← Quay lại trang sách

Chương 4

Vào ngày mùng 8 tháng 9 năm Đinh Mùi ấy (1427), đúng như dự tính, đạo quân Liễu Thăng đã nghiền nát toán quân do Mắt Phượng Trần Lưu chỉ huy tại đèo Phả Lũy, rồi đuổi theo những người sống sót đến tận thành Khấu Ôn mà tiếp đó chúng cũng chiếm luôn.

Trong một nghĩa cử vừa anh hùng vừa vô ích, các con vật tự thiêu thuộc "Nam Man" ấy đã lăn xả vào đạo binh thiên triều hùng mạnh để rồi bị chúng biến cho trở thành thịt băm làm giò chả!

Sau chiến thắng đầu tiên này, tướng công Liễu Thăng làm sao còn thèm để ý đến sứ điệp của một tên chưởng ấn Nguyễn Trãi nào đó nhân danh Lê Lợi yêu cầu hắn rút binh lập tức ra khỏi biên giới? Đến nỗi y cũng chẳng thèm đọc sứ điệp đó nữa!

Xuất sắc và kiêu ngạo, Liễu Thăng rành rõi tất cả mọi kỹ thuật của Dịch Cân kinh168, hắn rất tự phụ, tin vào sự siêu đẳng bất khả bại của nước Tàu với sứ mệnh khai hóa các dân tộc khác. Nơi nước Tàu là hiện thân của sức mạnh, còn nơi đám quân Việt chỉ toàn là sự yếu nhược. Hắn thuộc về thế hệ các tướng lĩnh trẻ trung đã từng chiến thắng vẻ vang quân Mông Cổ phương Bắc. Trước mắt hắn, cuộc chiến tranh ở Giao Chỉ chỉ đơn thuần là một sự việc quá quen thuộc. Các ngài Trần Tiến và Vương Thông chỉ là những gã "Công tử" già nua, tham sống sợ chết. Bởi vì đã không tìm được người am hiểu tình hình, nên những cuộc chinh phạt trước đây đã được trả giá bằng thất bại. Nhưng hắn ta thì quả thực là con người của thời cuộc: uy dũng, quả cảm, chẳng kém gì danh tướng kỳ tài Trương Phụ ngày xưa.

Thế là ngay ngày hôm sau, Liễu Thăng xông thẳng về hướng đèo Ải Lưu và dù đối phương có kháng cự kịch liệt, hắn cũng vẫn đánh chiếm được. Những tên "mọi rợ" nhất trong đám quân mọi rợ của Lê Lợi cưỡi trên mình các chiến mã trắng tựa thủy ngân, quay tít mù những lưỡi kiếm dài có thể làm rụng đầu trong nháy mắt thế mà đã giao tranh như những con hổ đói. Liễu Thăng nghĩ: "Thế Lê Lợi hết quân rồi sao mà lại ném những đám rợ núi này vào chiến trận?". Không một tên nào thoát cả! Xác chết tím sẫm màu chàm của họ bốc mùi hôi thối khắp khe vực.

Như thế, lá thư thứ hai của Cố vấn Nguyễn Trãi gửi đến hết sức lễ độ nài xin Liễu Thăng rút lui quân kẻo quá trễ làm gì được hắn thèm để ý đến! Ngay cả những lời khuyên khôn ngoan của đám sĩ quan yêu cầu hắn đừng đánh giá quân thù thấp quá kẻo bị mắc bẫy, hắn cũng chẳng coi ra gì. Đám sĩ quan Tàu đưa ý kiến:

- Thưa Chủ tướng, trước khi xông vào cuộc công kích quy mô, mong ngài cẩn thận phái hai hoặc ba phân đội đi trinh thám trước đã. Liễu Thăng cao ngạo trả lời:

- Ai có thể làm ta run sợ? Nhìn thấy đám "mọi rợ" ngã xuống chết cùng với các chủ tướng của chúng, phải là ngốc lắm mới không hiểu rằng đó là những cuộc giao tranh vô vọng nhằm trì hoãn đường tiến của quân ta. Chính vì thế chúng ta phải xông thẳng về Đông Quan và trước tiên hãy tiến nhanh về Chi Lăng!

Hai ngày sau các trận thắng ở Phả Lũy, Khấu Ôn và Ải Lưu, 100 ngàn quân của Liễu Thăng tiến vào ngọn đèo chênh vênh nhất trận con đường từ Phả Lũy đến Đông Quan, giữa rặng núi Chi Lăng dốc cao thẳng đứng và dãy Thái Hòa núi đồi trùng điệp.

Chúng vừa đi được vài dặm ở dưới đáy thung lũng thẳm sâu và ảm đạm này thì bỗng nhiên kỵ binh và bộ binh của quân Việt bổ nhào xuống.

Trước những đợt tấn công ào ạt của lũ quỷ này, chẳng mấy chốc hàng tiền quân Tàu rơi vào sự hỗn loạn kinh khủng. Gươm kiếm giao nhau như chẻ núi, thuẫn đỡ vung lên quay tít. Tên tẩm độc, lao thương bay vun vút. Vị tướng Việt dồn tất cả sinh lực vào trận chiến không như một hiệp sĩ khinh thường thần chết mà là chính hiện thân thần chết đang dẫn đầu binh đoàn âm phủ của mình. Vị tướng ấy và quân sĩ của ông ta có thể hy vọng gì ngoài việc phải chém giết để rồi sau đó cũng sẽ bị giết? Vì quá thua sút về quân số, nên đám nghĩa quân lần lượt ngã xuống, lớp bị dao chặt cổ, lớp bị ngọn giáo xuyên qua, lớp bị thương kích đâm thủng, lớp bị dao găm thọc cổ, lớp bị kiêm tiện ngang, thôi thì bị xẻ, bị cắt, bị chặt ra từng mảnh! Còn vị tướng của họ, sau khi vẫn sống sót một cách kỳ diệu, ông ta chỉ còn lại một mình giữa đạo quân âm phủ lang bạt của mình, thế là ông ta thúc ngựa chạy tới cái kích của một tên giặc, đồng thời đâm chết tên đó, rồi chính mình tự nhảy ngồi lên mũi kích để nó chọc xuyên suốt thân mình!

Không khí sặc sụa mùi máu và lòng ruột sổ ra thực là ghê tởm! Hàng trăm xác quân Việt rải rác khắp thung lũng. Về phía quân Tàu, tổn thất tương đối là nhẹ.

Thấy thế, Liễu Thăng rạng rỡ ngỏ lời với chư tướng và cố vấn của hắn:

- Theo ý kiến của các bậc lão luyện chiến trận thì một khi quân thù hy sinh một trong các tướng lừng danh nhất của chúng như thế thì liệu chư vị có còn dám nói đó là một sự giả vờ, một sự mai phục được chuẩn bị khôn khéo nhằm nuốt chửng đạo binh lừng lẫy của chúng ta, hoặc những chuyện tào lao tương tự thế nữa không?

Các tướng lĩnh của hắn cũng phải đồng ý. Hắn tiếp lời:

- Hiện giờ lũ giặc cướp này đang trong cơn run sợ, phải sát phạt chúng cho đến cùng. Nào chúng ta hãy hướng về Chi Lăng! Chúng ta hãy đi giải phóng vị tướng khốn khổ Vương Thông đang bị vây trong thành Đông Quan!

Và thế là đạo quân khổng lồ trải dài trên hàng dặm lại tiến lên.

Nếu như bộ tham mưu đã hoàn toàn bị Liễu Thăng thuyết phục, thì chàng đội trưởng Lữ thuộc đạo trung quân vẫn không đồng quan điểm và không tin cậy vào Liễu Thăng. Liễu Thăng càng tiến từ trận thắng này đến trận thắng khác thì chàng ta càng cảm thấy nỗi bất an lớn dần. "Làm gì mà tất cả mọi sự lại quả đã quá xuôi chèo thuận mái đối với quân Tàu và quá tồi tệ đối với quân nổi dậy như thế được?"- Tin tùy viên và cũng là bạn thân ngày xưa của tướng Thái Phúc tự bảo.

Đội trưởng Lữ đã từng tham dự vào cuộc xâm chiếm đất Giao Chỉ và cũng đã từng sát cánh với vị tướng tài hoa Thái Phúc hộ tống nhiều đoàn quân dẫn độ đám tù nhân qua vùng đất quỷ quái này. Cuối cùng, chàng ta đã thấu hiểu được đất nước và nhân dân Giao Chỉ. Họ rất tài về thuật ngụy trang, kiêu ngạo ngốc nghếch và đầy căm thù cay độc, họ rất cuồng tín nhưng giàu nghị lực, giỏi việc chiến trận, táo bạo và can đảm không sợ chết. Trái với Liễu Thăng đang tin rằng quân Việt đã bị đẩy lui vào thế tự vệ, đội trưởng Lữ nghĩ rằng chẳng bao lâu nữa quân Việt sẽ tung ra những trận chiến tại một nơi có lợi về địa thế cũng như về sự bất ngờ, đúng theo kỹ thuật họ thường xuyên sử dụng và chàng thâm tín điều ấy.

