn đã từng thấy bao lần vì muốn bảo đảm cho cái sứ mạng cao cả của mình, Nguyễn Trãi đã dám chống đối Lê Lợi. Con Rồng đã phó mặc cho Nguyễn Trãi chiến đấu đơn độc trong cuộc chiến tranh chính trị - ngoại giao với quân thù. Ôi thật là hăng say, thật là đầy nhiệt khí, thật là hiệu quả khi vị quân sư dùng ngòi bút để thuyết phục bọn tướng Tàu về sự vô ích của một cuộc chiến đã thấy vô vọng từ đầu, đồng thời kêu mời họ hạ khí giới!! Những thị thành được thu hồi, những người hợp tác với địch trước đây nay trở về chính nghĩa. Biết bao sinh mạng đã được bảo toàn để đến ngày nay lại được sử dụng tung vào cuộc tiên công cuối cùng! Lê Sát cùng cái bè đảng thường hay châm biếm của hắn đã buộc phải câm miệng. Sự thán phục và cuộc chung lưng chiến đấu đã làm cho Hãn và vị nho sĩ ương ngạnh ấy xích lại gần nhau mật thiết còn hơn là vì hai người vốn là chung dòng máu. Trong niềm quý mến ấy, ông khắc khoải lo âu về mối liên kết giữa hai nhân vật Nguyễn Trãi và Lê Lợi được tạo nên một cách có phần nào miễn cưỡng do sự thúc bách và sức ép của tình thế hiện nay, bởi vì hai người này bản chất thật tương phản với nhau. Nguyễn Trãi đã khắc phục được sự dị ứng thuở ban đầu, còn Lê Lợi thì đã chấp nhận được ở nơi vị nho sĩ cái "con người chuyên môn lên lớp thiên tài". Và chỉ thế đến bao giờ còn cần thiết, nhưng rồi về sau thì sao? về sau này, Trần Nguyên Hãn nghĩ ngợi, ngay chính mình đây, liệu mình có sẽ giữ được sự sủng ái của con rồng Lam Sơn không? Ông vội vã xua đuổi ngay ý nghĩ hắc ám này và tập trung suy tính những kế hoạch cho trận chiến sắp tới...

Trong khi đó, chàng Đinh Liệt tận tâm đang len lén nhìn ngay khuôn mặt vị chủ tướng và thầm đoán về những điều mà người đang suy nghĩ. Chàng thanh niên hào hoa 32 tuổi xuân này có làn da mịn màng màu sặc sỡ được mệnh danh là Thân Gấm, cũng chẳng kém phần tinh tế. Chàng lấy làm ngại ngùng cho Trần Nguyên Hãn bởi vì danh tiếng ông ta đã khiến cho chính Lê Lợi cũng bắt đầu có chút tị hiềm. Riêng về phía dân chúng thì vì phải sống dưới ách thống trị Tàu nên đã dễ quên đi sự suy thoái của các vị Vua đời Trần cuối cùng. Họ chỉ nhìn thấy nơi Trần Nguyên Hãn hình ảnh một thống soái tài ba đầy chiến công, một Hoàng thân hậu duệ của một triều đại đã từng ba lần đánh thắng quân Mông Cổ! Lòng đầy nhiệt thành, họ đã tùng phủ phục dưới chân Hãn. Làm sao Đinh Liệt quên được ánh mắt sắc như thép của Lê Lợi ném về phía Trần Nguyên Hãn! Một mai, khi đạt được chiến thắng rồi, liệu con Rồng Lam Sơn có để yên cho con Hổ Trầm này không? Nhiều phe nhóm đang được hình thành: nào là phe nhóm Lê Sát biệt danh Sấu Thần, rất nham hiểm và đố kỵ với quân sư tài ba Ức Trai và Trần Nguyên Hãn, nào là phe nhóm các bè bạn thời thơ ấu của Lê Lợi, nào là phe nhóm dân sơn cước cửa Hiểm, biệt danh Chồn Ngoài Hang. Ông tướng kỵ binh thượng du này không cho phép đám người Kinh quên rằng những người dân sơn cước đã cùng với họ từng chung một giàn, như bí như bầu. Hiện nay trong cuộc chiến, sự phân chia thành phe nhóm ấy được đẩy lùi xuống hàng thứ yếu. Nhưng một khi hòa bình tái lập, Đinh Liệt tin chắc sẽ xảy ra một cuộc tranh chấp không khoan nhượng để giành ảnh hưởng giữa các phe nhóm...

