Tập 9 Chương 1
Trong tâm hồn tôi lòng ái quốc
Ngày đêm dào dạt như gợn thủy triều biển Đông
NGUYỄN TRÃI
Sau hai mươi năm gián đoạn, nhà chép sử thành Thăng Long lại đặt bút ghi tiếp những dòng sau đây:
Vào tháng tư, mùa xuân năm đầu tiên triều đại Lê Thái Tổ (1428)
Niên hiệu Thuận Thiên (nghĩa là Thuận theo ý Trời)
Lê Lợi lên ngôi, đặt tên là triều đại Lê Thái Tổ niên hiệu Thuận Thiên, lấy tên nước là Đại Việt, đặt thủ đô tại Đông Quan lấy lại tên cũ là Đông Kinh174.
Ngài giao cho Đệ nhất cố vấn Nguyễn Trãi soạn thảo "Bình Ngô Đại Cáo"175, phong cho công thần các tước vị tôn quý. Để thưởng công lao trận mạc chống quân xâm lược cũng như công phục hồi đất nước và triều đại, Lê Lợi đã ban cho 221 chiến hữu của ngài danh hiệu công thần với các tước vị tôn quý và quyền được mang họ nhà Vua cùng nhiều thứ bổng lộc. Và để thưởng công lớn cho vị chỉ huy người Mường tên Lai, biệt hiệu Chú Vượn, Lê Lợi đã truy phong cho ông ấy Thụy Hiệu Đại Bình An Soái Kiêm Đại Vương, và cấp cho hậu duệ ông ta một số ruộng làm hương hỏa. Kể từ nay ngày lễ giỗ Lê Lai sẽ được tổ chức một ngày trước lễ vạn thọ của Hoàng đế để cho tên hai vị luôn được nối kết với nhau176. Ngài Đệ nhất Cố vấn Nguyễn Trãi sẽ viết bản tường trình về sự hy sinh của Lê Lai và đặt nó vào Kim Khố của Vương triều.
Vương triều ghi chú: Đạo trời ngay thẳng. Ngài mau mắn thưởng phạt không hề sai lầm.
Lời ghi chú của nhà chép sử quả là khô khan và nghèo nàn nếu đem so với các cuộc lễ lạc linh đình đánh dấu không những sự đăng quang của tân Hoàng đế mà còn cả sự thiết lập một triều đại mới: triều đại nhà Lê.
Sau các nghi thức rườm rà và phức tạp như "Nhập Điện", "Trao Vương Quyền", "Chọn niên hiệu và triều danh" là nghi thức "Đăng quang và tán tụng" để tấn phong chính thức Bình định vương Lê Lợi làm Hoàng đế Thiên tử, với niên hiệu Lê Thái Tổ.
Vào hừng đông của ngày "Đại Cát" ấy, Vị Thượng thư Bộ lễ và chỉ huy cấm vệ quân tiến vào trong cấm thành tâu: "Tâu bệ hạ, mọi sự đã chuẩn bị chu đáo trong cũng như ngoài...".
Vị Hoàng đế đầu đội vương miện hình chín con rồng, khoác áo gấm dài, màu vàng đường bệ, thắt ngang hông cái đai bằng đá quý bước lên xe hoa, trước và sau là đoàn hộ vệ quân, trán có xăm chữ, tiến về lâu đài nơi làm lễ đăng quang, trong khi dọc theo lộ trình, đám gồng chiêng kèn trống khua vang ầm ĩ...
Bỗng dưng tiếng gồng chiêng và tiếng trống im bặt. Một loạt chín tiếng đại pháo nổ vang. Các truyền lệnh sứ hô to:
- Tất cả hãy phủ phục xuống
Lập tức âm nhạc cất lên. Dưới chân bệ ngọc, các vị Hoàng thân và đại quan phủ phục xuống, giập trán năm lần vào mặt đất tung hô:
- Hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế
Rồi họ quỳ gối trước bệ Rồng đọc to lên những lời tán tụng của triều đình dâng lên ngài.
Phía bên ngoài cung điện nơi Vua ngự, trên sân chầu xuyên qua các cánh cửa mở rộng, các vị đại quan mặc lễ phục đại triều đứng vào đúng vị trí chín phẩm được khắc trên tấm bia cẩm thạch, đang tham dự vào nghi lễ. Theo nhịp điệu lời hô của các truyền lệnh sứ, họ liên tục sụp đầu vái lạy đến nỗi sân Rồng trở nên giống như được rải rác theo từng chặng đều đặn, những cánh hoa rơi rụng từ những bông hoa kỳ diệu.
