← Quay lại trang sách

Chương 3

Kể từ đây, hai đạo quân lớn mạnh trực diện đương đầu với nhau: một bên nắm thế chủ động tấn công còn bên kia chui vào thủ đô giữ thế thủ để phục hồi sinh lực và cầu xin nhận được những viện trợ mới từ Trung Quốc. Nhưng liệu Lê Lợi và Nguyễn Trãi có để cho chúng đủ thời gian không?

Trong hai tháng cuối của năm Bính Ngọ ấy (1426), tình trạng quân Tàu bị bao vây trong thành ở Đông Quan có thể sánh ví như một chú cọp bị thương đang bị thợ săn dồn vào đến tận hang, đang cố gắng một cách vô vọng phá vòng vây. Mỗi cuộc xuất quân ra ngoài của chúng đều bị đẩy lui đem lại cho chúng tổn thất nghiêm trọng, trong khi Lê Lợi đã thiết lập nơi vùng Châu Thổ này nền hành chính của mình, chỉ định các quan chức dân sự và quân sự, mỗi ngày càng chiếm thêm được đất đai.

Chính ngay lúc đó, Thống tướng Vương Thông sai một sứ giả đem kiến nghị xin cầu hòa đến.

Chính một vị tướng công thay mặt cho Hoàng Đế phương Bắc phải dâng nghị hòa là biến cố làm cho bộ tham mưu quân Việt ngạc nhiên xôn xao bàn tán.

Thật là bất ngờ, Lê Lợi chấp nhận những lời xin cầu hòa. Ngài chỉ biện minh bằng một câu "Tiêu diệt quân thù mà không cần phải giao chiến, đó là giải pháp tốt nhất". Nhưng trong khi một mặt ra lệnh hủy bỏ tức thời việc vây hãm các thành trì quân Tàu đang chiếm đóng đồng thời cho phép chúng dẫn quân đội về Đông Quan chờ ngày trở về Trung Quốc, mặt khác Lê Lợi ra chỉ thị cho Trần Nguyên Hãn lợi dụng cuộc đình chiến này để tuyển quân và sẵn sàng đem quân đội đến can thiệp, đồng thời giao cho lão thợ mộc Từ Chi phận vụ xây một tháp canh ở Bồ Đề phía hữu ngạn sông Hồng, từ đó ngài có thể thăm dò những hành động của địch quân trong vòng tường lũy thành Đông Quan.

Tất cả sự việc xảy ra theo như trực giác tinh nhạy của Lê Lợi cho ngài biết rằng tướng Tàu Vương Thông một mặt cầu hòa, nhưng thực ra hắn đang chuẩn bị chiến tranh. Hắn tăng cường các cộng sự mới, nấu những đồ cổ quý giá của Đại Việt để chế tạo đại pháo, phái những giao liên bí mật về Bắc Kinh yêu cầu tăng viện... Nên chính ngài Lê Lợi cũng bao vây trở lại các thành lũy của tụi Tàu ngay sau khi giải tỏa và đóng chốt ở bốn cửa Kinh thành, đồng thời kéo phần lớn quân lính về đó.

—★—

Quả nhiên điều Lê Lợi tiên đoán đã xảy đến rất nhanh.

Hoặc nhằm chủ đích tranh thủ thời gian, hoặc do các tên cộng sự người Việt vì quá lo cho số phận chúng thuyết phục, tên Thống tướng Vương Thông bỗng dưng truyền lệnh kéo dài các cuộc thương thuyết, đồng thời hối hả bí mật chuẩn bị cho cuộc chiến.

Ngay khi được gián điệp trong thành cho tin rằng các thám báo Tàu đang trên đường đến Trung Quốc, Lê Lợi liền gài bắt chúng và lập tức phản ứng bằng cách bao vây các thành lũy vẫn còn trong tay bọn Tàu và siết chặt vòng đai quanh thủ đô.

Dù sao đi nữa, cả Lê Lợi lẫn Nguyễn Trãi vẫn không mất niềm hy vọng sẽ tiễn được "Ngài Tướng công" Vương Thông ra đi mà vẫn không làm mất mặt hắn và cũng chẳng cần phải giao chiến.

Ngày nào cũng thế, từ dinh trại đóng tại Bồ Đề, Con Rồng Lam Sơn leo lên ngọn tháp do Từ Chi dựng lên để quan sát các hành động của quân thù ở giữa lòng Kinh thành Đông Quan, trong lúc ấy ở tầng dưới, Nguyễn Trãi đang ngồi trước án thư cầm ngọn bút lưu loát thảo ra từng lá thư khác, kêu gọi Thống tướng Vương Thông chấm dứt sự thù nghịch.

Đã qua đi rồi cái thời một số đồng bào của Nguyễn Trãi chế nhạo, xem Nguyễn Trãi như "một chiến binh nghiên bút cả tin rằng có thể lật đổ thành lũy bằng vài nét chữ". Những người ấy chẳng biết nghĩ xa và cũng chẳng biết ứng dụng nguyên tắc "Hãy biết rõ kẻ thù của mình". Họ đã quên rằng thời nào cũng thế, những đoàn quân xâm lăng thường gồm số đông binh lính và sĩ quan bị sự cưỡng bách và sự sợ hãi buộc họ phải đi giao chiến mà thôi. Vì thế phải kêu gọi lương tri Khổng giáo của họ về bổn phận, phải chiếm thiện cảm của họ, hay ít nữa chiếm được sự trung lập của họ, đồng thời làm nản chí những kẻ cố chấp bằng cách tỏ cho chúng thấy lý do chiến đấu của chúng là bất chính và do đấy chắc chắn chúng sẽ bị thất bại. Trong những năm vừa qua, Nguyễn Trãi đã dùng thư ngỏ với các tướng lĩnh Tàu, với các chỉ huy các thị trấn. Làm như thế, chỉ một mình chàng đã dùng ngọn bút giao đấu một trận chiến lớn: Đem nhân nghĩa chống sự tàn bạo, đem ánh sáng rọi vào chỗ tối tăm, đem thiện lương chống lòng gian trá, đem sự cao thượng chống lại sự đê hèn. Và các thành trì đã quy hàng. Ai còn dám phủ nhận sự đóng góp quan trọng và độc đáo của Nguyễn Trãi xét về mặt chiến thuật tân kỳ cũng như về mặt nghệ thuật chiến tranh? Đó chính là con đường "Tâm chiến", một thứ khí giới để chiến thắng và để thuyết phục. Nếu không phải là mọi người đều hiểu rằng đây là một việc làm mà chỉ dùng quân đội mà thôi thì không thể hoàn thành, chắc chắn cuối cùng họ sẽ phải nghiêng mình trước những thành tựu đã đạt được. Chính nhờ sức mạnh của "các tâm thư ngỏ gửi các đạo quân" mà Nguyễn Trãi đã thu phục được các thị trấn Ngọc Mã, Tân Bình, Diễn Châu, và trên tất cả, đã thu nhận được sự đầu hàng của tay tướng lĩnh tài hoa Thái Phúc, Tổng trấn Nghệ An. Chính ông này giờ đây lại sẵn sàng đi thuyết phục các bạn đồng hương của mình ở thành Xương Giang ra đầu hàng. Lê Lợi, với giọng vang tựa sấm rền đã thốt lên "Một lá thư của Nguyễn Trãi đáng giá cả một đạo quân!".

Trong giai đoạn hiện nay, khi hai đạo quân đang án binh trong vị trí của mình thì hành vi ngoại giao đang thay thế và bổ túc cho hoạt động quân sự. Nếu trận chiến Tốt Động đã làm lung lay tinh thần lính Ngô, thì sự hoãn chiến còn làm tăng nỗi hoảng sợ cho chúng khi chúng phải đối đầu với đội quân đối thủ không nuôi lòng báo oán đối với chúng. Vì thế, những lá thư ngỏ với Vương Thông không ngoài mục đích nói thẳng ra rằng quân Việt không phải đã bị lừa, rằng họ có thể chiến thắng quân Ngô, bằng chứng là họ đã thu hồi hết thành trì này đến thành trì khác nhưng tốt hơn hết vẫn là đặt một dấu chấm hết cho cuộc chiến. Trong cuộc chơi thẳng thắn này, mỗi chữ tượng trưng bước tiến của một con tốt, Nguyễn Trãi hy vọng rằng cuối cùng Vương Thông sẽ hiểu rằng các đơn vị của hắn sẽ bị hao mòn nếu hắn cứ khư khư bám vào niềm hy vọng hão huyền sẽ nhận được sự tăng viện từ Trung Quốc.