Đưa cặp mắt đăm chiêu, Lữ thăm dò những đỉnh núi ảm đạm nơi đó bất cứ lúc nào thần chết cũng có thể xuất hiện bất ngờ.

- Chẳng thấy dấu hiệu gì là khả quan cả! - Chàng ta nói với phụ tá Vũ của mình. Chàng này đang cưỡi ngựa đi bên cạnh, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn Lữ với dáng vẻ đắm đuối.

Lữ vốn yêu thích những chàng trai trẻ trung tráng kiện và đầu óc rỗng tuếch, chàng mê mệt đắm say họ chẳng khác gì những người khác mê rượu. Chàng chẳng chờ đợi Vũ trả lời, thế mà anh chàng này lại lên tiếng:

- Đại huynh ơi, hơi đâu mà suy tính cho nặng đầu khi mà chúng ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

- Ừ phải rồi!

Đôi môi đỏ xinh đẹp của vị chỉ huy trông thật xác quyết khiến phụ tá Vũ bỗng cảm thấy một nỗi lo âu khắc khoải xông lên từ đáy tấm thân cường tráng đẹp mã của y. Nhưng khi nhìn thấy chiếc tán màu huyền lốm đốm vàng của Chủ soái đang cưỡi ngựa dẫn đầu đoàn kỵ binh có cả hàng ngàn quân sĩ tiền hộ hậu tống khiến hắn yên bụng. Chẳng qua chàng Đội trưởng Lữ này bị những nỗi ám ảnh của chốn hoang vu chướng khí này đó thôi, ngoài ra chẳng có gì khác đâu.

Đạo quân khổng lồ chen chúc trong khe vực chật hẹp này vẫn tiếp tục tiến tới với tốc độ của một phụ nữ có bàn chân bị bó lại. Nhìn cảnh tượng ấy, Lữ ta lại càng có ấn tượng càng lúc càng đậm rằng đoàn quân đang bước vào một con đường kiệt không lối thoát.

Kiêu hãnh đứng trên bàn đạp yên ngựa, Liễu Thăng lơ đễnh phe phẩy chiếc quạt đuổi ruồi có cán ngà, ngắm nhìn tường thành Chi Lăng nơi mà chẳng bao lâu nữa ngọn cờ quân Tàu sẽ tung bay phất phới. Hắn cảm thấy như đã nếm trước được sự hân hoan khoái trá. Sau đó thì việc giải vây Đông Quan chẳng khác nào trò chơi con nít! Thật hạnh phúc biết bao khi hắn sẽ đóng cũi và giải tên giặc Lê Lợi cùng đám thân tín của tên giặc ấy về Kinh thành Bắc Kinh. Hắn đã mường tượng ra khuôn mặt Rồng của Hoàng đế nhà Minh rạng rỡ bao nỗi vui mừng!

Liễu Thăng và đám kỵ binh vừa vượt qua phía Bắc của tường thành có hàng tiền quân theo sát gót. Chúng sắp đi vào chân núi Mã Yên xung quanh là các đám lầy. Người ta chỉ nghe thấy tiếng lách cách của khí giới cộng thêm tiếng rít ken két của đoàn quân xa. Không một tiếng chim. Nơi đây chỉ toàn là những đỉnh núi cô liêu quạnh quẽ. Một sự yên lặng đầy đe dọa mênh mông nặng trĩu như đá đè. Liễu Thăng tự nhủ: "Thằng nào còn dám đương đầu với chúng ta! Đám giặc cỏ này sợ quá chạy quắn đít hết rồi!"

Ngay chính lúc đó, nào là hàng loạt tên tua tủa, nào là đá tảng, nào là thương, lao, đạn pháo đủ loại tung ra, rồi từ bốn phía, bộ binh và kỵ binh Việt có voi trận trợ lực ào ạt tấn công tới.

Trong khoảnh khắc, kỵ binh Tàu bị cắt đứt khỏi hàng tiền vệ và bị bao vây, bị cắt chặt, bị dồn về phía các đầm lầy. Bị xô đẩy quá mạnh, Liễu Thăng mũ giáp đứt tung té xuống ngựa, đít lộn đầu văng vào một vũng bùn hôi thối, từ đó hắn quơ cả tay lẫn chân cố gắng ngoi lên.

Bốn tay vệ binh cố gắng bảo vệ cho hắn, một đứa thì bị kiếm đâm vào bụng, ghim chặt vào đất, đứa thứ hai bị đâm xuyên ngang người té nhào xuống, đứa thứ ba bị chém vỡ sọ té ngửa vào trong đầm lầy, còn thằng thứ tư thì bị một con dao bay tới chém rơi đầu.

Ngay khi Liễu Thăng đang quá khiếp đảm chưa có đủ thời gian nhìn thấy sự tan rã thảm hại của đoàn kỵ binh của hắn, và để nghe thấy tiếng gào thét của đám tiền vệ bị mắc bẫy trong đồn lũy thì hắn đã bị một tên quỷ dữ khoác giáp bào màu tê giác chém tử thương. Thế là hắn đã đi về suối vàng mang theo các ảo tưởng của mình.

Thấy Chủ tướng bị giết, đại quân Trung Quốc, hay nói đúng hơn phần còn lại chưa bị mắc kẹt trong lòng thung lũng và đang tham dự vào trận chiến, cảm thấy mất đi trụ cột nâng đỡ và lập tức tự tan hàng rã đám. Tựa như lá rụng trong cuồng bão, chùm lông tả tơi trong gió lốc, kỵ binh và bộ binh Tàu tứ tán mạnh ai nấy chạy.

Quân Việt từ các đồi dốc, hang hốc, tường lũy, hàng loạt nhào ra xông vào đám quân Tàu đang chạy trốn. Các cư dân lân cận cũng hùa vào trợ lực cho họ. Đoàn voi trận dẫm nát tất cả những gì ở dưới chân đang lúc các tay xạ tiễn từ những chiếc bành trên lưng voi bắn ra hàng loạt mũi tên thật chính xác vào đám giặc.

Trong số những thằng may mắn nhất hoặc láu lỉnh nhất, không biết có bao nhiêu thằng vừa đánh vừa rút lui được? Phía bên trong lẫn bên ngoài tường thành Chi Lăng, trong các đầm lầy và các vùng lân cận, hàng ngàn, hàng vạn quân Minh nằm sóng soài. Ai có thể tưởng tượng đến một sự giết chóc khủng khiếp hơn thế?

Từ trên một ngọn đồi cao, bộ tham mưu Tàu bất lực nhìn đoàn kỵ binh và hàng tiền vệ của mình đang bị tiêu diệt. Tin tức truyền đi nhanh gây ảnh hưởng trầm trọng cho tinh thần binh sĩ thuộc những đạo trung quân và hậu quân vẫn còn hùng mạnh với cả 50 ngàn quân. Trước sự tan vỡ của đạo quân, thêm sự trận vong của chủ tướng, tất cả những kẻ bị cưỡng bách viễn chinh trên đất Giao Chỉ sợ đến vỡ gan mật nát. Khắp tứ phía đâu đâu gương mặt lất cả đều biểu lộ đầy nét âu lo khiếp đảm.

Sự tấn công vũ bão của địch quân không gây bất ngờ cho Lữ, nhưng sự thiệt hại lớn lao của quân Tàu làm chàng ta choáng váng. Hiện thời bộ chỉ huy quân sự cấp cao và tướng Lương Minh được phong lên thế chỗ Liễu Thăng đã biết rõ quân Việt tài tình này đã gieo cho họ một cuộc tử chiến không thể lường được có làm cho họ cẩn trọng hơn không? Chàng hy vọng thế, nhưng không mấy tin vào điều ấy.

Kể từ đây, trước mặt Thiên tử và Triều đình Bắc Kinh, Tân thống tướng Lương Minh có bổn phận phải đem lại thành công. Hơn bao giờ hết, hắn ta phải thuyết phục được quân mình, đạo quân còn sót lại đó, về sự chiến thắng sắp tới. Hắn chỉ lo làm sao nghĩ cách tổ chức lại hàng ngũ để tiến tới đằng trước và cũng chẳng thèm chú ý gì đến lá thư thứ ba cố vấn Nguyễn Trãi gửi đến, chẳng khác gì nước đổ lá khoai. Trong khi hắn tin vào chiến thắng chung cục thì làm gì có vấn đề rút quân về biên giới? Nhưng quả là khốn cho hắn biết bao!