Tiếp theo, phù hợp theo các nghi thức là lễ đóng ấn triện. Hai quan chức thuộc nội các tiến về phía bàn thờ bằng vàng đặt trong chính điện. Một vị mang hộp đựng con dấu, vị kia rút sắc Chỉ ra khỏi bao đựng.
Hoàng đế truyền: "Hãy đóng dấu triện vào".
Sau khi con dấu khá nặng bằng ngọc được đóng vào sắc Chỉ vương triều loan báo việc nắm giữ quyền hành, hai vị đại quan liền đem giao chúng vào lại chỗ cũ trong khi chờ cho sắc Chỉ được treo lên tại Điện Phú Văn Lâu (Điện chứa các sắc Chỉ) và được một đội cảnh vệ danh dự canh giữ trong suốt ba ngày.
Nghi lễ đã hoàn tất.
Một vị quan chức Bộ lễ quỳ gối xuống trước Thánh thượng loan báo cho ngài rõ.
Và tiếng nhạc lại cất lên.
Ngay trước khi một tràng chín tiếng đại pháo được bắn lên báo cho đám đông khổng lồ đang đứng trước cửa Đông biết nghi thức sau cùng của lễ đăng quang đã hoàn tất, các truyền lệnh sứ hô to cho cả mọi người phía trong lẫn phía ngoài:
"Tất cả hãy lui".
Và người ta được phép bắt đầu các cuộc lễ lạc dân gian... Tiếp sau đó Hoàng đế Lê Thái Tổ, vị chúa tể đồng thời là người soi đường dẫn lối, ngồi vào chiếc kiệu rực rỡ vàng son, được rước về Lâu Đài của ngài với mục đích nhận lễ bái kiến của vị Thái tử trẻ tuổi Nguyên Long và các thành viên khác trong Hoàng tộc. Giờ đây, Vị Thiên tử trông mệt mỏi và xúc động. Ngài truyền được yên tĩnh một mình trước buổi đại yến, tất cả đều chấp hành bước lùi ra ngoài.
Hoàng đế nằm duỗi người trên chiếc giường lớn cẩn vàng, bên cạnh đó ngọn đèn trên chiếc giá bằng đồng đang bốc sáng. Dù ngài chẳng trông thấy ai cả, nhưng thực ra chỗ nào cũng có người hiện diện, các hoạn quan cặp mắt láo liên ẩn núp sau các bức rèm, chỉ cần ngài vỗ tay một cái lập tức họ xuất hiện ngay.
Ngài vừa được tôn phong làm Hoàng đế, làm đại diện Thượng Đế, vị chúa tể càn khôn trên mặt đất. Người ta tôn kính ngài ngang hàng với các thần linh. Người ta kính trọng các thánh chỉ ngài như lời sấm truyền. Ghi chép hoặc thốt ra tên riêng của ngài hoặc tên đăng quang của ngài là điều phạm thánh. Không một ai dám nhìn thẳng vào mặt ngài. Màu vàng, biểu hiện dành riêng cho vương quyền cũng như con Rồng năm móng, tức biểu tượng của nhà Vua, chỉ được dành cho ngài. Cơm ngài ăn phải chọn lựa từng hạt gạo và sau mỗi bữa ăn người ta sẽ hủy đi cái nồi nấu cùng với những chiếc đũa ngài dùng, thường được làm bằng loại tre trắng nhất, loại tre mang đủ các tàu lá của nó. Ba mươi phụ nữ trong các nội phòng luôn sẵn sàng thực thi mọi ý muốn nhỏ nhất của ngài và 5 người trong bọn họ luôn luôn túc trực ngày đêm bên cạnh ngài. Nếu ngài đi thăm chỗ nào lập tức chỗ đó trở nên "linh thánh", người ta treo lên một tấm bảng uy nghi và mọi người đều phải cúi lạy trước nó. Để kỷ niệm sự hiện diện của vị "khách nhà trời", tất cả những gian phòng ngài đã từng ngự đến đều được trang hoàng kết hoa như chính ngài vẫn còn đang hiện diện ở đó. Khi ngài đặt ra một câu hỏi cho ban tham vấn, thì câu trả lời phải được thốt ra từ vị quan có phẩm hàm cao nhất, tiếp đó là vị quan có phẩm hàm trực tiếp thấp hơn và cứ thế mà tiếp tục. Đối với Thánh thượng thì chẳng ai có quyền được phép sai lầm. Các Chiêm tinh gia cũng không được phép lầm lẫn về các hiện tượng thiên văn. Hễ ai phạm lỗi thì tất cả cấp trên của y cũng đều bị trừng phạt. Bộ luật đưa ra những hình phạt khủng khiếp nhất để trừng trị các kẻ mưu hại uy tín hay chống lại uy quyền của ngài...