Lá thư đầu tiên viết ra vào tháng cuối cùng năm Bính Ngọ (1426) ngỏ với Thống tướng Vương Thông và để yêu cầu họ thực hiện đúng lời giao kết như sau:

"Tôi nghe nói: Tín giả quốc chi bảo. Nhân nhi vô tín, kỳ hà dĩ hành chi tai" (điều tin là vật báu của nước! Người mà không có điều tin thì còn làm trò gì). Trước đây tiếp được thư của các ngài và các ngài sai người ra nói ước sự hoà giải, tôi đã nhất nhất nghe theo. Nay xem trong thành vẫn đào hào đóng cọc đắp luỹ dựng rào, huỷ đồ cổ để đúc súng đạn, sửa chiến khí (Sử ký chép: Vương Thông lấy chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh162, huỷ ra để đúc súng đạn, lại đắp cao thêm luỹ thành Đông quan, đào hào đóng cọc). Như vậy thì các ngài định rút quân về kinh chăng? định bền giữ thành trì chăng? đều không sao hiểu được. Truyện có câu: "Bất thành vô vật" (nếu không thành thực thì việc gì cũng đều hỏng cả). Ngài nếu thực không bỏ lời trước, thì việc làm tưởng nên minh bạch những lẽ lợi hại. Định rút quân thì rút quân, định đóng giữ thì đóng giữ. Cớ sao mặt ngoài thì vờ vĩnh kết hiếu, bên trong lại ngầm ngấm mưu toan? Tưởng chẳng nên sau trước trái nhau, trong ngoài bất nhất như vậy. Kẻ tiểu dân ngu nhưng mà tinh lắm. Tôi dẫu mờ tối không biết gì, nhưng thật có như lời cụ Khổng Tử nói: "Thị kỳ sở dĩ, quan kỳ sả do, sát kỳ sở an" (Xem cách dùng, nhìn lối đi, xét chỗ đứng), như vậy thực dối của lòng người, dẫu nhỏ bằng tơ tóc cũng không thể che giấu được. Thư nói không hết"

Lá thư thứ hai viết vào tháng giêng năm Bính Mùi (1427) nhắc Vương Thông nhớ lại lời hứa rút quân ra khỏi các thành trì ngay sau khi hắn sẽ dâng biểu thỉnh cầu Hoàng đế Trung Hoa chấm dứt sự thù nghịch đối với Đại Việt. Lá thư như sau:

"Kính thư gửi trước Tổng bình đại nhân. Tôi nghe nói: "Lấy thành thực đãi người thì người cũng lấy thành thực đáp lại". Cái đạo chí thành có thể động đến trời đất, cảm được quỷ thần, huống chi là người? Nay ngài vâng mệnh ra ngoài cửa khổn163, nhẽ ra phải lấy thành thực đối đãi với người ta, thế mà lại đem lòng dối trá lừa người, tự cho là mưu cao, xem tôi là không biết gì. Việc binh gian trá, ngoài nói giảng hòa, trong tính kế khác, trước nói hễ dâng biểu thì rút quân ngay, sau lại dựng rào đắp luỹ, xây thành đào hào.

Việc làm như thế, là thành thực chăng? Là trá ngụy chăng? Ngày xưa quan đại phu ra ngoài biên cương, việc gì cũng được tự quyết. Huống chi ngài là bậc tướng súy đã đọc thi thư, khi vâng mệnh sang đây lại đã được phép tiện nghi hành sự, thế thì phàm công việc ở ngoài cửa khổn, há lại cứ nhất nhất chờ mệnh lệnh của Triều đình sao? Vả lại binh quý mau chóng, máy then mở đóng, như xe chuyển, như mây bay, trong khoảng chốc lát, chợt nóng, chợt lại rét, ngài há lại không biết thế sao mà lại nghe kế bọn tôi gian Mã Kỳ, quân tàn Phương Chính, mà hồ nghi do dự, không dám quả quyết. Trước ngài đã có văn thư thu bính mã ở các vệ sở, lại bảo rằng vì trong thành đất hẹp, hãy trước đem quân nhân ở thành về, còn quân các vệ ở ngoài sẽ theo về sau. Đến nay quân các thành Diễn Nghệ đã lục tục kéo đến, mà lời nói trước lại hình như bắt gió bắt bóng, là chuyện hão huyền. Thế mà ngài không những lừa dối một mình tôi, lại còn lừa dối cả hơn sáu bảy nghìn người ở vệ sở các thành. Tôi lấy lòng tôn kính Triều đình, thương hại tính mệnh hơn sáu bảy nghìn con người, nên nghiêm cấm quân sĩ không được phạm chút tơ hào. Thế mà ngài nghe kế của bọn tiểu nhân, định lấy lòng hại tôi để lây hại cho kẻ khác. Kể ra, ngựa Hồ hí gió bắc, chim Việt đậu cành nan164, thường tình người ta, ai khỏi tưởng nhớ quê hương! Nay kế của ngài đã hỏng, hơn sáu bảy nghìn quân các vệ sở căm hờn oán giận, sâu đến cốt tủy, chẳng ai lạ không nghiến răng nắm tay thề không còn trông thấy mặt ngài. Họ đều xin tôi quyết một phen tử chiến. Ngài nếu quả y lời ước cũ, thì nên rút quân về để trọn điều tử tế ngày trước. Tôi cũng xin đem quân nhân các thành cùng binh mã bắt được trả về đủ số. Nếu không như thế, thì tôi xin đem số quân các thành ngậm oán chứa giận cùng ba mươi vạn quân của tôi để thừa tiếp ở dưới thành. Tùy ngài xử trí thế nào, tôi xiết bao run sợ, đợi chờ mệnh lệnh. Thư nói không hết".

Thế nhưng mặc kệ cho Nguyễn Trãi tha thiết yêu cầu, Vương Thông vẫn cứ khăng khăng ngoan cố. Sở dĩ thế là cũng có lý do vững chắc. Hắn biết rằng Đức hoàng thượng, vị Thiên tử Trung Hoa, vào đầu năm Đinh Mùi (1427) đã quyết định gửi một đoàn hùng binh đến Giao Chỉ mặc dù tại Trung Hoa tình hình đen tối tại quốc nội đang có chiều gia tăng. Vì thế hắn chỉ có lặp đi lặp lại một câu trả lời với Nguyễn Trãi về những ý định hòa bình của hắn.

Thật đúng là "nói một đằng làm một nẻo" hoặc nói theo ngạn ngữ Tàu "Đầu lừa không hợp với miệng ngựa!".

Tuy nhiên một trong những lá thư sau cùng của hắn, Vương Thông bó buộc tự biện minh bằng cách nêu lên một vài ngờ vực về chủ ý của Lê Lợi trong vấn đề chuyển quân. Hắn nói rằng để giao kết hòa bình cần phải cả hai bên tham dự chứ?

Trước trò dối trá trắng trợn này, Lê Lợi và Nguyễn Trãi nào chịu bó tay. Nếu họ đặt vào hàng trung lộ những con tốt chỉ nhằm mục đích lôi kéo sự chú ý của địch quân thì họ cũng không kém phần lo di chuyển những hàng tốt hai bên cánh nữa chứ! Tóm lại, họ di động, đồng thời lại quả quyết rằng không họ di động. Chiến thuật của họ thật đơn giản: ngăn chặn viện binh đến từ hai con đường xâm lăng cố hữu, một hướng từ Quảng Tây, một hướng từ Vân Nam tiến về tận thủ đô. Vì thế việc thiết yếu là phải chiếm cho được bằng mọi giá tất cả thành trì của quân Tàu dọc theo các lộ trình trên, cướp đi những địa điểm quý giá cung cấp lương thảo cho quân Minh.

Vào đầu năm Đinh Mùi (1427) lần lượt từng thành trì bị rơi vào tay nghĩa quân: Tam Giang, Thị Cầu, Khâu Ôn, Chi Lăng. Còn Xương Giang, căn cứ có tầm quan trọng bậc nhất trên đường từ Quảng Tây hiện bị quân của hai tướng Hổ Trầm Trần Nguyên Hãn và Sấu Thần Lê Sát vây hãm thì vẫn còn đang cầm cự.