Năm ngày sau tại cẩn Tràm, quân nổi dậy đã đánh tan tành hàng tiền quân của hắn và đưa hắn vào cõi chết.

Lương Minh đã kế tiếp Liễu Thăng! Quá bất ngờ trước cái chết của vị tướng thứ hai cũng xảy ra trong trường hợp tương tự y như cái chết của vị tướng thứ nhất, quân sĩ Thiên Triều hoàn toàn suy sụp tinh thần và cạn kiệt hết nghị lực chiến đấu.

Trước tình cảnh vượt quá xa mọi dự đoán tệ hại nhất này, chàng Đội trưởng Lữ quay trở ngược cơn thịnh nộ vào đám tham mưu bất lực chỉ biết nhận quân hàm và lương bổng bất xứng, đồng thời chỉ biết tha hồ phung phí bao tiềm năng về nhân tài và vật lực vào một cuộc chiến chỉ dẫn họ đến thảm bại.

Vị tướng Lý Kính mới lên thay khôn ngoan hơn nhờ nhìn vào gương các vị tiền nhiệm bạc phước của hắn, bèn mở cuộc hội nghị. Các cố vấn chuyên viên của hắn góp ý:

- Chủ soái không nên xông mình vào những chỗ nguy hiểm. Trước khi tiếp tục tiến về hướng thành Xương Giang của chúng ta, xin ngài hãy ra lệnh gửi một toán trinh sát do một Đội trưởng rành rọt về ngõ ngách trong xứ để đề phòng tất cả mọi sự bất trắc.

Lý Kính tán đồng: "Thật là một đề nghị hay!".

- Họ có bắt đầu hiểu ra không nhỉ? - Đội trưởng Lữ nói với phụ tá của mình trong khi nhận lệnh thi hành sứ vụ trinh thám con đường Xương Giang.

Phụ tá Vũ lên tiếng: "Xin cho tiểu đệ tháp tùng với". Lữ trả lời:

- Không được đâu! Các ngọn đồi vùng Phố Cát này đầy rẫy loạn quân. Chú mày tin rằng ta vừa có thể chu toàn sứ vụ tế nhị này đồng thời lại còn phải run sợ giùm chú mày nữa hả? - Vũ giận dỗi: "Quả thật huynh coi tiểu đệ như thằng hèn nhát chẳng giúp ích gì cho huynh được hết".

- Không phải vậy đâu, chú mày sẽ giúp ta được nhiều hơn nếu chú ở lại đây.

- Bộ tiểu đệ không phải là người bạn thân tình của huynh sao?

- Phải chứ!

- Thế thì tiểu đệ sẽ ra đi với huynh! Vũ nài nỉ.

- Không được đâu, ta yêu cầu tiểu đệ hay ở lại! Lữ dứt khoát trả lời.

Thế rồi sau khi chọn lựa cho mình những chiến binh xem ra dũng cảm nhất, Đội trưởng Lữ trang bị từ đầu đến chân, dẫn đầu tốp quân nhỏ bé của mình ngay từ hừng đông, tiến vào những ngọn đồi ở Phố Cát.

Sau khi đi được ít dặm, toán trinh sát này bước vào một vùng đất hỗn mang, khắp nơi cây phủ. Sau đó một ít, họ lại tiến thêm vào trong một khu rừng sền sệt nước vào cuối mùa mưa.

Dùng kiếm phát ra một con đường để đi, Lữ tiến lên phía trước làm nhiệm vụ trinh thám, trông chàng ta thật thoải mái trong vai trò chiến binh anh dũng của mình, chàng không hề biết sợ độc khí, rắn rít và những đám vắt lúc nhúc. Thỉnh thoảng chàng ra dấu truyền đám người dừng lại, một mình chàng đi thăm dò trước rồi sau đó chàng lại ngóc lên từ đám cây rừng dày đặc, nước đầm đìa nhỏ giọt và chẳng nói một lời, các chiến hữu nặng nề theo bước chân chàng. Chúng hoàn toàn phó thác nơi chàng như nơi vị thủ lĩnh đã tuyển chọn họ, chỉ dẫn cho họ kiếm tìm ra nơi ẩn náu của địch quân trong thời gian nhanh nhất, đồng thời đưa chúng an toàn ra khỏi cái địa ngục ngàu đục trắc trở này.

Đến khoảng giờ Ngọ (giữa trưa), tốp người vẫn tiếp tục bước đi. Những ngọn đồi phủ dày đặc sẫm bóng, từng ngọn một cứ khép vòng vây chúng lại, lại chẳng hé lộ cho chúng dấu vết một bóng người nào cả. Tuy vậy Đám quân "man rợ" có mặt khắp mọi nơi: Sau các tầng lá, sau những thân cây rữa mục hoặc sau những tảng đá. Khu rừng đầy những cặp mắt và những hàm răng đen thui đang nhe miệng cười. Rất cảnh giác, tốp trinh sát dò xét từng bóng cây, từng nhánh lá, chúng ngẩng đầu lên lình rập đồng thời lại cảm thấy như đang bị rình rập, chúng tin chắc rằng xung quanh chúng, mẻ lưới đang từ từ siết chặt lại. Chúng đã nghe người ta nói rằng đám quân Việt chui tuột vào các hố sâu, không động đậy, không hít thở giống như những con kiến, những con sâu để rồi vào lúc thuận lợi, những người "còn sống mà như chết" ấy sẽ trỗi dậy, mình đầy khí giới, và sẽ ra tay dứt khoát! Đám quân Việt này có được những bẫy cài bí mật tinh tế nhất và khôn dò nhất, những dàn chông vuốt nhọn tinh vi nhất, những tảng đá được cột khéo léo vào các dây leo và sẽ từ trên đỉnh lao thẳng vào kẻ nào đang bước tới. Chỉ huy của chúng sành sỏi về xứ này biết rõ điều ấy. Liệu ông ta có điên không nhỉ? Chúng đưa mắt nhìn nhau ngầm ý biểu đồng tình, tay vừa chỉ trỏ vào lưng người Đội trưởng đang tiếp tục kéo chúng đi về phía trước, mỗi lúc mỗi cách xa doanh trại của chúng.

Mặt trời xuống. Từ hừng đông đến giờ, tốp người này không ngừng lên xuống bao nhiêu con dốc, tiến tới nặng nề chậm chạp trong khu rừng đang lúc nhúc những loài sâu bọ luôn chực đeo bám vào chân cẳng và chui tận lên cổ chúng. Những bóng cây trải dài ra che đậy ngàn nỗi hiểm nguy và khủng khiếp. Cảnh vật giờ đây chỉ còn là những đám hơi nước màu xanh đục, hoàng hôn chạng vạng và những chiều sâu thăm thẳm rùng rợn. Tất cả vẫn xem ra yên tĩnh.

"Ở đây quá yên tĩnh!", Lữ vừa tự nhủ vừa rắn rỏi thúc giục chiến hữu dưới quyền. Dinh trại của quân nổi loạn không còn xa nữa. Phải cố gắng tìm ra chúng trước khi đêm xuống.

- Nút chặt lỗ đ... lại và tiến lên!

Nghĩ đến việc trở lại hành dinh của Thống tướng Lý Kính sau khi đã hoàn tất sứ mệnh làm chàng ta tràn đầy hoan lạc. Không có cái đám thuộc hạ ốc sên này, có lẽ chàng đã hoàn thành công việc nhanh hơn. Đằng kia, tên Vũ phụ tá đang chờ đợi hắn sẽ không cau có nữa, cái thằng Vũ ấy càng dễ thương biết bao khi hắn biết run sợ giùm cho chàng!

Một tiếng "rắc" kèm theo tiếng hét khủng khiếp vang lên làm cả bọn dừng lại tại chỗ, rồi bỗng dưng xương cốt chúng trở nên lạnh ngắt như băng. Kìa một tên trong bọn đã bị rơi xuống hầm chông được ngụy trang khéo léo. Những cây tre vót nhọn ghim dưới đáy hầm đã xuyên thủng qua nạn nhân khốn nạn vừa bị rơi tõm xuống, tất cả sức nặng của hắn đè lên các mũi tre nhọn. Hắn ta vẫn chưa chết. Trên bờ hố, bọn chiến hữu không thể quay mặt đi. Một số sợ quá răng đập lập cập vào nhau, một số sợ quá đái són ra quần!