Con Rồng chợt cảm thấy rùng mình khi nghĩ đến sự sùng bái đã giam hãm vị quân vương vào trong các nghi thức lễ nghĩa. Từ trước đến giờ, ngài luôn luôn cảm thấy thoải mái tự do. Lê Lợi vẫn còn chưa bắt kịp Lê Thái Tổ. Bỗng dưng, ngài nhớ da diết núi đồi vùng Thanh Hóa, thèm muốn điên cuồng được siết chặt cặp đùi vào cạnh sườn dũng mãnh của chú tuấn mã. Cảm thấy xây xẩm, Lê Lợi ngồi xuống cạnh giường. Tia nhìn ngài dạo khắp dàn kiệu vương giả, những chiếc bàn chất đầy vật quý hiếm, những bức rèm quý giá, đằng sau có các hoạn quan đang nín thở chờ lệnh gọi. Đời sống phiêu dạt lãng tử của ngài đã trôi vào quá khứ rồi. Kể từ nay, sự hiện diện của ngài bao trùm lên khắp các cung điện này. Ngài đã từng nói: Ngài yêu thích sống yên tĩnh trên ruộng đất của ngài, giữa các thân bằng quyến thuộc. Nếu bị buộc phải đánh quân Ngô chính là vì không thể nào hòa giải được với lũ người ấy. Ngài đã chiến đấu và dẫn đầu đoàn quân chiến thắng tự do dưới bầu trời thênh thang.
Bỗng chốc bầu khí gò bó ngây ngất hương nồng của các nội phòng này làm ngài ngộp thở. Ngài không phải như Nguyễn Trãi và nhất là Trần Nguyên Hãn đã sinh ra nơi lầu son gác tía, để có thể trong chốc lát cảm thấy thoải mái nơi chốn này. Ngài bắt đầu đứng dậy đi qua đi lại giống như chú cọp bị nhốt trong lồng!
Ngài đang gánh vác quyền lãnh đạo vương triều, nhưng con người nào nắm giữ uy quyền này mà không run sợ? Nguyện xin Đấng Hoàng thiên soi sáng cho ngài, đứa con bất xứng, đang nghĩ thế ngài bất chợt rùng mình kinh hãi: Thiên mệnh không phải bảo đảm cho ngài được giữ mãi lấy vương quyền. Ngài còn phải biết bảo tồn nó và bằng chính những đức tính cao cả của mình ngài sẽ mang lại cho thần dân mình những ân lộc bởi trời. Một nền hành chính tồi tệ, những luật lệ được xét là bất công và những sự vu khống sẽ khiến dân chúng có quyền quên đi sự trọng kính và sự thuần phục của họ. Nguyễn Trãi từng nói "Đám dân này vừa nâng đỡ chiếc thuyền quyền bính vừa có thể làm nó chao đảo". Từ lâu Lê Lợi đã nghiền đi ngẫm lại chính sách cần theo đuổi. Ngài từng biết cần phải thực hiện những cải cách nào trường tồn cho ích lợi của nhân dân và đồng thời không được vấp phải những sai lầm mà biết bao vị Hoàng Đế đi trước ngài từng phạm phải.
Chiếc vương miện và vương bào nằm sõng soài trên giường. Viên hoạn quan phục dịch quỳ gối đem chúng lại cho ngài. Lập tức đám nữ nhân chạy đến khoác lên ngài bộ long bào màu vàng thêu hình con Rồng. Một quan chức Bộ lễ xin ngài cho biết giờ nào ngài sẽ ngự giá dự đại yến. Lê Lợi truyền.
- Bảo mọi người cứ chờ! Và Ngài ra dấu truyền họ lui ra.
Các vị Hoàng thân và các đại quan đang chờ đợi Lê Lợi, nhất là hoàng gia mà ban nãy, ngài cũng không cho miễn lễ. Thật nhanh chóng, họ và những kẻ họ đang cầu cạnh xin ân huệ, đều nhận biết ngay rằng ở chốn này chỉ có một vị chủ tế duy nhất...
Vị Thiên tử đi qua gian phòng, trang trọng gật đầu. Gương mặt uy nghi của ngài trông thật sáng sủa và quả quyết trước lũ hoạn quan đang bối rối.