Tại Đông Quan, Vương Thông vẫn tiếp tục khăng khăng chờ đợi viện binh, còn nơi dinh trại ở Bồ Đề, Đại Cố vấn Nguyễn Trãi vẫn kiên nhẫn viết hết lá thư này đến lá thư khác gửi cho hắn với mục đích cho hắn biết rằng hắn đã tính sai và cho hắn biết chọn lá bài "hòa bình" vẫn là thượng sách. Đây là lá thư không biết là thứ bao nhiêu nữa:

"Tôi nghe có người đem chim cắt và chó săn vào rừng, bủa lưới chài xuống chằm, mà bảo người ta rằng: tôi không phải là người đi săn, là người đánh cá. Như thế thì dẫu dài mồm ba thước mà nói cũng không thể tự biện giải được. Chẳng bằng thả chim chó, vứt lưới chài, thì người ta tin ngay. Trước đây, tôi nhiều lần tiếp thư của ngài nói muốn theo những lời trong chiếu thư của đức Thái Tôn khi nói đánh Giao Chỉ về việc cho lập con cháu họ Trần và nói rằng nếu tôi dâng biểu cầu phong thì sẽ rút quân về Kinh, tha tội cho nước An Nam. Lúc đầu ai ai cũng đều vui vẻ tin nhau. Sau mấy tháng ở trong thành cứ dựng thêm rào lũy, sửa sang đồ binh, thì mọi người lại nghi lại sợ. Dẫu tôi là người được đội ơn ngài như trời che đất chở mà cũng còn có phần ân hận, huống là người khác? Ngài nói không phải là người đi săn, là người đánh cá, nhưng ngài chưa thả chim chó, vứt lưới chài để khiến người ta tin lời. Trước đó người ở Khâu Ôn vì uất ức tìm ra được tờ tâu mà ngày mồng 10 tháng chạp năm thứ 1 niên hiệu Tuyên Đức (1426) ngài sai thổ quan Vũ Nhàn dâng đệ, cùng bức thư mà ngày 16 tháng ấy ngài tục sai thổ nhân Từ Thành dâng đệ. Tôi xem ý trong hai bản ấy mới biết ân đức ngài như trời đất đối với muôn vật, phát dục tràn trề, sinh ý ngầm thì mà muôn vật không biết. Thư trước ngài trách tôi "không hay kính thờ trời đất cha mẹ". Tôi không tự biết mang tội rất nặng, chỉ nhưng lo sợ, nhưng tin rằng ngài tất rủ lòng dung thứ, không trách bị đây. Tôi lại thấy trong các văn bản ấy có nói "không vì một góc đất mà làm nhọc điện hạ". Lời bàn ấy thực là xác đáng, Vì khiến ai ai cũng cùng lòng như thế thì thiên hạ tất vô sự rồi. Thế mà các quan trấn thủ, các nội quan cùng các quan Tam ty dẳng dai hội nghị, không đồng ý nhau, không biết các vị đại thần ở Triều đình lại nhùng nhằng kéo dài bàn định như thế nào nữa? Nếu ngài quả mở lòng thành, như thư trước đã nói khi phụng mệnh sang đây được tiện nghi hành sự và được vế trước không phải đợi mệnh, thì ngài nên quyết định chí về, vừa để giải binh tiêu oán, làm phúc cho sinh linh thiên hạ, vừa để đưa dân nhà vua vào đường phải mà nêu tiếng tốt với thiên hạ đời sau, hà tất lại xin vài vạn quan quân để hộ viện. Ngài nên nghĩ lại, chẳng gì bằng thả chim chó vứt lưới chài là hơn. Nếu may mà không nuốt mất lời trước, thì tôi xin mở đường về, phàm sửa chữa cầu đường, cung cấp lương thực, đều xin chuẩn bị sẵn sàng, để đợi quân ở các thành Nghệ An, Thuận Hóa, Tân Bình và Tiền Vệ, không phạm mảy may. Chỉ xin tuân theo mệnh lệnh của ngài. Sự hiềm nghi của đôi bên đều tiêu tan hết. Có trời, có đất, xin chứng giám cho, nếu trái ước này, thần minh tru diệt. Kính xin ngài rủ lòng xét định".

—★—

Ở hai bên bờ sông Hồng, hai đạo binh Việt và Tàu liên tục trao đổi sứ điệp với nhau. Trên bầu trời, mặt trăng và mặt trời luân phiên thay đổi. Sau mùa khô, bây giờ đến mùa nước lũ. Thời gian trôi qua, trong các thành từ Đông Quan và xương Giang, quân Ngô vẫn còn chiếm cứ và cầm cự, thực phẩm và sức lực từ từ cạn kiệt.

Vào khoảng trung tuần tháng tám của cái năm chờ đợi dài đằng đẵng này (1427), tại Đông Quan, thực phẩm trở nên rất khan hiếm và tình hình vì thế căng thẳng. Đám lính kiệt sức đôi mắt hoa lên khác nào những khúc củi khô sẵn sàng bốc cháy. Đã phải đàn áp nhiều cuộc bạo loạn nổi lên, nếu không hoạch định âm mưu phản loạn hoặc đánh lộn với nhau nữa thì một số sẽ bỏ trốn, một số khác vì đói quá nên liều mạng bò ra ngoài bờ thành kiếm ít rau cỏ để ăn.

Vậy mà viện binh vẫn chưa thấy đến.

Ngày qua ngày, gương mặt thống tướng Vương Thông tối sầm lại. Nếu những đạo quân của Lê Lợi quyết định tấn công Đông Quan, thì làm sao với một lũ người gan mật đã tàn lụi vì biết chắc sẽ chuốc lấy thảm bại, hắn có thể điều động ra giao chiến được. Các tướng lĩnh của hắn, kể cả tổng binh Trần Trí, không còn lo nghĩ đến việc bảo vệ một cứ điểm vô phương bảo vệ, cho bằng nghĩ đến sự việc sẽ xảy ra sau khi chúng phải rời bỏ cứ điểm ấy. Còn tên quan Bố Chính Hoàng Phúc, bị giày vò bởi một căn bệnh bí hiểm nào đó, thì chỉ còn tìm thấy niềm vui nơi con voi của hắn, biểu tượng sống động cho sự hiện diện của Đại Trung Quốc tại Giao Chỉ. Chỉ có đám cộng sự người Việt sống trong niềm lo sợ phập phồng, trước viễn cảnh phải giao nộp thành, nên họ không ngừng khuyên nhủ Vương Thông phải chống cự. Chỉ một mình Vương Thông, phải, chỉ mình hắn đã được Hoàng đế Thiên Triều ủy thác, mới có quyền quyết định việc thương lượng. Chỉ nghĩ đến việc buộc phải ký kết hòa ước, nghĩa là chấp nhận sự thất bại chua xót, cũng đủ làm héo hắt ruột gan hắn. Tuy nhiên, nếu viện binh không đến, liệu còn có một giải pháp nào khác không?

Hắn vẫn để qua thêm 10 ngày nữa rồi sau đó nhận được nguồn tin đau đớn về thành Xương Giang thất thủ cùng với hai vị chỉ huy tự sát.

Trong tình cảnh ấy liệu còn vấn đề cứ bàn lùi bàn tới nữa không?

Thế là Vương Thông liền triệu tập chư tướng đến dự một cuộc hội nghị trọng thể. Tiếng đồn về cuộc thương lượng cấp bách đã lan ra dưới mái những hành lang trong Kinh thành. Vào sáng hôm ấy, những quan chức cộng tác với giặc vội vã chạy đến căn phòng của điện Thiên An, mặt mày tái mét vì sợ hãi nên chúng té rắm vãi đái tứ tung.

Trong khi các quan chức dân sự và các tướng lĩnh còn đang đứng chờ thì một trong số hoạn quan quản lý Dinh Thự chạy vào cho Vương Thông hay: Hai sứ giả vừa đến từ biên giới đang khiêm nhượng xin được tiếp kiến ngay.

Nghe thế, Vương Thông giật nảy người:

- Cho họ vào trình diện lập tức!

Quân bảo vệ gác cửa Dinh Thự vội vã dẫn hai tên giao liên vào. Vương Thông quá đỗi vui mừng khi nghe tin đạo quân do tướng Liễu Thăng chỉ huy đã vượt qua biên giới Quảng Tây, đạo quân của tướng Mộc Thạnh đã vượt biên giới Vân Nam, tổng số khoảng 200.000 lính thiện nghệ do các tướng lĩnh chỉ huy hoàn toàn thông thạo chiến địa ở Giao Chỉ.

Thế là sau khi giải tán hội nghị, hắn kêu quan Chưởng ấn lại và hết sức hớn hở nói: "Chúng ta sắp sửa sẽ cho tên cày ruộng Lê Lợi đang tưởng mình đã là Hoàng đế phương Nam biết tay. Trong thời gian chờ viện binh đến, ta cứ để cho hắn lếu láo một thời gian nữa. Sau đó hắn sẽ thấy ai là chủ mảnh đất Giao Chỉ. Nào hãy viết đi!"