Trong khi đó, từ phía sau chàng, cái bụng háu ăn của Lê Ngân với biệt danh Bất Đắc Kỳ Tử phát ra những tiếng óc óc nghe thật phát tởm! Đinh Liệt ném về chàng ta một tia nhìn giận dữ. Chàng thầm nghĩ: "Ai có thể làm nguôi đi cái "bộ lòng" của thằng cha này nhỉ? Hắn xem việc giết chóc là một nghệ thuật điêu luyện cần phải trau dồi liên tục, vũ khí hắn khoái nhất là một con dao đã cưa bớt cán dài để đánh giáp lá cà161 cho man rợ hơn. Hắn không ngừng tinh luyện ngón nghề của mình. Khi hắn cầm con dao bằng hai tay xông tới, vung cao lên quay vù trên không rồi đâm, rồi thọc, rồi chém xuống, trông mới khiếp đảm làm sao! Như thế, hắn tạo ra một khoảng không xung quanh mình và thịt đổ xương rơi khủng khiếp. Tìm đâu cho ra được một chiến binh hăm hở tàn sát quân thù để giữ gìn mảnh đất quê cha đất tổ như hắn? Tại đèo Kình Lộng năm Tân Sửu (1421), trong số 1.000 thủ cấp quân Ngô của Trần Trí, thì hắn ta xơi tái cũng cả trăm. Anh chàng mập ú với đôi gò má nhô ra, cặp mắt tàn bạo, giết người như ăn uống, giết hả hê, giết điệu nghệ, giết tỉnh queo, tóm lại là giết người hết sức kỹ thuật. Hiện chàng giết người bẩm sinh này đang yên tĩnh tiêu hóa thức ăn theo nhịp tiếng óc óc thoát ra từ cái bụng của hắn.

Trong cùng thời gian này, sau khi tiến đến mạn Đông vùng châu thổ, đạo quân 6.000 chiến binh do Lưu Nhân Chú biệt danh Diêm Vương và Lê Thụ biệt danh Tận Thoát chỉ huy đã phân thành hai nhánh theo quân lệnh và tách rời nhau tiến tới về hai hướng. Lưu Nhân Chú, biệt danh Diêm Vương, lãnh nhiệm vụ chặn đứng đường xâm lăng từ Quảng Tây đến, đã đồng ý với Thống tướng Trần Nguyên Hãn trên nguyên tắc là tất cả sức mạnh hiện tại của họ tùy thuộc nơi sự hiểu biết toàn vẹn về địa thế, về sự linh động cực kỳ và về khả năng can thiệp vào hầu như toàn bộ bình nguyên vùng châu thổ. Sau nhiều mệt mỏi vì sự chống cự kéo dài, vì những cuộc tập kích, mai phục, giờ đây trong tất cả sự kiện, Nhân Chú chỉ còn ao ước một điều này thôi: Đó là cuộc tổng tiến công đè bẹp và tiêu diệt cho đến tận cùng toàn bộ lũ quân Tàu. Với nắm đấm bằng sắt, vị tướng chỉ huy bộ binh này sẽ dốc quyết trừng trị bọn quân Tàu theo đúng bản chất tội ác của chúng y hệt các Diêm Vương 10 tầng địa ngục, biến cuộc chiến thành một việc trả đòn riêng tư của mỗi một người. Lính của ông được luôn nhồi nhét vào đầu sứ điệp này: "Mỗi đầu lính Ngô bị chém là để dâng tế vong hồn thân nhân của các gia đình đã bị chúng sát hại". Thêm vào tiếng hô "Chúng ta hãy tàn sát giặc Tàu", ông ta còn dùng cử chỉ đưa lưỡi dao xoáy mạnh như thể đang rạch bụng quân thù với niềm vui thích dã man, dị thường. Chỉ một phương cách làm dịu đi lòng say máu báo thù của ông nội Diêm Vương này, đó là giết, và giết.