- Này đám ngốc, chúng mày còn chờ gì nữa. - Lữ vừa nói vừa xô chúng ra, rồi chàng ta phóng một mũi lao chính xác kết liễu đời tên khốn khổ ấy. - Bây giờ hãy tiến tới và hãy mở mắt to mà nhìn!

Đám thuộc hạ câm nín vì sợ hãi, lặng lẽ nhìn nhau. Dòng suối mồ hôi tuôn ra vì khiếp hãi thấm đẫm lưng chúng. Đội trưởng của chúng đang ném chúng vào bao nhiêu cái bẫy gài tương tự như thế? Tăng, tên lính nhanh nhảu nhất trong đám, người mà số còn lại xem như kẻ cầm đầu, gương mặt lạnh lùng như tảng đá thốt lên: "Ông ấy điên rồi!".

Tuy nhiên bọn chúng vẫn cứ tiếp tục tiến tới, tay cầm ngọn giáo làm gậy để dò đường.

Đại đội trưởng Lữ tiếp tục tiến tới, bước chân chắc nịch, cử điệu trông cương quyết, chàng có cảm giác đang tiến gần mục tiêu. Bỗng dưng lại vang lên tiếng một thân cây đổ! Một cái rào chắn ghim đầy cọc nhọn từ lùm cây ập xuống đã xuyên thủng hai tên lính nữa, cách chàng khoảng 30 thước. Chàng giáng một cái bạt tai oai vệ để bịt mồm một tên lính bắt đầu thét lên vì sợ hãi. Dòng nước nhầy nhụa trắng sữa phun ra từ chiếc sọ của một tên đã chết, tên còn lại cũng chẳng hơn gì! Lữ ra lệnh:

- Hãy giết nó luôn đi. Chẳng mấy chốc nữa trời tối rồi. Bộ các ngươi muốn cho lũ cọp sẽ có dịp kéo dài trò chơi sao? Tiếp tục lên đường!.

Ai nấy vừa bước đi ngang qua, vừa đưa mắt liếc nhìn về Tăng, đồng thời đưa tay chỉ lén vào Lữ. Chính tay Đội trưởng điên rồ này đã dẫn chúng đến cái chết như thế đó!

Bóng hoàng hôn chập chùng đang sẵn sàng phủ lên nạn nhân kế tiếp, thế mà vị chỉ huy của chúng vẫn cứ lầm lũi bước tới. Nỗi căm ghét, giận dữ pha lẫn sợ hãi đang xâm chiếm những con người quá căng thẳng này. Không có tay Đại đội trưởng, chắc chắn chúng đã tháo lui từ lâu rồi! Và khi chúng vừa leo lên một ngọn đồi khác thì Lữ truyền lệnh cho họ dừng lại, rồi chàng ta chui vào đám bụi rậm theo hướng chỗ có tiếng người vang ra. Thính giác tuyệt hảo đã không đánh lừa chàng: "Đám man rợ" hiện đang đóng trại phía đằng kia. Bọn chúng có đông không? Chúng có ngựa voi không? Khoảng bao nhiêu con? Chúng dự định tấn công Lý Kính và đại quân của ngài ở đâu? Đó là tất những điều Lữ phải khám phá cho được.

Lữ liền lẻn quay trở lại với đám thuộc hạ và cảm thấy giận điên lên trước sự hớt hải của chúng. Chàng quát lên:

- Tại sao lại giao cho ta đám thỏ rừng nhát đảm này! Tụi rợ quân đang ở bên đầu bên kia. Nào Tăng, mày hãy mang theo bốn người và hãy đi thẳng về hướng đông! Còn mày: hướng tây! Mày nữa về hướng nam! Còn những thằng khác hãy theo tao! Chúng ta cần bao vây ngọn đồi và dò thử xem bọn chúng đang trù định chuyện gì.

Thở hổn hển như những chú gà trống sau cuộc giao đấu, đám thuộc hạ vẫn đứng tại chỗ không nhúc nhích. Tăng lên tiếng:

- Thưa Đội trưởng, vô ích thôi, nếu ngài đã tìm ra đám quân Việt thì chính họ cũng đã tìm ra chúng ta rồi (hắn chỉ vào hai đứa trong đám bị ghim đầy tên), thắc mắc làm chi, chúng đông một trăm hay hàng ngàn đứa kệ chúng! Chúng ta nên rút đi thôi!

Lữ giận dữ la lên:

- Ăn nói như đánh rắm vậy. Còn tụi bay nữa, cùng toàn là lũ hèn nhát đáng thương, lũ lừa cái ngu xuẩn, không còn thời gian để lùi lại nữa đâu! Hãy nghe lời tao nếu tụi bây không muốn nếm thử lưỡi kiếm này nghe chưa! - Đám thuộc hạ lặng lẽ bước đến gần Tăng, gương mặt đứa nào trông cũng hung tợn, lạnh băng. Tăng trả lời, tia mắt nham hiểm, tay bấu vào ngọn giáo - Tiến tới đồng nghĩa là chết, và như thế mất mạng mà chẳng ích gì! Này Đội trưởng ông ưng thì ông cứ việc tiến tới đi!

Sau lưng Tăng, đám thuộc hạ nhe răng cười như động kinh: "ông ấy cũng điên như ngài Liễu Thăng rồi!".

Đội trưởng Lữ giận sôi máu lên quát: "Hãy nghe lời tao ngay nếu mày muốn sống". Vừa hét chàng vừa rút kiếm ra.

Nhưng tên chiến binh Tăng nhanh tay hơn đã phóng ngọn giáo ngay giữa ngực chàng. Lữ buông ra tiếng thét thảm thiết, đôi mắt lóe lên niềm căm giận pha lẫn nỗi khiếp đảm rồi ngã bịch đập mặt xuống đất, người nhầy nhụa máu. Cả bọn đổ xô vào người chàng tay thủ sẵn khí giới, chúng lật chàng lên mong nhìn được những tia sáng cuối cùng lóe lên từ đôi mắt chàng, nhưng đây chỉ là những đôi mắt của người đã chết đang đăm đăm nhìn chúng. Tăng nói:

- Một là hắn chết, hai là chúng ta phải chết. Nào! Chúng ta hãy rút lui ngay và khi về lại doanh trại chúng ta cứ phao lên là đã bị lọt vào ổ phục kích.

Nhờ vào bóng đêm, bọn chúng đã rút lui được đến chân đồi và sau khi hoàn hồn nhẹ nhõm vì đã thoát thân được, chúng đã vất vả lần mò về lại được doanh trại.

Bộ tham mưu của tướng Lý Kính có thể rút được những thông tin bổ ích gì từ nhóm lính kinh hãi thoát chết khỏi một trận phục kích sau khi bỏ xác vị chỉ huy tại chỗ? Đáng thương thay cho Đại đội trưởng Lữ sau 20 năm cúc cung phục vụ trong quân ngũ, cuối cùng lại bị chết bởi chính bàn tay của thuộc hạ mình trước khi hoàn tất sứ mệnh! Sự hiểu biết sành sỏi về đất nước này và sự sáng suốt cũng chẳng giúp ích gì cho chàng ta hết!

Ba ngày sau, vào ngày 18 tháng 9 năm 1427, tại các ngọn đồi ở Phố Cát, trên con đường Xương Giăng, quân nổi dậy đã gây cho đạo quân Minh những tổn thất quá nặng khiến cho Lý Kính phải tự sát vì quá tuyệt vọng.

Lên thế chỗ hắn là tướng Thôi Tụ, ông này hy vọng sẽ nối kết được với đám quân đang trấn giữ Xương Giang. Than ôi! Hắn ta đâu hay biết rằng thành này đã bị rơi vào tay quân nổi dậy. Khi biết được tin ấy, hắn ta phải quyết định đóng quân ở phía Bắc cổ Thành. Ngay lập tức, kỵ binh, bộ binh và hải quân Việt đồng kết hợp tung ra một mạng lưới nhện rộng lớn nhằm chặn đứng tất cả mọi sự rút lui về hướng Đông Quan hoặc hướng Quảng Tây và mỗi ngày họ càng siết chặt thêm gọng kìm.

Mặc dù tình hình trở nên căng thẳng vì đám quân man rợ cố ý trì hoãn tấn công để chờ cho quân đội Thiên Triều bị kiệt sức nhưng thống tướng vẫn không mất niềm hy vọng sẽ được cứu viện từ thành Chi Lăng và Đông Quan, chưa kể đến đám viện binh của tướng Mộc Thạnh. Giữa đêm tối, hắn truyền lệnh bắn hỏa châu ngỏ lời báo nạn. Thế nhưng Chi Lăng và Đông Quan cũng đang mong đợi viện binh chẳng khác gì hắn.