Vào chính ngày hôm ấy, khi sứ điệp của Vương Thông đến doanh trại Lê Lợi thì tất cả mọi người đều đã hay biết tin về viện binh Trung Hoa, ho còn biết trước cả Vương Thông nữa kìa!

Trước bộ tham mưu đang nhóm họp, Nguyễn Trãi mở sứ điệp ra đọc. Sứ điệp này cũng chẳng khác gì những sứ điệp trước đây: Nó chỉ lòng vòng nhằm mục đích kéo dài thời gian. Thằng giặc Ngô này thật táo tợn, dám xem họ như những kẻ cực kỳ ngu dốt. Thế là tất cả đều tán đồng một giải pháp duy nhất như là câu trả lời cho Vương Thông đó là tấn công vào Đông Quan.

Lê Lợi lặng lẽ quan sát hàng chiến hữu thân cận: Kiếm Ngọc Phạm Văn Xảo thì từ thuở bé đã từng ước mơ trở thành vị anh hùng được thiên hạ chiêm ngưỡng, Diêm Vương Lưu Nhân Chú là hiện thân sự báo thù. Bất Đắc Kỳ Tử Lê Ngân khát máu và Hổ Trầm Trần Nguyên Hãn khiêm tốn một cách quý phái và bí hiểm, Lê Sát một kẻ tôi đòi hoàn toàn thuận phục ngài như một vật dụng, nhiệt tình nhưng chẳng có sáng kiến lẫn suy tư và cuối cùng là Quân Sư Ức Trai, nhà ngoại giao tài tình xem ra cũng bắt đầu cay cú về sự thất bại trong việc thuyết phục cái tên Vương Thông khốn nạn. Một nụ cười kéo giãn đôi mắt Lê Lợi, nụ cười của con Hổ già dặn, chất chứa đầy mưu mô sách lược. Ngài lên tiếng:

- Thằng Vương Thông tìm cách ru ngủ chúng ta, thế thì đến lượt chúng ta, chúng ta hãy ru ngủ lại hắn. Quân sư Ức Trai, ngài hãy lại đưa ra những đề nghị hòa bình của chúng ta, hãy nói cho hắn rằng chúng ta sẽ bằng lòng với vai trò chư hầu và chúng ta sẽ chịu triều cống. Còn về phần chư vị, xin hãy chuẩn bị quân sĩ và khí giới. Ngay chiều hôm ấy, ở tầng một ngọn tháp Bồ Đề đối diện dòng sông đang dáng con nước lớn, Nguyễn Trãi lại ngồi thảo một lá thư nữa cho Vương Thông.

Lần này Nguyễn Trãi không có ý định khoan nhượng hắn. Một tà áo duyên dáng ở tầng dưới khiến ngài đưa mắt nhìn, nhưng ngay sau đó lại vội trở về với sứ vụ và bắt đầu đặt bút viết:

"Nay sức hết kế cùng, quân sĩ nhọc mệt, trong thiếu lương thực, ngoài không viện binh, bám hờ khu nhỏ mọn, nghỉ tạm thành chơ vơ, há chẳng phải là như thịt trên thớt, cá trong nồi sao? Thế mà lại còn lừa dối dân ta, dụ điều phi nghĩa. Kìa những kẻ trung thần nghĩa sĩ, dầu thời cùng vận ách, nếm mật nằm gai, cũng chẳng chịu mưu đồ kia khác, lẽ nào ngày nay lại chịu tin nghe là lời bất nghĩa của bọn các ông? Chỉ e người Nam trong thành nhớ mến chủ cũ, người Ngô ở đáy khốn khổ không kham, thì những người chống các ông sẽ kế nhau ra hàng, như Trương Phi, Lữ Bố165, các ông lại bị chính bộ hạ giết hại, đó là lẽ tất nhiên. Nay ở các thành, từ Đô ty trở xuống đều căm giận bọn các ông lừa dối, khuyên ta làm cỏ cả thành. Hoặc có kẻ trèo lũy trốn ra, tố cáo cả việc sắp đặt chiến cụ, sửa đóng xe thang. Những người bị khốn sẽ giết lẫn nhau, hà tất phải quân sĩ của ta nữa. Nay tính hộ các ông thì có sáu điều phải thua:

- Nước lụt chảy tràn, tường rào đổ lở, lương cỏ thiếu thốn, ngựa chết, quân ốm. Đó là điều phải thua thứ nhất.

- Xưa Đường Thái bắt Kiến Đức Mã Thế Sung ra hàng166. Nay những nơi quan ải hiểm yếu, đều có quân và voi đồn giữ. Nếu viện binh đến, thế tất phải thua, viện binh đã thua, bọn các ông tất bị bắt. Đó là điều phải thua thứ hai.

- (Ở nước các ông), quân mạnh ngựa tốt nay đóng cả ở miền Bắc để phòng bị quân Nguyên, không rỗi nhìn đến miền Nam. Đó là điều phải thua thứ ba.

- Luôn động can qua, liên tiếp đánh dẹp, người sống không lui, nhao nhao thất vọng. Đó là điều phải thua thứ tư.

- Gian thần chuyên chính, chúa giết giữ ngôi, xương thịt hại nhau167, gia đình sinh biến. Đó là điều phải thua thứ năm.

- Nay ta dấy nghĩa binh, trên dưới cùng lòng, anh hùng hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng lại vừa đánh giặc. Quân sĩ trong thành thì đều mỏi mệt, tự chuốc diệt vong. Đó là điều phải thua thứ sáu.

Nay giữ cái thành cỏn con để chờ sáu điều thất bại, ta lấy làm tiếc cho các ông lắm! Cổ ngữ có câu: "Nước xa không thể cứu lửa gần". Giá viện binh có đến, cũng không có ích gì cho sự bại vong? Trước Phương Chính, Mã Kỳ chuyên làm hà ngược, sinh linh lầm than, thiên hạ ta oán, đào phần mộ ở ấp ta, bắt vợ con của dân ta, người sống bị hại, người chết ngậm oan. Nếu các ông xét kỹ sự cơ, nhận rõ thời vụ, nên chém, lấy đầu Phương Chính, Mã Kẻ đưa nộp ở quân môn, thì sẽ tránh khỏi giết hại cho người trong thành, hàn gắn vết thương cho người trong nước, hào hảo lại thông, can qua nghỉ mãi. Như muốn kéo quân về nước, thì cầu đường sửa xong, thuyền ghe sắm đủ, thuỷ lục hai đường, tùy theo ý muốn, đưa quân về cõi, yên ổn muôn phần. Ta chỉ giữ phận bề tôi, không thiếu chức cống. Nếu không nghe thế, thì nên chỉnh quân bày trận, giao chiến ở chốn bình nguyên, quyết một trận được thua, để xem khéo vụng, chứ không nên ở chúi trong xó hang cùng là bắt chước thái độ mụ già như thế!"

Nguyễn Trãi đọc lại lá thư. Dù lời lẽ cương quyết và thúc bách, nó vẫn chừa cho Vương Thông một lối thoát đồng thời vẫn không hé lộ ra điều gì cho phép hẳn tiên đoán được một cuộc tấn công sắp xảy ra. Phải chăng đây là điều Lê Lợi mong muốn?

Vị nho sĩ vừa đặt bút xuống thì chàng nghe có tiếng người leo lên cầu thang. Từ Chi, lão già tốt bụng của chàng xuất hiện theo sau là Phi Hùng, và anh Ba tay mang bốn tô phở thơm phức. Từ Chi lên tiếng:

- Đây là do cô Thị Lộ nấu đặc biệt dành riêng cho cháu đó!

Tia nhìn ma mãnh của ngày xưa tóe lên trong đôi mắt lão thợ mộc già. Trước vẻ đăm chiêu của ông anh, Phi Hùng dùng khóe môi ra dấu cho lão đừng nhấn mạnh thêm gì nữa, nhưng đối với lão này thì chiến đấu với quân thù và cách cư xử trong việc biểu lộ tình cảm của mình là hai điều vẫn hoàn toàn có thể dung hòa. Lão cứ nói tiếp:

- Trừ bà vợ quá cố của lão ra thì không ai nấu phở ngon bằng cô bé xinh đẹp này. Rồi lão già ngoan cố còn thêm: Không hiểu cô bé kiếm đâu ra những rau thơm này nhỉ? Vị nho sĩ vừa nhận bát phở từ đôi tay cung kính của Ba vừa nói: "Xin cảm ơn cô bé giùm tôi".