…Các Hoàng thân chỉ có được quyền hành tùy theo ý muốn ngài ban cho, ngoài ra họ chẳng có những đặc quyền đặc lợi cũng như chẳng có quyền tham dự vào quốc sự. Khác với triều đại nhà Trần, ngài sẽ không để cho đông cung Thái tử Nguyên Long lên ngôi lúc ngài vẫn còn sống, dù đến lúc vị này đã đến tuổi. Ngài cẩn thận không để cho đất nước có tới hai hoàng đế, một trị vì, một vị thoái lui, phân thành ra hai triều đình, hai ổ tạo phản chằng chịt. Ngài đã biết, đã tường tận tất cả sự ấy. Không thể nào tin cậy vào lòng dạ khôn dò của con người và càng ít nên tin vào đám võ quan. Còn những vị trung thành nhất thì đã qua đời rồi. Ngài sẽ biết cách cầm buộc họ hoặc... Ngài bỗng nghĩ đến tướng Trần Nguyên Hãn lừng danh, được quân sĩ và dân chúng tôn sùng, ông ta lại còn là hậu duệ sau cùng còn sót lại của nhà Trần...
Các viên hoạn quan thấy bàn tay vương giả mở ra và khép lại trong không khí. Cử chỉ này làm cho những tên tinh tế nhất phải suy nghĩ lâu dài. Còn bây giờ thì đã qua giờ khắc bắt đầu yến tiệc rồi, nhưng chẳng có tên nào dám cắt đứt dòng suy tưởng của vị Thiên tử.
…Vị Hoàng đế không còn cảm thấy cơn chóng mặt đã xâm chiếm ngài lúc nãy nữa. Không còn gì phải nghi ngại nữa. Ngài truyền lệnh người ta sẽ thi hành. Để cai trị, cần phải dựa vào những con người tài năng. Ngay từ năm Bính Ngọ (1426), ngài đã yêu cầu các nhân tài đừng che giấu tài năng họ nơi rừng núi: Ngài sẽ lập nên một tầng lớp các quan chức có học vấn, tận tâm và dễ kiểm soát được tuyển trạch qua con đường khoa cử. Nguyễn Trãi có thể bảo đảm về các pháp quy và chọn ra trong số các thí sinh những người xứng đáng nhất177…
Sau khi chờ khá lâu, các viên hoạn quan bèn bàn bạc với nhau. Cuối cùng tên già nhất trong đám kính cẩn đến ngỏ đôi lời với vị Thiên tử và vị Hoàng đế đã hạ cố ngồi vào chiếc Ngai Rồng quý báu đề chủ tọa bữa đại yến được tổ chức tại điện Thiên An.
—★—Trong nội cung Hoàng thành là buổi đại yến đầy xa hoa: rượu chảy như nước sông, cao lương mỹ vị chất như núi, các trò giải trí liên tục tiếp diễn...
Còn phía ngoài kinh thành thì dân chúng đang tràn trề hoan lạc. Ngày mai có phải đi ăn xin cũng mặc! Ngày hôm nay Non Sông đã có chủ! Ai nấy đều muốn ăn tiệc mừng biến cố này, ăn uống no nê, cười đùa thỏa thích. Làn sóng người không ngớt tuôn ra khắp các đại lộ rực rỡ hàng ngàn ngọn đèn, người nghèo trong bộ đồ cũ nâu. người giàu trong quần là áo lụa.
Một cụ già ngồi chồm hỗm trước cửa nhà nói:
- Ở xứ chúng ta chẳng bao giờ có ai chậm trễ trong việc ăn mừng lễ lạc.
Một khách qua đường với chiếc khăn quấn chéo trên đầu hình chữ nhân có dáng một nho sĩ đáp lời cụ già:
- Không tôn vinh một ngày như hôm nay thì quả là thực tội nghiệp đấy!
Hơi đâu mà người ta để ý đến lão già lẩn thẩn đó? Một số người bận nhìn đám đô vật mồ hôi nhễ nhại đang quần nhau theo hồi trống giục, số khác đang kích động theo dõi các trận đá gà. Người ta chen chúc nhau ở dưới các khán đài để xem các tay làm trò ảo thuật, các tay nhào lộn và các vũ nữ múa rắn khéo léo không để đổ ra một giọt dầu nào từ những ngọn đèn được đốt cháy mà họ giữ thăng bằng ở trên đầu. Người ta reo hò trước hàng nghìn trò khôi hài của kép hài trong tuồng chèo, một số người chồm hỗm bên các quầy bán cháo đang cắm mũi vào tô dùng đũa vơ lia lịa, mọi người, kẻ thì uống người thì khạc, kẻ lại xỉa răng. Xa xa đằng kia, một bà cụ đang đứng đưa một ngón tay chèn vào giữa hai bắp vế, đang trút vơi dần bầu tâm sự. Đám trai thanh đuổi theo bầy gái lịch. Khắp mọi nơi nồng nặc mùi tỏi nướng, mùi nước mắm, mùi thịt cá nồng nặc quyện với mùi dầu thơm toát ra từ mái tóc đám phụ nữ...