Về phần lão tướng Mộc Thạnh, qua các sứ điệp của Nguyễn Trãi vạch ra cho hắn thấy sự thất bại là tất yếu, đã hơn phân nửa bị thuyết phục rồi, cho nên khi Lê Lợi sai gửi đến cho lão ấn tín và các chiếu chỉ vương triều của vị tướng quá cố Liễu Thăng, lão thấy không còn giải pháp nào khác hơn là vừa đánh vừa rút lẹ về hướng Vân Nam. Theo lời người ta kể lại, ở đây quan lão đã bị quân nổi dậy săn đuổi và tiêu diệt đến nỗi lão phải lủi ngựa chạy trốn một mình. Thế là chẳng còn hy vọng gì nơi cánh viện binh này nữa!

Còn đám giặc hiện đang bị vây chặt ở mạn bắc Xương Giang thì bị đói và lả đến phải ăn chồi tre cào ruột rồi lại thêm bị sốt, bị kiết do nguồn nước dơ bẩn, bị vắt đỉa hút máu như nuốt sống, khiến tình hình ngày càng trở nên bi đát. Thống tướng Thôi Tụ nhìn thấy cơ may được viện binh ngày càng tiêu tán dần nên rơi vào hố tuyệt vọng. Tuy nhiên cho dù các sứ điệp của đối phương khuyên hắn hạ vũ khí và ký kết một hòa ước trong danh dự, hắn cũng vẫn tiếp tục chống cự lại theo nguyên tắc đường đường là một chỉ huy tối cao các quân đội thiên triều đo Hoàng Đế Trung Quốc Thiên Tử tấn phọng, hắn không thể nào chịu đầu hàng "đám quân mọi rợ". Thà chết còn hơn!

Đang lúc tất cả vấn đề còn lại bây giờ là làm sao biết được khi nào quân nổi dậy sẽ tấn công thì Cố vấn Nguyễn Trãi lại gửi đến cho hắn một sứ điệp mới:

"Hôm nay, tôi đã ra lệnh cho quân sĩ bỏ trống con đường từ Can Tram đến Khâu Ôn để quân đội của ngài được vô sự đi qua. Và trong hạn ba ngày các ngài phải rút lui. Quá thời gian ấy, nếu còn chần chừ, thì chính các ngài đã không giữ lời hứa chứ không phải lỗi tại tôi."

Thống tướng và các cố vấn thân cận vẫn nghĩ rằng đây chỉ là một mưu mô nên một lần nữa, chúng vẫn quyết định chờ đợi. Thực ra đây đúng là lá tối hậu thư.

Hết hạn ba ngày, vào ngày mùng 3 tháng 10 năm Đinh Mùi này (1427), quân nổi dậy bắn tên tua tủa đồng thời tung vào các loại đạn pháo chất nổ từ khắp bốn phía, sau đó cả hàng chục ngàn người nhào đến tấn công, trong số đó kỵ binh và một nhóm cưỡi voi xông thẳng vào tổng hành đinh đóng tại trung tâm doanh trại.

Đối diện với một số quân địch đông như kiến cỏ xông đến như thủy triều dâng, quân sĩ Thiên Triều bị bao vây chẳng khác nào lũ cá trong đầm, lũ chim trong lồng. Chúng chỉ kịp đủ thời gian để thở và sau đó nhanh chóng bị tan tác. Hàng đội hỗn loạn, binh lính và sĩ quan, lớp ngã xuống, lớp bỏ trốn. Một số khác cố gắng vượt sông Thương và sông Lục Nam nhờ vào các ngọn giáo buộc chùm với nhau thành bó, nhưng sau đó lại mau chóng bị các thuyền bè quân nổi dậy chặn bắt.

Trong lần tấn công này, "địch quân" không hét lên câu hét thường dùng trước kia "chúng ta hãy giết giặc Tàu!" nữa, mà lại kêu gọi sự đầu hàng, họ la lên "Kẻ nào đầu hàng sẽ không bị giết!", nhưng đám giặc Tàu chẳng nghe mà cũng chẳng hiểu gì cả.

Chẳng bao lâu, đạo binh thiên triều không còn khả năng đương đầu với quân nổi dậy nữa, chúng đã bị chặt nát tan tành tả tơi tên chủ tướng và 300 sĩ quan bị bắt. Vào lúc cuối ngày, cảnh tượng ở mạn bắc Xương Giang chỉ còn là một trận địa thê thảm nơi đó hàng chục ngàn thây người đẫm máu đang nằm sóng soài bên cạnh những chiến xa bị lật nhào và những hiệu kỳ tan tác tả tơi.

Đội phó Vũ bị nhốt chung với các tù binh khác ở chân tường thành đang ngắm nhìn mà không trông thấy được làn hơi đang bốc lên từ những xác người bị phanh thây đằng kia và chàng ta cứ ngỡ là những xác ấy đang bị thiêu cháy vậy. Kể từ khi người đại đội trưởng yêu dấu của Vũ qua đời, hắn chẳng còn đè nén được nỗi muộn phiền và đau đớn riêng tư khiến hắn trở nên một người lãnh đạm. Hắn chiến đấu theo phản xạ chỉ vì là một quân nhân, không màng tính đến chuyện bản thân còn đang sống hay là đã chết. Tuy nhiên hắn cũng cố gắng tỉ mỉ tổng kết sự thất trận thê thảm này như Lữ cũng sẽ làm nếu Lữ còn sống. Trong chưa đầy 30 ngày, hai đạo viện binh hùng mạnh đã bị tiêu diệt, ba vị tướng đã thiệt mạng, tổn thất về người lên đến hàng chục ngàn. Thêm vào số tù binh đông đúc còn có tất cả đám quân bỏ trốn bị các nông dân và tiều phu các vùng lân cận chặn bắt lại được.

Vũ quay đầu không dám nhìn đám lính bỏ trốn tả tơi rách nát đang bị lũ quân "mọi rợ" thúc giáo đẩy vào chuồng và hắn thở dài. Hắn vẫn tin chắc rằng Đội trưởng của hắn sẽ không phải chết nếu hắn được theo tháp tùng anh ấy trong các vùng đồi núi hiểm hóc ở Phố Cát. Hắn rùng mình khi nghĩ đến bờ môi đẹp xinh mọng đỏ của người Đội trưởng, mà thiên hạ có thể ngỡ là đã được vẽ nét bằng chất "châu sa", hiện giờ đang bị đám giòi bọ đục khoét. Chà! Phải chi hắn có thể lột da được lũ nào đã giết chết Lữ để làm chăn nệm!

—★—

Vào chính chiều hôm ấy, trước khi rời tổng hành dinh ở vùng giáp với thành Xương Giang để đi đến doanh trại Bồ Đề, Lê Lợi đã truyền lệnh một đoàn hộ tống vững chắc chở Thống tướng bại trận Thôi Tụ và các sĩ quan của hắn về Đông Quan với mục đích để cho Vương Thông và lũ giặc Minh đang bị bao vây trông thấy tận mắt.

Tiếp đó, trong khi kiểm điểm lại con số các chiến sĩ kiêu hùng đã hy sinh trong các cuộc chiến thắng vừa qua, Lê Lợi tuôn trào xối xả dòng lệ thương tiếc các tướng lĩnh, các chỉ huy và các Đội trưởng đã bị chết trong các trận chiến này:

Ngoài Mắt Phượng Trần Lưu, Chồn Ngoài Hang Hiểm và Kiếm Ngọc Phạm Văn Xảo là những người đầu tiên ngã xuống ở biên giới đúng theo dự tính, Lê Lợi còn khóc than thêm những người sau đây:

Tận Thoát Lê Thụ, một trong các chiến hữu lâu năm nhất của Lê Lợi đã hy sinh tại Chi Lăng, người ta bảo rằng chàng đã thốt lên bốn tiếng "Đại Sách Bình Ngô" (chiến lược bình Ngô của Nguyễn Trãi) trước khi dòng máu tràn dâng đầy cổ họng khiến chàng ngộp thở. Chẳng bao giờ con người "Dũng cảm trong số những người dũng cảm" này sẽ được rút lui vào sâu trong núi để tìm kiếm con đường giải thoát. Cũng tại Chi Lăng, nữ sát thủ Lức đã xuống âm phủ để gặp lại đấng anh hào nàng đã từng luôn luôn dõi bước. Quả là một số phận bi đát đã dành cho nàng bởi vì chỉ trong một phút do dự, điều này thật khó cắt nghĩa đối với người sát thủ lạnh lùng này, lưỡi dao của nàng đã dừng lại phía trên chiếc đầu của nạn nhân nàng, một tên quân trẻ tuổi gần như một đứa bé trong số những tên Tàu khốn khổ đi hộ tống đoàn quân xa. Phải chăng người phụ nữ chưa bao giờ sinh nở này đã bất ngờ bị cảm xúc trước cái cổ mơn mởn thanh xuân đang như điên loạn phập phồng trước những phút giây cuối cùng? Ngay lúc buông lỏng con mồi ra thì một lưỡi búa trận đã cắt ngang thân nàng thành hai khúc đẫm máu lẫn vào bụi đất.