Lão thợ mộc hài lòng lắc lắc hai mảnh tai chó của tấm vải quấn quanh đầu. Sau đó lão đem thuật lại cho Thị Lộ không sót một chữ. Từ những ngày còn ở chiến khu Chí Linh, lão đã dành cho cô bé một mối thân tình phụ tử. Lão nghĩ ngợi: "Tiếc quá, Trãi quá cao cả, quá mực thước! Còn ta, phải chi ta còn tuổi trẻ, có lẽ ta sẽ chỉ nhìn thấy có một mình nàng, có lẽ ta có thể trung thành với mỗi nàng!". Khi về già, anh chàng mê gái thuở xưa lại khám phá ra mình có khả năng của một mụ già làm mối lái.

Ngay khi họ vừa bắt đầu thưởng thức tô phở bò bốc mùi hồi hương, bạc hà, ngò, hành lá thì bỗng những tiếng la hét bên ngoài làm họ chạy vội ra hành lang. Xảy ra cái gì vậy? Dưới chân họ, đám lính đang phấn khích chỉ tay cho nhau về hướng thủ đô. Phi Hùng la lên: "Đông Quan cháy rồi!".

Một cột khói dày đặc bay lên từ các tường thành.

- Chỗ đó có phải là nơi đồn trú của đội cảnh vệ Tàu không? Nguyễn Trãi chỉ vào khu "oan nghiệt" tại thủ đô, nơi đó bao nhiêu người của ta đã bị cầm tù và tra tấn. Ba la lên:

- Khói bốc lên từ khu cấm thành, theo ý tôi, đó chính là "Khu Đại Lực" mới cháy dữ như thế!

Từ phía dưới có người kêu lên: "Cái gì cháy vậy?".

- Lều trại của Vijava! Con Voi của Hoàng Phúc!

Nghe thế, các cận vệ của Lê Lợi cứ vọt từng bốn cấp thang một leo lên tới chỗ sân thượng cao nhất.

Bỗng dưng những tiếng rống thảm thiết của con vật bị dồn vào bẫy xé tan bầu không khí chiều tà, làm kinh hoàng những chú voi trận đang nhốt ở phía bờ sông bên kia. Ba đã nhận xét đúng: Khu chuồng Đại Lực và chú voi ngự trị trong ấy đang bị thiêu thực sự rồi.

Tiếng thét, tiếng la, tiếng cười đùa lăng mạ văng ra khắp doanh trại. Không ai nghi ngờ gì đó chính là tác phẩm của đám nghĩa quân được cài vào trong thủ đô:

- Tuyệt! Tuyệt! Ta thắng một cú tuyệt vời.

- Bây giờ lấy ai "cố vấn" cho Hoàng Phúc đây?

- Ước gì chúng ta đem được cái đầu voi về làm chiến lợi phẩm, và cả cái đầu của tên Bố Chính Hoàng Phúc nữa!

- Cái lũ Tàu chó má dâm ô đến nỗi mẹ ruột cũng không chừa, nay đến phiên chúng lại bị "chơi" đau!

- Khiết và Tô đã thành công rồi! Quân thù đã bị đánh ngay giữa thành trì của chúng!

Phi Hùng ngỏ lời với Ba. Anh chàng này cười phá lên nhe ra đôi hàm răng đen bóng.

Tựa vào lan can, Nguyễn Trãi rầu rầu nhìn làn khói bốc lên từ Đông Quan.

Đằng kia Vijava, con voi thân tín của Hoàng Phúc, con bạch tượng rất hiếm được vỗ béo bằng mía và rượu arak, con thú da dày quý báu phủ trên mình vàng bạc gấm vóc, nó hiện không còn kêu lên những tiếng cầu cứu nữa mà chỉ còn là những tiếng thét đớn đau khôn xiết. Trên bờ sông, những chú voi trận kéo mạnh các dây xích cùng đồng loạt rống theo. Thời gian trôi qua. Chẳng hiểu người chủ tận tâm của nó đang bận việc gì nhỉ? Thế rồi những tiếng rên rỉ yếu dần, hầu như chìm hẳn vào giữa tiếng huyên náo xung quanh.

Đám cận vệ Lê Lợi vừa đùa giỡn với nhau vừa kéo xuống khỏi sân thượng.

- Lũ Tàu đang dập đám cháy. Con vật thui vừa chín tới!

- Lũ Tàu cũng sẽ bị thui!

- Lũ Ngô chiều nay tha hồ có thịt xơi.

- Thằng Hoàng Phúc có thể bị trúng thực đó!

Nói rồi họ phá lên cười ầm ĩ!

Phi Hùng tiến đến dựa vào lan can cạnh Nguyễn Trãi. Dưới cặp mắt đầy nghi vấn của Từ Chi, giữa lúc mọi người đều hoan hỷ, thì nho sĩ Nguyễn Trãi hình như vẫn mang bộ mặt lạnh lùng sắt thép. Phi Hùng nhắc:

- Đại huynh, sao anh im lặng trầm ngâm thế? Sao không chia sẻ niềm vui với mọi người?

Nguyễn Trãi quay lại nhìn người em út, tia mắt bộc lộ sự nghiêm nghị khác thường, giọng đầy giận dữ:

- Có thể vui được khi thủ đô đang bốc cháy hả? Khi ngọn lửa đe dọa thiêu hủy Văn miếu, tháp Báo Thiên và tất cả kho tàng cổ kính của chúng ta hả? Chẳng nhẽ sung sướng lắm khi người ta reo hò về cái chết của một con vật vô tội hả?

Thấy anh quở mắng thậm tệ, Phi Hùng vội nín thinh, mặt xám lại. Chỉ vì niềm kính trọng người anh cả nên chàng đã không dám quay gót bỏ đi, chung hưởng niềm vui với họ. Chà! Phi Hùng cảm thông cho những kẻ từng phẫn nộ trước cái con người tuyệt vời hay dạy đời này.

Tựa như lũ học trò đang tự hỏi mình đã phạm lỗi gì, Từ Chi và Ba tiến lại gần như muốn hỏi. Nguyễn Trãi liền tiếp lời:

- Cuộc chiến tranh kéo dài đã quá lâu này làm chai sạn trái tim chúng ta khiến chúng ta trở thành những kẻ vô tâm man rợ, chúng ta há quên điều đó sao?

Rồi chàng trang trọng lắc đầu. Trước mặt chàng đang trải ra những phố phường của nơi chôn nhau cắt rốn của chàng, của cha ông tổ tiên chàng.

- Chúng ta đang hiện diện ở đây trước thành Thăng Long. - chàng vừa cố tình dùng cái tên gọi cổ xưa ấy. Tên gọi của thời kỳ tự do "Con Rồng tung cánh bay lên". - Nó là thủ đô, là trái tim của Đại Việt chúng ta, cái nôi của các triều đại. Một Thăng Long bị thống trị và biến thành nô lệ, ngày mai sẽ được giải phóng, rộng cửa đón mừng những người dân tự do, giàu lòng nhân ái!

—★—

Vào đêm mùng 4 tháng 9 năm Đinh Mùi (1427) ấy, biết bao biến cố xảy đến trong doanh trại quân Tàu.

Trong khi tại Đông Quan, sau cuộc hỏa hoạn xảy ra vào buổi chiều, các cổng thành được đóng kỹ và các quân tuần tiễu canh gác nghiêm ngặt hơn bao giờ hết, Bố Chính Hoàng Phúc lòng đau như cắt, mắt tuôn lệ máu đang khóc than con voi Vijava bị thiêu rồi bị mổ ra ăn thịt, thì tại doanh trại quân Việt ở Bồ Đề, lợi dụng đêm đen, cuộc chuẩn bị cho chiến trận tiến hành thật chu đáo. Vào khoảng canh năm (3-5 giờ sáng), Đại Vương Lê Lợi triệu tập bộ tổng tham mưu để hoàn bị cuộc tấn công vào thành.