Ngược hẳn với Nhân Chú, trên đường dẫn quân dọc sông Hồng với mục đích ngăn chặn những toán quân Thiên Triều của Lý Ngân và Phương Chính từ Nghệ An kéo về hướng Thủ Đô, Lê Thụ với biệt danh Tận Thoát, đang đón chờ giờ xung trận với tâm hồn đầy thanh thản. Cũng như bất cứ chàng trai trung nghĩa nào khi Tổ quốc lâm nguy đang mời gọi, Lê Thụ ý thức được bổn phận của mình là phải đi chiến đấu cho đến trận thắng cuối cùng. Sau đó, chàng sẽ lui mình vào vùng rừng núi, tiếp thu lời phật dạy, tự giải thoát khỏi mọi dây ràng buộc với thế gian và như thế sẽ cứu rỗi được chính mình. Đây là con đường đẹp nhất, phù hợp với bản chất luận hướng về tuyệt đối của chàng. Trong đêm khuya thanh vắng này, chàng đang tự nghe tiếng của chính mình đang tụng niệm ba lần lời tâm nguyện. Gương mặt rõ nét một sự đói khát tâm linh, dáng điệu khắc khổ, thêm vào một lối sống nghiêm ngặt của chàng khiến mọi người đều kính phục. Người ta bảo rằng: Đây là một con người cứng cỏi nhưng công chính, một con người khổ hạnh đến mức cô gái đẹp tuyệt trần nhất cũng chẳng làm rung động được một sợi ria mép. Thế mà đã có một lần và chỉ lần đó thôi người ta thấy gương mặt thạch băng ấy bị rung động. Sự kiện này xảy ra cách đây ba năm khi vị hôn thê của Minh chủ Lê Lợi tức nàng Ngọc Trân hy sinh thân mình. Người phụ nữ xinh đẹp và anh dũng này đã hy sinh làm mồi cho sóng nước để làm nguôi cơn giận của Trời Già. Hành vi cao đẹp ấy đã khiến cho nhà khổ hạnh Lê Thụ phải tuôn ra hai giọt lệ to lớn mà chẳng thèm tìm cách che giấu. Một con người siêu thoát như thế mà đã phải khóc và nhất là khóc vì một phụ nữ? Ai mà không khỏi xúc động..?

…trừ Lức ra, cô nữ sát thủ lừng danh. Cô ta vốn hiểu rõ tâm can nhà khổ hạnh và theo chàng khắp nơi. Nàng dẫn đầu một phân đội thật đáng gờm. Khuôn mặt nhợt nhạt vô cảm của nàng sừng sững như cú đấm giữa trời đêm. Lúc đang lầm lũi bước tới... làm sao kể hết chiến công của nữ sát thủ này. Bọn lính thù đang canh gác bị cô cắt cổ từng đứa một, không tiếng động mà cũng chả tiếng kêu! Chính cô nàng đã rạch nát thân thể từ trên xuống dưới những thằng lính Ngô cầm đèn dọi đi trước và cả những tên lính xộc xệch lê bước ở cuối đoàn quân. Nàng hành động lặng lẽ và nhẹ nhàng hơn chú rắn, chớp nhoáng hơn cá diều hâu, hèn chi mà chẳng con mồi nào thoát khỏi tay nàng. Nàng cắt tiết, uống máu, nhai gan giặc thù với lòng vô cảm. Nào ai đã từng thấy tay nàng run, mắt nàng hãi bao giờ? Gò má nàng nhợt nhạt như người chết, đôi mắt sâu hoắm tựa vực thẳm, chiếc miệng lúc nhúc hàm răng đen thui giống hệt nấm mồ. Sánh với nàng, Lưu Nhân Chú biệt danh Diêm Vương và Lê Ngân biệt danh Bất Đắc Kỳ Tử vẫn là những sinh vật quái dị còn vướng chút ít lòng nhân đạo. Nàng làm cho chính Lê Lợi cũng phải rùng mình.

Và thế là bốn toán quân lần lượt tiến vào vị trí riêng của mình. Đối với các chủ tướng của họ, sự kiện quân số ít hơn quân Thiên Triều chẳng mấy quan trọng. Tất cả đều rực sôi lửa chiến đấu. Giống như những đạo quân nước Việt trước đây, từng chiến đấu đối mặt với đội quân Trung Hoa khổng lồ chuyên dùng lấy thịt đè người theo một binh pháp cổ điển, họ không được cho phép quân địch trương ra toàn vẹn sức mạnh hoặc cho chúng tấn công họ bằng những chiến thuật sở trường của chúng, ngược lại họ phải khéo léo chiến đấu với lũ quân thù đ