Còn xung quanh Hồ Lục Thủy mà từ nay được gọi là "Hồ Hoàn Kiếm", người ta xô đẩy lấn chèn đạp lên nhau để xem cho được các màn rối nước phía sau các tấm mành mành, các tay biểu diễn lặn ngụp xuống nước cầm sợi dây điều vận hệ thống cọc và sào để làm cho Con Rùa Vàng trồi lên từ sóng nước, há hốc cái họng đã từng nuốt lấy thanh kiếm, và mở rộng cửa động nơi các tiên nữ dùng đôi tay duyên dáng diễn lại vũ khúc "Phong Xuy" và nhăn đôi chân mày xanh biếc, họ ca khúc "Vân Thiều".
Trên khoảng đất rộng khu chợ phía Đông, người ta trình diễn lại những thời kỳ oanh liệt của bản anh hùng ca Lam Sơn. Đến những chặng bi tráng, từ hai phía sân khấu, tiếng trống vang lên nghe dữ dội. Trong khi những mũi tên bằng giấy bay vun vút, những ngọn giáo bằng bìa cứng va chạm vào nhau thì các diễn viên đóng vai chiến binh bị thương đổ nhào xuống với những miếng giẻ đỏ móc vào dây nịt cho thấy rằng họ bị lòi ruột, chẳng hạn như Lai biệt danh Chú Vượn đang ngã xuống giữa đám chiến hữu sơn cước của mình. Tự hào với vai trò nhân chứng đích thực, các cựu chiến binh của Lê Lợi đã nhảy lên sàn diễn, vốn chỉ là một miếng đất bằng, hơi nhô lên một chút, chẳng có hậu trường mà cũng chẳng có cảnh trí trang hoàng, để phủ nhận, đính chính hoặc minh xác lời của các diễn viên mà chẳng ai phản kháng hết. Tất cả mọi người đều hùa theo phẩm bình. Nào là:
- Chúng ta cần một bài Lý Thường Kiệt178 nữa!
- Cần một bản hùng ca có thể nói lên được tất cả!
- Cần một ca khúc được viết cho chúng ta bằng tiếng mẹ đẻ mà chúng ta có thể dạy lại cho con cháu và đến lượt chúng lại sẽ dạy cho các thế hệ mai sau.
- Và cũng đừng bỏ sót vai trò các phụ nữ trong cuộc chiến!
Đối với các đầu óc dễ rèm pha và cũng để phấn khích này, người nữ gián điệp ở Cấm thành từ lâu bị liệt vào hàng gái điếm của lũ Tàu, nay cũng được tiếp gót người ca nhi Tiểu Mai là kẻ lúc sinh thời cũng đã từng bị khinh bỉ. Thêm vào hàng ngũ các nữ anh hào còn phải kể đến Chiêm, cô lái thuyền ở bờ sông Đáy, nữ sát thủ Lức, bà chủ quán Lương người đã từng phục rượu lũ quân Ngô đê tiện rồi nhét chúng vào bao đem đi nhấn chìm... Tất cả các nữ anh hào đều được Lê Lợi tôn phong danh hiệu "Khai quốc anh thư" xứng đáng là hậu duệ của Hai Bà Trưng.
Từ sân diễn, một diễn viên mang mặt nạ da rắn thốt lên: "Ai có thể quên họ? Vua thì sợ ông trời, ông trời sợ mây, mây sợ gió, gió sợ bức tường, tường sợ chú chuột, chú chuột sợ mèo, chú mèo sợ mụ vợ khốn khổ của tôi".
Những tiếng cười rộ lên tán thưởng câu diễu này.
Cùng lúc đó ở phía trong hoàng thành, bữa yến tiệc đã kết thúc. Con Rồng liền ra dấu, và một loạt trống vang lên buộc mọi người im lặng, trong khi đó một diễn viên nổi tiếng nhất của ban tuồng cổ ở thủ đô tay cầm túi đựng vở nhạc, được hai nhạc công tháp tùng hướng về bệ rồng.