Tại Phố Cát, Bất Đắc Kỳ Tử Lê Ngân dù đã tận lực sử dụng con dao thần sầu của mình, và ngựa sắt Trương Chiên, người kỵ sĩ cực kỳ hung hãn, cả hai cũng đều mất tăm trong cơn hỗn chiến. Đáng thương thay các vị anh hùng đã thành những con ma lang thang này!

Tại Xương Giang, một ngọn thương bọc nanh sói đã chém vỡ sọ Diêm Vương Lưu Nhân Chú, người dũng sĩ biết bao kiêu hãnh đã từng giết được tên tướng Liễu Thăng. Hồn ma khát máu báo thù này hiện đang lang thang trong bóng tối cõi âm!

Và còn biết bao dũng sĩ vô danh khác nữa có thể tới hàng chục ngàn đã rưới đẫm lên mảnh đất Đại Việt bằng máu của chính mình.

Chủ soái Lê Lợi nói:

- Lũ quân Ngô sẽ phải trả lời với chúng ta về cái chết của các chiến hữu và các anh em chúng ta. - Rồi lặng lẽ nhìn bộ tham mưu thưa thớt, ngài tiếp - Chư vị muốn đánh chiếm Đông Quan ngay phải không?

Tất cả tướng sĩ đều đồng thanh tỏ ý đồng tình:

- Và chúng ta sẽ rửa hận lên đầu lũ giặc Tàu.

Con Rồng Lê Lợi tiếp lời: "Vậy kể từ đây, Đông Quan sẽ thuộc về chúng ta, này hãy tiến lên!" Thế là Lê Lợi cùng toán quân dồn bước liền đến doanh trại Bồ Đề ngay khi đoàn xe hộ tống chở tên tướng Tàu cũng đang đến cổng Kinh thành.

Ngay khi vừa được loan báo, tên thống tướng Vương Thông, Tổng binh Trần Trí và Bố Chính Hoàng Phúc hối hả lên bờ thành xem xét sự tình. Nhìn thấy Thôi Tụ và các sĩ quan cùng với cờ quạt, trống chiêng do bọn quân man rợ ấy dẫn đến, thoạt tiên bọn này không dám tin vào chính mắt mình! Nhưng ngay khi tụi lính gác cổng thành phía Nam mang đến cho chúng chiếc hộp đựng hai chiếc ấn có khắc huy hiệu con cọp của Thống tướng Liễu Thăng cũng như những con dấu bằng bạc của tướng Lý Kính thì chúng buộc phải chấp nhận sự thật nhục nhã và nặng nề là đại quân cứu viện đã bị quân "man rợ hôi hám hàm răng đen đúa" tiêu diệt và như thế sẽ không còn viện binh nào đến nữa.

Điều này khiến tâm khảm chúng muộn phiền khủng khiếp và sự phiền muộn chuyển sang thành nỗi kinh hãi khi chúng nhìn thấy phía bên kia sông, đạo quân uy nghi của Lê Lợi đang tiến vào doanh trại Bồ Đề. Bỗng chốc cả ba cảm thấy khiếp sợ như những con chó lạc vào giữa một đám tang.

Tên Vương Thông hoàn hồn lại trước nhất, hắn sai đóng tất cả cửa phòng họp thường dùng để bàn việc cơ mật và các cuộc hội nghị quân sự, rồi tuyên bố với bộ tham mưu đang nhóm họp:

- Đến giờ phút này, chúng ta chỉ có thể lựa chọn giữa việc đầu hàng địch quân hoặc chờ đợi quân "man rợ" này đến kết liễu đời chúng ta.

Tổng binh Trần Trí rên xiết: "Ai có thể tin được rằng tên "dân ngu khu đen" Lê lợi đã chiến thắng chúng ta!".

Tên Hoàng Phúc, bây giờ trông già và thảm bại hẳn đi, ném về Trần Trí tia nhìn giận dữ và nói:

- Lũ rợ này thắng chúng ta cũng giống như đám lũ rợ ngày xưa đã từng chiến thắng các triều đại trước đây của chúng ta: người nhà Hán, nhà Tống và nhà Nguyên là những người đã tự xưng là nắm vững tình hình. Chính những người này đã ỷ vào thế quân sự hơn là chính trị. Chư vị hãy nhìn xem điều ấy đã dẫn họ về đâu?

Tướng Mã Kỳ thở dài lên tiếng:

- Tiện chức đã nói với quý vị là lũ giặc cỏ này đã từng rành rõi việc chinh chiến mà!

Ủy viên An Ninh vừa hướng cái nhìn đầy ý vị về phía Hoàng Phúc vừa vặn lại:

- Chúng đạt được thành công trên hết là nhờ vào đám gián điệp của chúng!

Vương Thông bực mình gạt phăng:

- Các ngươi nên đưa ra một đề nghị nào đi chứ còn hơn là ngồi đó mà cắn vào lỗ rốn!

Cho dù người ta khó nhận ra được Bố Chính Hoàng Phúc vì xem ra hắn đã mất hết cả bản chất cốt tủy riêng của hắn rồi, tuy nhiên hắn cũng vẫn còn giữ lại nét nham hiểm của ngày xưa khiến thiên hạ phải đề phòng và sự tinh khôn khiến thiên hạ phải kính nể. Hắn góp ý:

- Chúng ta không nên ngồi chờ đám rợ quẫn đến kết thúc hoàn toàn sự thất trận của chúng ta. Ngược lại chúng ta hãy bước đi trước, chúng ta hãy xác định là chúng ta cũng có ý tính đến việc không còn muốn kéo dài vô định những khốn khổ của binh lính hai phía, và chúng ta đưa ra đề nghi một bản giao ước thiết lập mối thân thiện hòa bình với lên giặc Lê Lợi ấy. Bằng sáng kiến này, chúng ta sẽ bảo toàn được quân lực đồng thời sẽ không bị mất mặt. Chư vị nghĩ thế nào?

Đôi mày rậm nhíu vào nhau, Vương Thông đưa mắt dò hỏi Tổng binh Trần Trí và các tướng lĩnh. Tất cả đều chấp thuận giải pháp của Hoàng Phúc đưa ra. Cuối cùng Vương Thông nhẹ nhõm kết luận:

- Vì tất cả đều quyết định như thế, nên ta sẽ cho gửi đến đám quân rợ này một bản nghị hòa đồng thời cùng trong tinh thần đó, ta sẽ cho viết một bản tường trình về Hoàng đế ở Bắc Kinh báo cho ngài biết về tình hình ở Giao Chỉ.

—★—

Làm thế nào tên gián điệp trong cấm thành chộp được lá thư của Vương Thông gửi cho Hoàng đế Trung Hoa và một phó bản gửi cho vị cố vấn Thượng Thư Bộ Lại Nguyễn Trãi? Nhưng cuối cùng vị nho sĩ này nhận được sứ điệp đúng vào giây phút quyết định nhất, ngay lúc mà ở tại doanh trại Bồ Đề người ta đang thảo luận về việc tấn công Đông Quan.

Thống tướng Vương Thông viết:

"Chúng ta hãy cẩn thận đừng để vì lòng ham muốn một mảnh đất mà áp đặt cho quân sĩ chúng ta những sự nhọc hằn vì phải đi chinh phạt xa xôi. Giả như chúng ta có được quân số đông như thuở ban đầu và cỡ 6,7,8 vị tướng ngang tầm Trương Phụ, có lẽ chúng ta có thể chiến thắng được. Tuy nhiên dù có chiến thắng, chúng ta cũng sẽ không thể giữ được xứ sở này v.v...".

Như thế bản nghị hòa của Vương Thông chẳng phải là cái bẫy theo như sự nhận xét đầy lo ngại của các tướng lĩnh của Lê Lợi. Quân thù đã sẵn sàng đầu hàng thì tội gì phải ném quân sĩ vào cuộc tấn công Kinh thành? Được thông báo về những ý định của thiên triều, nên hơn bao giờ hết, vị nho sĩ nghiêng về một giải pháp nhằm bảo tồn các sinh mạng, thành phố cổ kính và cả tương lai nữa. Nếu kết cuộc của chiến tranh tùy thuộc vào Chủ soái Lê Lợi, thì việc lập lại hòa bình từ nay nằm trong bàn tay Nguyễn Trãi. Chàng có bổn phận phải thuyết phục Con Rồng.