Tính cách cấp bách của việc tấn công vào thủ đô cũng như sự nhất quyết tháo gỡ gút mắc then chốt của cuộc chiến đã tạo cho khuôn mặt các chiến binh vẻ nghiêm trang rạo rực và làm cho cử chỉ họ trở nên nồng nhiệt nôn nao. Dù cho tất cả đều sẵn sàng để giao chiến nhưng nhiều người trong số họ thân xác rã rời và tinh thần mệt mỏi. Cuộc chiếm đóng của quân Minh kéo dài những 20 năm thật khủng khiếp. Và đối với một số người thì cuộc chiến cũng kéo dài ngần ấy năm! Họ đã hầu như đi đến tận cùng nỗi ghê rợn, đã nhìn thấy xứ sở bị làm nô lệ dưới những cuộc tàn sát và cướp bóc, nền văn hóa lâu đời bị tiêu diệt, kho tàng cổ kính bị vơ vét và bị mang về Trung Quốc. Họ đã từng là những kẻ chiến đấu trong vòng bí mật, từng nhịn đói, chịu rét, từng chịu cảnh kinh động của những con thú bị săn bắt và tử thần đã từng sánh bước theo họ! Trong số họ, ai còn nhớ đến bữa cơm chiều đầm ấm dưới mái gia đình và những niềm vui chăn gối? Tuy nhiên tất cả nỗi khổ đau đó không là gì hết sánh với 9 tháng hãm thành tưởng chừng như vô tận này. Họ án ngữ ở đây, vây bọc Đông Quan, canh chừng con cọp mà lại chẳng bắt được nó.

Tất cả binh lính đã không thể chịu nổi sự "bất động khổ sai" này. Những kẻ đã lựa chọn con đường bỏ trốn, vì quá mệt mỏi, vì sợ không còn gặp lại bố mẹ già hoặc không tìm lại được đất đai đã chia phần, nếu bị bắt giữ lại đều bị trừng trị không thương xót. Con Rồng Lam Sơn đã nói "Chỉ một mình ta có quyền phân phát đất đai và ta sẽ xử sự công bình, còn những kẻ đào ngũ, thì đừng trông mong bất cứ sự khoan hồng nào cả". Thủ cấp bọn họ bị phơi khô đằng kia ở cổng doanh trại. Những người khác như Khiết và Tô, không còn kiên nhẫn được nữa, đã chọn một việc làm mang tính tự sát nơi Đông Quan để rồi vĩnh viễn nằm lại đó.

Các sĩ quan và binh lính đang vây quanh ánh lửa bập bùng thầm nghĩ: Ngày mai, ngày mai sẽ là một ngày khác hẳn. Đại Vương Lê Lợi tổng chỉ huy quân đội, sẽ ra lệnh tấn công con ác thú ngay trong hang ổ của nó. Ngày mai, Đông Quan, không phải, Thăng Long, Thăng Long sẽ được giải phóng!

—★—

Qua ánh sáng của các bó đuốc bốc khói dưới tấm bạt treo giữa các cây đa dùng làm phòng hội thảo, tất cả tướng lĩnh và chỉ huy quân đội của doanh trại Bồ Đề đang chờ đợi Đại vương Lê Lợi.

Trên bầu trời vẫn còn mờ tối, thỉnh thoảng lóe lên những tia chớp. Xa xa, sấm nổ rền vang như báo trước tiếng đại pháo. Mùa này, cơn bão thường hăm dọa trút xuống những trận lụt lớn.

Tiếng trống vừa báo hiệu đúng canh 5 (3-5 giờ sáng) thì bỗng dưng, có tiếng vó ngựa làm mọi người đều vểnh tai, sau đó ít lâu Con Rồng Lam Sơn bước vào, đi trước là sứ giả nhà trời chàng Thận. Trên tay Lê Lợi nghiêm trang kính cẩn cầm thanh bảo kiếm mà bình thường ngài vẫn đeo bên hông. Thay cho chiếc chiến bào màu sẫm, ngài khoác chiếc áo trận thêu màu vàng nghệ. Gương mặt ngài, toàn thân thoát ra một quyền uy tối thượng. Nhìn ngài, ai cũng đoán ra ngay sự khẩn trương của tình hình: Ngài sắp phải đưa ra một quyết định tối quan trọng.

Sau khi ngồi vào ghế chủ tọa, trái với bình thường, Lê Lợi không nhường lời cho một vị tướng lĩnh nào cả! Chính mình ngài chỉ tuyên bố một lời:

- Chúng ta sẽ không tấn công Đông Quan!

Vừa nghe Lê Lợi tuyên bố xong, kẻ thì nhún mình, người thì bực tức phản đối, kẻ khác nữa chặc lưỡi giận dữ! Ngay chính Tận Thoát Lê Thụ là người hết sức trầm tĩnh cũng để lộ ra sự kinh ngạc rõ rệt. Chỉ có mình Sấu Thần Lê Sát gập mình tỏ ý sẵn sàng quân phục, gương mặt tỉnh bơ.

Phía xa xa, sấm nổ rền trời.

Con Rồng Lam Sơn im lặng chờ đợi những tiếng ồn ào dịu xuống nhưng ngài vẫn không chịu cắt nghĩa điều mọi người đang mong muốn được làm sáng tỏ.

Hổ Trầm Trần Nguyên Hãn lên tiếng:

- Thưa chúa thượng, có phải ý ngài muốn nói rằng chúng ta phải khoanh tay một cách vô vọng chờ đợi sự đầu hàng của Vương Thông cũng như chờ đợi quân tiếp viện đến?

Giọng nói run run của ông chứng tỏ ông hoàn toàn bất đồng ý kiến với Lê Lợi. Ông ta biết rằng ông được đám thuộc hạ và dân chúng sùng bái, ông đã đóng vai chủ yếu trong chiến thắng Tốt Động, trong huyết quản ông, lưu chảy dòng máu vương giả nhà Trần. Ông không sợ phải đương đầu với Lê Lợi. Trần Nguyên Hãn tiếp:

- Tình huống rất cấp bách, binh sĩ chúng ta dù mệt lả với cuộc chiến dai dẳng, nhưng để chiếm lại thủ đô, họ sẽ giao chiến đến giọt máu cuối cùng. Nếu còn trì hoãn cuộc tiến công này chắc chắn chúng ta liều mình rơi vào sự thảm bại khi chúng ta làm mất niềm hy vọng của binh sĩ chúng ta.

Đám đông hiện diện đưa những tia nhìn từ Con Hổ Trầm, yên lặng nhưng quả quyết, qua Chủ soái Lê Lợi hiện như đang mang một chiếc mặt nạ vô cảm.

Trần Nguyên Hãn đã nghiền đi ngẫm lại kế hoạch của mình. Đương nhiên là không nên tấn công Đông Quan theo sơ đồ cổ điển nhưng phải bằng một hành động phối hợp cả ngoài lẫn trong, xét về mặt ngoài, dù được củng cố mấy đi nữa, thành Đông Quan vẫn có những điểm yếu. Đã bị các trận lụt bào mòn, đê điều sẽ sụp lở, tường thành sẽ đổ! Còn về mặt trong, nhờ vào các đặc công được cài, tất cả nghệ thuật nằm trong việc biết cách gây chia rẽ, biết cách lợi dụng sự kiệt sức của quân Ngô đã chán chường để xúi họ nổi loạn và phản bội. Biết bao nhiêu người đã từng làm thế? Tấn công cả hai mặt với tốc độ vũ bão sẽ có cơ may đem lại thành công toàn vẹn.

Trần Nguyên Hãn kết luận:

- Chưa bao giờ chúng ta có được những hoàn cảnh thuận lợi như lúc này. Thời gian ủng hộ chúng ta lúc này bao nhiêu đi nữa thì thế nào cũng lại có thể sẽ phản bội lại chúng ta nếu chúng ta trì hoãn. Chúng ta đã trễ quá rồi không nên chần chừ nữa!

Trên trời giông tố đang thét gào.

Con Rồng giương đôi mắt không hề chớp, thấm đầy nỗi bất mãn ngầm. Cuối cùng ngài mới chịu lên tiếng:

- Chúng ta tấn công vào Đông Quan, chính quân thù cũng ao ước điều đó. Ta đã dẫn chư vị đi giao chiến biết bao nhiêu trận rồi, chư vị không tin rằng ta cũng nôn nóng kết thúc cuộc chiến thắng thắng kém gì chư vị sao? Thế nhưng sự hấp tấp thường là kẻ xúi dại các nhà chiến thuật sẽ khiến chúng ta mắc phải những sai lầm vô phương cứu chữa. Chư vị cho rằng quân thù hết hơi cạn sức rồi chứ gì, nhưng đó là hôm qua kìa! Còn hôm nay được bảo đảm có viện binh đến, bọn chúng sẽ có đủ lý do để giao chiến. Trông cậy vào sự suy sụp tinh thần của bọn chúng sẽ là một khuyết điểm, tin tưởng vào sự yếu kém về hệ thống phòng thủ của chúng là đánh giá chúng thấp đấy! Cuối cùng, nếu chúng ta dựa vào đám người được cài trong nội thành tức là chúng ta phó mặc cho may rủi! Chúng ta có nên bằng lòng thực hiện ngay tức khắc một hành động tùy tiện đáng ra cần phải suy nghĩ cân nhắc kỹ lưỡng, mà theo đó sự nhanh chóng phải là kết quả của sự tinh khôn của kinh nghiệm và của sự chính xác không?