Giọng nói uy nghi vương giả vang dội khắp lâu đài:
- Vào năm Mậu Thân này (1428), khi Hòa bình với Đế quốc phương Bắc cuối cùng đã được thiết lập, và đạo binh quân thù trở về lại biên giới, Trẫm đã truyền lệnh cho Đại cố vấn Nguyễn Trãi của chúng ta soạn ra "Bình Ngô Đại Cáo" để tất cả hy sinh gian khổ đã trải qua sẽ được mãi mãi ghi lại trong tâm trí mọi người. Sau những hoan lạc đánh dấu sự đăng quang, giờ đây đến lúc phải nghe lại bản ghi chú các sự kiện quân sự quan trọng đã rửa sạch vết nhục ngàn năm, để lòng dạ chư vị được tràn đầy khúc ca ngát hương mà Kim Khố sẽ bảo tồn cho đến mãi ngàn năm sau.
"Phần con, hỡi Thái tử của Trẫm, con hãy nhớ: Sở dĩ hôm nay có được ngôi báu cao sang này, con hãy đừng vì thế mà quên đi bao nỗi gian khổ ngày xưa! Những bữa ăn với bát trân, bát bảo179 cũng đừng xóa đi kỷ niệm của những tháng năm thiếu thốn."
"Hỡi đại thần bá quan văn võ, hãy lắng nghe và chớ quên rằng dân chúng ủng hộ một người là do nhân đức của người ấy! Hãy cố gắng cư xử như những tôi trung, như những viên quan thanh liêm! Hãy thấm nhuần gương sáng các vị tiên hiền từng phục vụ cho đất nước!"
"Hỡi các chiến hữu của Trẫm, hãy lắng nghe khúc hát này, chính là khúc ca của chư vị, và hãy nhớ lại thuở còn nằm gai, chúng ta đã thề không đội trời chung với quân thù. Vào thuở ấy gối đầu lên ngọn giáo, chúng ta đã thức những đêm trắng để nghĩ về tương lai, chúng ta đã cùng sống chung với nhau, tướng sĩ đối đãi với nhau như cha với con! Hãy nhớ lại thời gian khổ và thuở những trận thắng ban đầu khi mà cuộc bình định từ từ ló dạng tựa hừng đông."
"Bản tuyên cáo này phải được đọc cao giọng lên và ngắt quãng cho thích hợp, dư âm của nó sẽ vang ra ngoài cung điện bay đến tận các tường thành Đế quốc phương Bắc, để nhờ uy lực những dòng chữ này, Đại Quốc Trung Hoa sẽ nhận biết rằng hiện đang có một vương quốc ở phương Nam độc lập với họ".
Các truyền lệnh sứ ra lệnh cho hai nhạc công và tay diễn viên đang phủ phục:
- Hãy đứng lên và chuẩn bị tuyên đọc.
Ngoại trừ đôi mắt khư khư cụp xuống của Nguyễn Trãi, tất cả triều thần đều dán chặt mắt nhìn vào nhóm nghệ sĩ này. Tay diễn viên hết sức trang nghiêm bắt đầu giở bản văn, cầm trên tay đoạn ra dấu cho hai nhạc công chuẩn bị khúc nhạc dạo đầu.
Trong sự im lặng khủng khiếp bao trùm, tiếng hống đồng giục giã từng chặp vang lên như mời gọi rồi tỏa lan ra hòa nhịp với tiếng chiêng để hợp thành một nhịp điệu xen kẽ nhau đầy kích động. Chàng kịch sĩ bắt đầu cất cao giọng:
"Thay Trời hành hóa, Hoàng Thượng truyền rằng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân cứu nước trước cần trừ bạo
Xét như nước Đại Việt ta
Thật là một nước Văn hiến
Bờ cối sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương.
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu...
Xem xét việc xưa, chứng cớ còn rõ"
Một hồi trống hòa nhịp cùng một hồi chiêng đến chấm câu cho vần thơ cuối này, như hai quả tim cùng đập một nhịp. Cử tọa nín thở tưởng chừng như hóa đá.
"Vừa đây họ Hồ chính sự phiền hà
Để đến nỗi nhân tâm oán, phản
Giặc Minh thừa dịp làm hại dân ta.
Đảng ngụy gian ác, mưu mô bán nước
Thui dân đen trên lò bạo ngược
Hãm con đỏ dưới hố tai ương
Dối Trời lừa người, kế gian đủ muôn nghìn khoé
Gây binh gây hấn, ác chứa gần hai chục năm.