Thấy Nguyễn Trãi sải bước đi về hướng túp lều nghị sự, Thị Lộ nhìn Từ Chi đang đẽo thanh kiếm gỗ cho chú bé Nguyên Long, vội đưa mắt dõi theo. Ngay lúc này đây, nàng vừa thở dài vừa ngẫm nghĩ, liệu nàng có được chỗ đứng nào trong những suy nghĩ lo toan của Nguyễn Trãi không? Nhưng thôi! Nàng vẫn còn được niềm vui là không có đối thủ cạnh tranh nào khác trong tâm trí chàng ngoài mảnh đất Đại Việt này.

Lão thợ mộc luôn theo dõi từng đường đi nước bước của nàng lên tiếng an ủi:

- Cưng của ta ơi, chẳng bao lâu nữa chiến cuộc sẽ tàn! Hãy kiên tâm, hãy tin vào Từ Chi này!

- Và lúc ấy nguyệt lão sẽ làm đám cưới cho chúng ta - vừa nói cậu bé vừa siết chặt bàn tay Thị Lộ. Cậu bé nói tiếp:

- Ông chú ơi, đừng cười nhé! Một ngày kia ta sẽ là Hoàng đế của ông đấy, hãy đẽo cho xong thanh kiếm của ta nhanh vào!

- Xong ngay. Tâu Thánh thượng!

Từ Chi mỉm cười rơm rớm nước mắt giễu cợt:

- Thưa tiểu muội, trước tiên tiểu muội phải lo nuôi nấng chu tất cho ông chồng tí teo ấy nhé!

Nhưng ngay lúc đó có tiếng kêu:

- Nào chư vị ơi, chư vị còn chờ gì nữa? Hãy đến đây! Chính giây phút này mọi sự sẽ được quyết định. - Ba vừa nói vừa chỉ vào màn trướng của Lê Lợi.

Từ các miền lân cận, từng đoàn người kéo đến xin Lê Lợi sự đền bù. Nhiều phụ nữ là con gái, là vợ, là mẹ, là chị em, bận tang phục trắng, nuôi sâu lòng căm thù về những tội ác lũ quân Minh gây ra, đang đòi hỏi công lý. Họ quỳ xuống vái lạy lia lịa vừa kêu van: "Xin hãy giết sạch lũ giặc Tàu!". Nhiều gương mặt rực lên ánh lửa hận thù. Đã đến giờ lũ giặc Ngô phải trả giá cho lòng độc ác, sự khinh khi, sự cướp phá và hãm hiếp của chúng. Người ta sẽ chặt đi những đôi chân đã dày xéo quê hương, những đôi tay đã cướp bóc nó. Người ta sẽ cắt đi những chiếc lưỡi đã thốt ra những lời tuyên án, mạ nhục, sẽ móc đi những đôi mắt đã từng thèm thuồng phụ nữ và của cải. Người ta sẽ cắt đi những lỗ tai không hề để ý đến bao nỗi đớn đau mà chỉ biết thích nghe những lời vu khống. Người ta sẽ chẻ từ trên xuống dưới những cái bụng phệ của lũ Tàu được nuôi bằng sự vất vả và còng lưng của đám dân đen. Người ta sẽ dâng những trái tim và bộ lòng đang còn thoi thóp của chúng để hiến tế vong linh các nạn nhân vô số kể của chúng.

Một cụ già gập mình dưới chân Lê Lợi nói:

- Tâu Đại vương, xin làm ơn cho già biết ngài sẽ trả thù như thế nào?

Cố vấn dân sự Lê Vãn Linh, biệt hiệu Thanh Vân, bước ra tâu:

- Tâu Chúa thượng, thần dân ngài đang chờ đợi ngài ra lệnh tiến chiếm Đông Quan.

Con Rồng Lam Sơn vừa thấy Nguyễn Trãi đến liền nói ngay:

- À này! Ý kiến của ngài cố vấn Thượng thư Bộ Lại của chúng ta về vấn đề này thế nào?

Bộ tham mưu vội đứng lên, tiếp đó là các quan văn võ vừa mới được Lê Lợi phong chức trong vùng Châu Thổ. Đám đông trong đó có cả người vừa mới tới là Ba, Phi Hùng và Từ Chi, cô Thị Lộ tay dắt theo chú bé Nguyên Long và một đạo sĩ nữa. Tất cả đều im lặng. Vị nho sĩ trả lời:

- Trong những hoàn cảnh như hiện nay, tấn công quân thù và uống máu chúng thì chẳng khó khăn gì đối với chúng ta. Nhưng một thiên tài về quân sự thì bao giờ cũng ghê tởm các cuộc tàn sát. Những dự phóng lớn lao phải được xây dựng trên nhân nghĩa và công chính. Và nhân đức chính là ở chỗ biết bảo toàn các sinh mệnh để dành cho những viễn cảnh lâu dài hơn.

Nghe thế, đám đông gầm thét vùng mình lên như con thú bị chọc giận đẩy sát khí. Những người phụ nữ bận đồ tang, biểu tượng cho mảnh đất quê hương bị dày xéo, đưa ngón tay hướng chỉ về vầng trán của kẻ dám chối từ sự báo thù cho họ. Còn cánh đàn ông thì dữ dằn xông tới chuẩn bị sẵn sàng lăng mạ. Trái tim đập mạnh, Thị Lộ tự nhủ: "Chỉ đơn thân độc mã đối diện với đám người đầy hận thù này, ôi! Chàng cao cả biết bao!". Nàng xiết bao mong muốn chàng dừng lại trên mình ánh nhìn uy nghiêm ấy, ước chi chàng biết rằng nàng hiểu thấu và đang chia sẻ cùng chàng?

Ông lão lúc này vừa mới thúc giục Lê Lợi sử dụng bạo lực liền đứng dậy, đôi mi mắt xếp đầy những nếp nhăn tinh quái, lão lên tiếng:

- Xin Đại quân đáng kính tha thứ cho lão già vô danh tiểu tốt này! Chắc chắn những đức tính cao quý của ngài thuộc về bản chất một vị đại nho sĩ, nhưng xin thưa ở đây có phải là vấn đề nhân nghĩa không? Người ta sẽ đối xử nhân đạo với những kẻ biết nhân biết nghĩa còn đằng này, lũ giặc Ngô chỉ là những thằng bất nhân bất nghĩa!

Ông lão đưa cao bàn tay, run run lên xin trời chứng giám. Đám đông lao xao bày tỏ sự tán đồng với ông lão. Được thể, lão nói tiếp:

- Thân quyến của vua chúng ta từ con nít đến người già đều bị chúng tàn sát, mồ mả tổ tiên ngài bị chúng lăng nhục. Lẽ nào ngài sẽ xử sự như một người con bất hiếu trong khi ngài nắm trong tay đầy đủ phương tiện báo thù? - Và đưa hàm râu thưa thớt hướng về Trần Nguyên Hãn, lão tiếp - Và thống tướng Trần Nguyên Hãn của chúng ta liệu có chịu bỏ qua không trừng phạt những kẻ đã tiêu diệt tiền nhân ngài, những vị Hoàng thân cuối cùng triều đại nhà Trần không? Với bao năm tháng tuổi tác trên đầu, kẻ tôi mọn này xin nói lên điều này: Nhổ cỏ xấu thì phải nhổ tận rễ!

Con Rồng và Con Hổ Trầm trao nhau một cái nhìn hàm chứa sự mặc nhiên tán đồng: Những lời thốt ra từ miệng lão trượng này quả thật chí lý.

Từ giữa đám đông đang say máu này, Thị Lộ hướng toàn thể gân cốt trong người nàng về phía vị nho sĩ mong đợi chàng sẽ thốt ra câu trả lời làm bẽ mặt những kẻ phản đối chàng. Như dự đoán trước, nàng run sợ cho chàng, còn Ba thì tái ngắt đi vì xúc động, trong khi cạnh chàng, lão đạo sĩ lại mỉm cười. Không biết lão già tinh quái này tìm thấy cái gì trong đó để mà khoái chí nhỉ? Từ Chi đã nói với nàng là đạo sĩ ấy biết Nguyễn Trãi từ hồi chàng còn bé. Nàng nghĩ: dù trông không có vẻ già lắm nhưng chắc chắn lão này rất cao niên. Chú bé Nguyên Long bỗng nắm vạt áo nàng kéo đi vừa nói:

- Hiền tỷ ơi! Ta chán lắm! Nào chúng ta đi chỗ khác thôi!