Trong cuộc họp quân sự mang tầm vóc một buổi triều kiến, Lê Lợi chợt dừng lời và ngắm nhìn cử tọa: Ai còn dám đưa ra lời phản đối những lời nhận xét của vị Tổng chỉ huy quân đội? Mọi người đều lặng câm. Lê Lợi nói tiếp:

- Đông Quan có 40.000 lính được trang bị vũ khí đầy đủ bảo vệ và hào chắn vững vàng, như thế nếu muốn tấn công nó ta phải tập trung một số quân đông hơn hẳn số địch quân bị bao vây, làm thế chúng ta buộc phải rút quân từ một số điểm chiến lược chính trên lộ trình mà viện binh sẽ đi qua. Thế là chúng ta tiêu hao sức lực trong một cuộc tấn công chẳng mấy chắc chắn và trong trường hợp quân Ngô kháng cự lại, chúng ta sẽ vô tình để cho đám viện binh bao vây! Điều này không thể chấp nhận được!

Một tiếng sấm nổ vang ngay khi Lê Lợi thốt ra câu sau cùng.

Con Rồng nhìn quanh các gương mặt đang âu lo và ngờ vực. Chà! Liệu họ có dám nghi ngờ các quan điểm của ngài không? Trải qua kinh nghiệm lâu dài về trận mạc, chỉ mình ngài biết rằng một sự sai lầm nhỏ nhất cũng có thể làm cho họ mất tất cả. Bờ miệng ngài bỗng làm ra vẻ cao ngạo và đôi mắt trở nên có vẻ cách biệt. Bây giờ không là lúc thuyết phục họ mà phái áp đặt cho họ chiến lược của ngài:

- Chư vị hãy nhớ lại những chiến thắng lẫy lừng của các tiên triều. Các triều đại Đinh, Lý, Trần! Hãy nhớ lại các vị tướng lĩnh thời ấy. Ngô Quyền thắng quân Hán, Lý Thường Kiệt thắng quân Tống, Trần Hưng Đạo thắng quân Mông Cổ. Tất cả thành công của các vị ấy đã tạo được đều do nơi sự linh động về chiến lược lẫn về chiến thuật, bằng sự bất ngờ, sự nghi binh và sự nhanh nhẹn. Đó chính là nghệ thuật quân sự của chúng ta. Một mặt, chúng ta vẫn để lại một số quân giản lược tiếp tục bao vây Đông Quan, mặt khác, chúng ta sẽ xông ra trước đám viện binh dẫn chúng vào chiến địa do chúng ta lựa chọn. Chúng ta biết rằng Triều đình Bắc Kinh đã gửi hai đạo binh sang Đại Việt, một đạo do Mộc Thạnh chỉ huy đang đóng quân ở biên giới Vân Nam, một do Liễu Thăng chỉ huy đến từ Quảng Tây, đạo quân này đã xâm nhập vào lãnh thổ của ta. Chính đạo quân thứ hai này là đạo quân nguy hiểm nhất nên chúng ta cần tập trung sức lực vào đó. Nếu mà thắng được Liêu Thăng thì thành đô chẳng còn là vấn đề! Toàn bộ hệ thống sẽ đổ nhào hết!

Kiếm Ngọc Phạm Văn Xảo lên tiếng:

- Thưa Chủ soái, tiêu diệt Liễu Thăng rồi. chúng ta vẫn còn phải vô hiệu hoá Mộc Thạnh nữa chứ.

Lê Lợi nói:

- Hãy giở bàn đồ ra!

Sứ giả nhà trời Thận vội cung kính lật một trong những họa đồ do chàng Ba khéo tay vẽ ra. Lê Lợi dùng kiếm chỉ vào và nói:

- Mộc Thạnh đã già rồi, ông ấy đã từng sống và đã từng nghe nói về chúng ta vì thế ông ta sẽ chờ xem Liễu Thăng thắng hay bại rồi mới vội liên quân. Chúng ta đâu khó khăn gì đánh bại ông ta ở cách xa thủ đô? Chỉ cần một đơn vị nhỏ đặt ở đây, tại đèo Lê Hòa này là đủ giữ chân ông ta lại. Chúng ta sẽ không phân tán sức mạnh của chúng ta và chúng ta sẽ tung đại binh của chúng ra chống lại đạo quân 100 ngàn người của Liễu Thăng. Đến từ Quảng Tây, đạo quân này bắt buộc phải mượn con đường duy nhất ngang qua Khấu On, Chi Lăng, Xương Giang, Đông Quan (vừa nói ngài vừa dùng mũi kiếm chỉ trên bản đồ). Chính ở những chốt điểm ấy chúng ta sẽ tung ra một loạt các trận chiến nhằm mục đích tiêu diệt đạo quân đó, trước tiên là một phần, kế đến là toàn bộ. Tất cả chiến thuật của chúng ta nằm ở chỗ chúng ta đưa được đám quân thù tự mãn rơi vào trong một cái túi sâu đáy từ Chi Lăng đến Xương Giang.

Kiếm Ngọc Phạm Văn Xảo hung hăng ngắt lời:

- Thưa Chủ soái, cho dù chiến địa có thuận tiện cho chúng ta mai phục, nhưng làm sao ngài có thể hy vọng thắng được đạo quân hùng mạnh cả 100 ngàn người trong khi ngài tự xét rằng không đủ khả năng để bao vây một thành trì chỉ có 40 ngàn người, mà lại là người kiệt sức nữa chứ!

Lời nhận xét xấc xược này, được cơn bão hỗ trợ, làm bầu không khí như bị xẹt điện. Tận Thoát Lê Thụ nói thêm vào: "Về vấn đề này, sau khi nắm được kế hoạch của chúng ta, thế nào thằng Vương Thông lại không phá vòng vây của đám quân ít ỏi của chúng ta, tiến ra khỏi thành Đông Quan và sẽ kiềm chặt chúng ta."

Những kẻ nhiệt tình ủng hộ theo chàng đều cảm thấy lạnh cóng người trước khuôn mặt đầy nộ khí của con Rồng.

Lê Lợi cặp mắt xếch ngược lên biểu lộ cơn giận dữ đầy hùng khí, nếu Trần Nguyên Hãn dám ngẩng đầu lên phản kháng lại, thì con Rồng Lam Sơn còn tạm chấp nhận được và ngài sẵn sàng cúi đầu trước mặt ông ta khi cần thiết. Ngài sử dụng vị danh tướng nhưng với cái con người ấy ngài vẫn đề phòng, nhưng Phạm Văn Xảo từ thuở bé đã tận tâm phục vụ ngài, còn Lê Thụ lúc nào cũng sẵn sàng vâng lệnh ngài không hề bàn cãi, thế mà bây giờ lại đến phiên những kẻ thân tín cũng cả dám!

Một tiếng sấm vang dội phá tan sự yên lặng đã quá căng thẳng này. Đưa tay khoát ra, Lê Lợi như quét ngang tất cả những lao xao của hàng tướng lĩnh:

- Dẹp bàn tất cả mọi điều vô ích này đi! Biết lợi dụng hoàn cảnh hiện tại, chúng ta sẽ có cơ may thành công. Liễu Thăng xác tín rằng chúng ta sẽ tấn công vào thủ đô, hắn sẽ chỉ nhắm làm sao đến được Đông Quan nhanh hết sức, còn Vương Thông thì lại cứ bám chặt và bất động ở đó. Đấy chính là sai lầm của chúng và cũng là lợi thế của quân ta. Vì thế, trong những cuộc giao chiến đầu tiên, chúng ta sẽ làm y như là chỉ có những nỗ lực vô vọng để làm chậm bước quân cứu viện. Quân ta sẽ phải một chống 100 với mục đích làm cho Liễu Thăng càng xác tín rằng hắn sẽ tạo được thành công vang dội và càng muốn mau lẹ tiến thắng về Đông Quan. Ở đây không còn có vấn đề giả vờ bị lấn át như ở trận Tốt Động. Loại chiến thuật này chỉ có thể thành công một lần thôi, chứ không thể lặp lại lần thứ hai.

Các tướng lĩnh bắt đầu hiểu ra, và họ cũng chẳng dám tin vào điều họ đã hiểu. Trong sự yên lặng khôn lường, chợt lóe lên những tia chớp nhưng không một tiếng sấm nào vang nổ. Sự căng thẳng đã lên đến cực điểm. Mắt Phượng Trần Lưu cả dám lên tiếng:

- Thưa Chủ soái, có phải ý ngài muốn yêu cầu ném quân sĩ chúng ta vào cái chết kể như cầm chắc với mục đích duy nhất là đánh lừa tụi Tàu phải không?