- Ngoan nào! Hãy lắng nghe Quân sư Ức Trai nói!

Đằng kia, Nguyễn Trãi bắt đầu lớn tiếng cất lời, giọng chàng rung rung:

- Chư vị tưởng rằng ta quên được tội ác của lũ bạo tàn sao! Sự khủng khiếp đã giáng xuống trên tất cả mọi người trong xứ sở này, kẻ nho sĩ đang thưa chuyện với quý vị đây cũng cùng chung số phận. Mỗi người trong chúng ta đều đã chịu bao tang tóc tàn ác, có những đàn ông đã bị chúng thiêu sống, những phụ nữ, những hài nhi đã bị chúng cắt cổ, còn những kẻ khác thì bị mang về Trung Quốc và phải chết trong cảnh lưu đày. Tuy nhiên, chúng ta đã chiến đấu là để chống lại sự độc ác và bất công, chúng ta không nhằm gieo chết chóc mà chỉ muốn mở một con đường để khai thông cho sự sống và đem lại yên bình cho dân chúng. Vậy điều gì sẽ xảy đến nếu chúng ta tàn sát lũ giặc Ngô? Tôi sợ rằng chúng ta sẽ chỉ mang lại nỗi căm hờn sâu đậm nơi chúng. Để báo thù và để bảo vệ uy tín của một đế quốc rộng lớn, chúng sẽ gửi sang một đạo quân mới hùng mạnh gấp 10 lần đạo quân trước đây, như thế những khổ đau của chiến tranh sẽ còn kéo dài cho đến bao giờ? Thưa lão trượng đáng kính, cụ sẽ không sống cho đến ngày nhìn thấy hòa bình, còn các con cháu cụ sẽ phải nếm mùi khốn khổ. Và giả như cuối cùng chúng ta sẽ thắng được chúng đi nữa thì sẽ có biết bao người thiệt mạng? Vậy tốt hơn là chúng ta hãy lợi dụng tình hình này khi địch quân bị dồn vào thế chân tường để thiết lập hòa bình với chúng, nhằm đem lại lợi ích cho cả hai nước. Một khi đã chiến thắng kẻ thù, biết tự thắng chính mình đó chính là sự khôn ngoan của chúng ta.

Một sự yên lặng mênh mang nối tiếp những lời trình bày của Nguyễn Trãi. Chăm chú theo dõi phản ứng từng người. Thị Lộ nhận thấy nỗi nghi vấn vẽ lên khuôn mặt cụ già những nét rạn nứt như một lớp thạch cao cũ kỹ, và làm dịu bớt nỗi gay gắt nơi những phụ nữ mặc tang phục. Còn nơi những kẻ khác, những kẻ lúc nãy gào thét đòi báo thù thì giờ đây họ có thể nhận ra được những tổn thất mà họ còn có thể sẽ gánh chịu thêm nữa chăng? Cực kỳ bối rối, đám đông đồng loạt hướng tia mắt nhìn về bộ tham mưu như cả một lò vũ khí khổng lồ. Cô gái trẻ thầm tự hỏi, không hiểu các vị tướng lĩnh cố vấn và sĩ quan sẽ đưa ra những lời phản đối gì đây.

Quả thế, Cố vấn Hoạt Bát Bùi Quốc Hưng tiến lên nói:

- Ai dám bảo đảm cho chúng ta về lòng thành của thằng Vương Thông mà hành động và lời nói thường mâu thuẫn với nhau? Chúng ta đã có một mục tiêu rõ ràng rồi: Đó là tiến đánh chiếm Đông Quan. Bàn cãi dài dòng chi cho mệt?

Đôi mắt vị nho sĩ bốc lửa. Chàng đưa bàn tay buộc tội hướng về bộ tham mưu trong khi trái tim Thị Lộ đập thình thịch ra dấu bảo chú bé Nguyên Long giữ yên lặng. Nguyễn Trãi lên tiếng:

- Cả chư vị này, chư vị tướng lĩnh và sĩ quan: Tấn công chiếm thành có quan hệ gì đến quý vị đâu! Quân sĩ phải thiệt mạng, gia tài cổ kính của tổ tiên bị tàn phá có liên can gì chư vị đâu! Đối với chư vị là phải chiếm Kinh thành bằng mọi giá mà. Vậy tại sao tại phải chiếm Đông Quan bằng vũ khí gươm giáo trong khi nó đã sẵn sàng được giao nộp cho chúng ta. Quân thù đang sẵn sàng đầu hàng kia mà?

Chồm chiếc mồm cọp đang đánh mùi con mồi ra phía trước, Đại vương Lê Lợi hỏi:

- Ngài có chắc chắn không?

Nguyễn Trãi trả lời:

- Thưa chủ soái, thần đoan chắp như vậy.

Đánh hơi gió đổi chiều, Sấu Thần Lê Sát quay bộ mặt luồn cúi của hắn trực chiếu vào vị nho sĩ rồi lên tiếng:

- Trong suốt cả cuộc chiến, lúc nào vị cố vấn Thượng thư Bộ Lại của chúng ta cũng luôn luôn mở miệng nói đến sự nhân từ và vì thế hiện giờ, dù cho dân chúng kêu gào đòi sự báo thù chính đáng thì ngài cũng vẫn khăng khăng cự tuyệt và lại còn muốn thuyết phục chúng ta nữa! Dù ngài giao chiến với quân Tàu, nhưng trong lòng ngài vẫn luôn thán phục Đại đế quốc phương Bắc. Dù ngài chẳng quên những tội ác của quân bạo tàn, ngài cũng vẫn kết bằng hữu với một tên xâm lược như là Thái Phúc. Theo thiển ý của hạ thần thì triều đại chúng ta sẽ được thiết lập trên máu của kẻ thù chúng ta. Một khi lũ Ngô đã bị thua rồi thì chẳng bao giờ chúng còn dám tấn công chúng ta nữa!

Ngay khi nghe những lời hắn thốt ra đầu tiên, Thị Lộ đã hoàn toàn thấy nhờm tởm đối với Lê Sát. Nguyễn Trãi càng cao cả bao nhiêu, hắn càng ty tiện bấy nhiêu. Nguyễn Trãi càng ngay thẳng bao nhiêu, Lê Sát càng lươn lẹo bấy nhiêu. Nguyễn Trãi càng cao ngạo bao nhiêu, Lê Sát càng hèn hạ bấy nhiêu. Phi Hùng nổi giận nghiến đôi hàm răng, còn Hổ Trầm Trần Nguyên Hãn thì dù ông ta bênh vực ý kiến đánh chiếm Đông Quan, nhưng trước sự xuất chiêu thâm độc chống người anh em họ Nguyễn Trãi của mình, gương mặt bình thường lạnh lùng bỗng dưng bốc lên cơn lửa giận. Còn lão Đạo sĩ thì vẫn xem ra cực kỳ khoái trá trong lúc bên cạnh lão, Ba và Từ Chi sắp sửa phát khùng lên.

Thế là đám đông luôn sẵn sàng háu mồi lại náo động trở lại. Lê Lợi tái lập sự hòa khí. Ngài lên tiếng:

- Không thể nào có chút nghi ngờ về lòng yêu nước dạt dào nơi Nguyễn Trãi. Mong rằng không ai ở đây nghi ngờ về lòng quý mến mà ta dành cho tài năng và lòng trung nghĩa của ông ấy.

Thế là Đức vua đã lên tiếng. Ai còn dám phản kháng lại lời ngài? Đám đông như con thú vật bị chế ngự, khôn ngoan khom lưng xuống, những kẻ ngang ngạnh nhất cũng thôi không nhe nanh ra nữa. Đám thân thuộc của vị nho sĩ ném những tia mắt chiến thắng lên bộ mặt chưng hửng của tên Lê Sát. Thi Lộ thầm thì vào tai chú bé Nguyên Long: "Đại vương Lê Lợi cha cậu ủng hộ Quân sư Ức Trai", nhưng điều này chẳng gây cho chú bé nhà ta chút quan tâm nào cả! Chú bé nói:

- Hiền tỷ ơi, xong chưa?

- Sắp rồi, sắp rồi. Sau đó ta hứa sẽ làm điều cậu thích! Được chưa nào?

Một lần nữa tất cả sự chú ý lại tập trung nơi con người luôn luôn xem thường sự nhục mạ cũng như sự tán tụng. Vừa như ngoài mọi tầm tay, vừa hiền dịu một cách đặc biệt, con người ấy bây giờ đang đơn độc đứng trước Con Rồng. Từ cụ già g