Giọng nói của chàng, tuy có vẻ do dự, song cũng vẫn bộc lộ cho thấy sự ngỡ ngàng đầy tức tối. Câu trả lời chầm chậm đầy ghê rợn của con Rồng vang lên:

- Ngươi đã hiểu đúng ý ta rồi đấy! Ngươi Phó tướng Trần Lưu, người được giao nhiệm vụ là người đầu tiên đánh chân đoàn quân của Liễu Thăng ngay ở đây, tại đèo Phả Lũy! Còn ngươi, tướng Phạm Văn Xảo, ngươi sẽ lãnh sứ mệnh ngăn chặn đạo tiền quân của địch trên đường Chi Lăng. Chúng ta dành cho hai người vinh dự của chiến công này!

Trong lúc Trần Lưu và Phạm Văn Xảo xanh mặt cúi đầu nhận lệnh thì Con Chồn Ngoài Hang Hiểm, chỉ huy kỵ binh, bước ra khỏi hàng, gương mặt Mường của chàng trông khẩn trương tột độ, chàng lên tiếng:

- Tâu Đại Vương, thần xin sấp mình xuống đất kêu van ngài cho thần và các kỵ binh của thần được tham dự vào số đội quân tự hiến này. Dù chắc chắn sẽ phải chết, nhưng trước đó chúng tôi cũng đã chặt được biết bao cái đầu của lũ giặc Ngô! Theo gương Chú Vượn Lai người anh chúng tôi, người đã từng khoác chiến bào của Chủ soái để hy sinh, chúng tôi cũng xin dâng cho ngài mạng sống của chúng tôi. Cầu mong máu của chúng tôi đổ ra sẽ mãi mãi đóng dấu ấn cho lời thề một mai khi hòa bình trở lại, ngài sẽ tôn trọng tự do và phong tục các bộ lạc chúng tôi, và không lạm dụng quyền hành để xử tệ với họ như những triều đại khác đã làm!

Con Rồng đưa cặp mắt tràn đầy xúc động thay cho cặp mắt vốn thường đầy mưu mẹo và hung dữ, nhìn chàng trai lực lưỡng đang sụp lạy, rồi nói:

- Được, ta chấp nhận! - vừa nói, Lê Lợi vừa nghĩ đến Chú Vượn Lai, chính chàng ta đã hiến thân không đòi một điều kiện nào cả nhưng hôm nay, và từ đấy về sau, ngài đã thực sự là vị quân Vương trong tương lai được tôn vinh.

Trước cảnh tượng ấy, những người khác cũng xin tình nguyện theo. Không có gì đáng ngạc nhiên, trong số đó có những nhân vật như: Đầu tiên là Diêm Vương Lưu Nhân Chú, kế đến Bất Đắc Kỳ Tử Lê Ngân và cuối cùng là Sấu Thần Lê Sát! Vốn bao giờ cũng là người cuối cùng ngon lành nhất! Nụ cười khó hiểu bềnh bồng trên đôi môi Con Rồng, ngài tiếp:

- Đây là vài quyết định của ta - và ngài bổ túc thêm vào việc phân định các nhiệm vụ khác. Xong rồi Ngài kết luận - về phần ta, cùng với Quân Sư Ức Trai, chúng ta sẽ dựng tổng hành dinh gần chiến địa hết sức có thể. Ta sẽ cho chư vị biết khi thời gian thuận tiện. Tất cả hãy kính mệnh tuân hành.

Bình minh đến làm nhạt mờ ánh sáng những ngọn đuốc. Cơn bão đã rời xa rồi mà vẫn còn để lại dư âm vang rền. Trong khi bộ tham mưu chỉ chờ được phép rút lui, thì Hổ Trầm Trần Nguyên Hãn bỗng lên tiếng cố ý nhằm vào cái vị thế của một cố vấn tài ba của người anh em họ Nguyễn Trãi, từ đầu vẫn không nói một lời:

- Thế Đại cố vấn Ức Trai không có kiến nghị hay phản kháng gì sao?

Lê Sát bắt chộp ngay được tia nhìn đầy sát khí của Lê Lợi ném vào Trần Nguyên Hãn và hắn không bỏ lỡ cơ hội quá tốt này: "Dù tầm nhìn của ngài Quân Sư khả kính của chúng ta có sáng suốt đến đâu chăng nữa thì, cũng không thể nào lay chuyển được thánh ý của Chúa Thượng".

Vị nho sĩ trả lời:

- Quả là thế, bởi vì kẻ tôi mọn này xác tín rằng trận chiến chống viện binh từ Quảng Tây sẽ mang tầm mức quyết định. Hơn nữa Thái Phúc (tướng Trung Hoa về hàng Lê Lợi và Nguyễn Trãi) từng biết rõ tướng Liễu Thăng, đã mô tả cho chúng ta biết tên tướng lĩnh đã từng chiến thắng quân Mông Cổ này rất táo tợn đến mức hợm mình kênh kiệu. Chắc chắn kế hoạch của Chủ soái chúng ta gặp được nơi Liễu Thăng một trong những đồng minh tuyệt vời nhất!

Lê Sát đón nhận những lời này, lòng không vui. Dù vậy hắn cũng gắng che đậy sự thất vọng của mình bằng nụ cười tựa mật ngọt. Con Rồng nói thêm:

- Bao lâu quân thù chưa bị tiêu diệt, nhân dân chúng ta chưa được thỏa thuê, lòng dạ chư vị chưa thể nào được bình an. Ngày hôm nay sự nghiệp sắp sửa hoàn thành, chỉ cần thêm một thúng đất nữa là ngọn núi được đầy đặn. Chỉ cần bỏ ra một ít gian lao nữa trước khi vui hưởng thái bình và hạnh phúc lâu dài. Chư vị hãy nói với binh sĩ rằng khi cuộc chiến chấm dứt, chúng ta sẽ phục viên 150 ngàn quân về lo việc đồng áng và chỉ giữ lại 100 ngàn quân để lo việc quốc phòng. Thôi, chúng ta giải tán!

Cuộc họp chấm dứt, bộ tham mưu rút lui để thực thi mệnh lệnh.

Nếu như các tướng lĩnh và sĩ quan không khỏi đau đớn ngạc nhiên khi thấy Lê Lợi cũng không hề tham khảo ý kiến họ, và kể cả quân sư Ức Trai nữa, thì trước sự kiện Chủ soái tỏ ra hoàn toàn làm chủ được chiến lược, dù là khá tàn nhẫn, đã khiến họ được an tâm. Tinh thần và niềm tin sinh động mãnh liệt nơi Lê Lợi đã được truyền sang cho họ. Nói tóm lại, như con đối với cha, thần dân đối với bậc quân Vương, họ đã giao phó cho Lê Lợi trọn niềm vâng phục và sự trung thành. Chỉ riêng tướng Trần Nguyên Hãn, sau khi thấy kế hoạch tiến công Đông Quan của mình bị bỏ qua, ông đã cố gắng tìm ra những nhược điểm trong kế hoạch của Lê Lợi.

Trái lại, Nguyễn Trãi không hề bận tâm nghĩ đến sự thay đổi thái độ của Lê Lợi đối với thân phận nhỏ bé của mình. Ông ta chỉ cố gắng rút ra những kết luận rất khách quan của cuộc hội đồng quân sự vừa qua, một hội đồng thực ra không đúng với danh nghĩa của nó.

Lê Lợi đã không hé cho ai biết chiến lược ngài đã nghiền đi ngẫm lại này, cho nên ngài đã đánh lừa được các chiến hữu của mình. Chưa bao giờ Lê Lợi có ý định đánh lấy Đông Quan. Sau khi để cho bộ tham mưu cứ loay hoay bàn tính những kế hoạch vô ích về việc tấn công thủ đô, ngài đã đánh lạc hướng họ trong lúc ngài đã quyết định sử dụng họ vào chỗ khác. Chắc chắn Nguyễn Trãi cũng đã giảm nhẹ chút đỉnh những phán đoán của ông, dựa vào sự soi sáng của các nguyên tắc Tôn Tử: "một vị tướng tài sẽ biết trước tất cả điều ông ấy phải làm trong khi kẻ khác chẳng một ai nên biết gì hết". Lê Lợi nào có làm gì khác ngoài việc theo đúng nguyên tắc ấy? Tuy nhiên vị nho sĩ không dễ bị lừa! Cuộ