Bại nghĩa thương nhân, trời đây tưởng chừng muôn dứt,
Vét vơ thuế má, chằm núi chẳng còn gì
Khai mỏ, xông pha lam chướng, phá núi đãi vàng
Mò ngọc thì mặc giao long, giỏng giây quẳng biển
Nhiễu dân đào hầm bẫy hươu đen
Hại vật chăng lưới bắt chim trả
Quan quả khôn cùng, chẳng một ai được ở yên ổn
Hút máu mủ sinh linh, quân thâm ác miệng răng nhờn béo
Ra công xây dựng cho nga nga những dinh thự công tư
Nơi châu lý bao từng sưu dịch
Trong làng xóm lặng lẽ cửi canh
Tát cạn nước Đông Hải không đủ rửa hết vết nhơ
Chặt hết trúc Nam Sơn chẳng đủ ghi hết tội ác
Thần người đều căm giận, Trời Đất chẳng dung tha".
Tiếng trống, từng câu một, như nâng cao lời ngâm của nghệ nhân như rầu rĩ thống thiết kéo dài, như phủ lên từng nắm đất của non sông Đại Việt lên những tử thi. Lòng xúc động dâng cao tột độ. Ai nấy, dung nhan đều ứa lệ tựa mưa sa.
"Ta đây phát tích Lam Sơn nương thân hoang dã
Nghĩ thế thù không đợi trời chung,
Thề giặc nước khó lòng chung sống.
Đau lòng nhức óc kể đã mười năm
Nếm mật nằm gai, phải đâu một buổi
Quên ăn vì giận, thường nghiền ngẫm những sách lược thao
Lấy xưa nghiêm nay, xét suy mọi cơ hưng phê
Chí phục thù, thức ngủ chẳng quên
Chính lúc nghĩa binh mới nổi.
Là lúc thế giặc đương hăng.
Thế mà nhân tài lác đác như lá mùa thu
Tuấn kiệt lưa thưa như sao buổi sớm
Bôn tẩu trước sau đành đã thiếu người
Vạch kế bày mưu lại càng thiếu kẻ
Cứu dân để dạ, chí hào hứa chỉ muốn về Đông
Cho nên xe đãi hiền vẫn luôn luôn chừa phía tả.
Tuy nhiên được người đâu dễ, mù mịt trông khơi
Gắng làng điều nhân, gấp hơn cứu đuối..
Dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương quy tụ
Hòa rượu cùng uống, binh sĩ một dạ cha con
Lấy yếu chống mạnh, thường đánh bất ngờ
Lưng ít dịch nhiều, hay dùng mai phục,..
Mặt mày rạng rỡ, các chiến hữu của Lê Lợi, Lý Tự Tân, Mặt Hươu; Mộng Tuân, Trời Con; Trần Nguyên Hãn, Hổ Trầm; Lê Sát, Sấu Thần; Bùi Quốc Hưng, Lưỡi Lém; Lê Lý, Âm Hồn; và các người khác như lương y Dương; Ba bàn tay khéo; Triết Kha, chùm lông trâu; tất cả đều rung lên cùng vang nhịp với luồng thần khí hào hùng của lời ca đang rền vang như "Sấm nổ trống dồn", tán dương cuộc chiến đấu trường kỳ của họ.
"Rút cục, lấy đại nghĩa mà thắng hung tàn
Lấy chí nhân mà thay cường bạo
Trận Bồ Tất như sấm vang chớp giật
Trận Trà Lân như trúc chẻ tro bay
Sĩ khí đã càng hăng,
Quân thanh lại càng lừng lẫy...
...Ta đưa mác là chúng phăng cả
Chúng quay giáo tự đánh lẫn nhau
Rồi bốn mặt thêm quân để bao vây
Hẹn trung tuần tháng mười là tiêu diệt
Liều chọn những quân hùng hồ.
Tiếng trống dồn dập như trời long đất lở, tiếng chiêng đáp lại như bay từ chiến công này sang chiến công khác.
"Voi uống cạn hết nước sông
Gươm mài mẻ mòn núi đá
Một tiếng trống ngạc kình dứt đoạn
Hai tiếng trống chim muông tan tác
Tổ kiến hổng làm toang đê vỡ
Trận gió rung rụng trút khô
Đô đốc Thôi Tụ quỳ gối chịu tội…
... Cứu binh hai đạo, chưa trở gót mà đã bại.
Giặc khôn các thành, theo nhau giải giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm, nó vẫy đuôi cầu sống
Thần vũ không giết, ta thể lòng trời để lo hiếu sinh
Tham tán Phương Chính, nội quan Mã Kỳ được cấp năm trăm chiếc thuyền đã vượt biển về mà còn hồn kinh phách lạc.
Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh, được cấp mấy ngàn ngựa, đã về nước mà còn ngực đập chân run
Vị Đông cung Thái tử, mới lên sáu tuổi, lơ đãng nghe bài tường thuật về cuộc chinh chiến, đối với cậu cũng xa xưa như bao cuộc binh đao khác trong huyền sử. Cái đầu cậu, ngái ngủ, lắc lư từ phải sang trái.
"Chúng đã sợ chết tham sống mà thực muốn cầu hòa
Ta lấy toàn quân làm cốt mà cho dân được nghỉ
Chẳng những mưu kế cực kỳ sâu xa
Tưởng cũng xưa nay chưa từng được thấy
Xã tắc do đó được yên
Non sông do đó đổi mới
Càn khôn đã bĩ mà lại thái
Nhật nguyệt đã mờ mà lại trong
Để mở nền thái bình muôn thuở
Để rửa nỗi sỉ nhục ngàn thu
Ôi! Một gươm đại định tạo thành công nghiệp vô song
Bốn biển lặng yên, rộng ban duy tân tuyên cáo
Bá cáo thiên hạ, để mọi người nghe".
Đến đây thì giọng ngâm đang vang tận các tầng mây, lại được tiếng sấm rền vang của chiêng trống luân phiên phụ họa, dội ngược trở lại mặt đất trên đám cử tọa đang rung động đầy cảm xúc. Trong sự yên lặng phi thường đó, các ánh mắt đều hướng về Đại cố vấn Nguyễn Trãi. Tất cả đều biết danh tiếng Nguyễn Trãi và đều biết rằng không ai có thể sánh kịp ngài trong việc thảo tín thư ngoại giao cũng như những lời hiệu triệu, tuy nhiên cái uy lực và vẻ đẹp bất ngờ của bản Bố Cáo tạo ra trong họ hiệu quả giống như ngọn roi quất vào người để lại vết lằn, vết cấu và cả một bụm máu hồng! Tựa bao kẻ khác, Mộng Tuân và Lý Tự Tân gần như ngây ngất đã không giữ nổi những giọt lệ nóng hổi đầy lòng tri ân đang chảy tràn trên khuôn mặt rạng rỡ của mình. Ngòi bút như thế làm đẹp quê hương và phủ rợp vinh quang cho đất nước biết bao, còn anh chàng Ba thì chưa bao giờ bị hút hồn như thế, đăm đắm nhìn thầy của mình. Chàng chẳng biết diễn tả ra làm sao, chỉ hiểu rằng đó là tác phẩm của một thiên tài. Ba cảm thấy sức mạnh đang toát ra chính là sức mạnh đến từ quần chúng. Trần Nguyên Hãn thầm nghĩ: Tài năng của người em họ mình ví tựa sao mai. Dù những câu thơ của Lý Thường Kiệt rất nổi tiếng trong thời ông ấy cũng vẫn bị áng văn Nguyễn Trãi lấn lướt, đây đích thực là lời tái xác quyết về nền tự do, là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai. Trần Nguyên Hãn cảm động thấu tận đáy lòng. Còn Sấu Thần Lê Sát vốn bình thường ít cảm phục tài năng của kẻ khác, lần này cũng vẫn không thể không khâm phục đại cố vấn Nguyễn Trãi. Vị Thái tử vừa chợt tỉnh giấc, mơ hồ ý thức được mình đang đứng trước một biến cố trọng đại, cũng vội đưa mắt nhìn về vị nho sĩ đang là điểm chú ý của tất cả mọi người. Cậu bé tự nhủ thầm, ngay lúc này đây, không biết giữa phụ thân đang đội mũ chín Con Rồng và con người khắc khổ dáng vẻ kín đáo kia, ai là người đang ngự trị?
—★—Trong nhiều tuần kế tiếp, sau các buổi lễ mừng ngày đăng quang, nhà chép sử Thăng Long phải không ngừng sử dụng ngọn bút lông để ghi lại những cải cách của triều đại mới với tinh thần khách quan trong việc tường thuật cũng như tinh thần vô tư trong lời lẽ.
Qua 10 năm chiến tranh, 20 năm bóc lột của quân Minh tiếp theo nền hành chính quá tồi tệ của các vị Vua Đời Trần, sự tái thiết Đại Việt đòi hỏi vô số cải cách quan trọng.
Sau niềm vui tìm lại độc lập, đám dân từng chiến đấu trong niềm hy vọng khiêm tốn sẽ được sống trong xã hội nhân đạo và công bằng hơn, nay thấy mình vẫn cơ cực như tự bao giờ. Họ ao ước được dìu dắt đỡ đần, che chở, vì thế họ đón nhận hàng loạt phương sách Hoàng đế, tức vị Thiên tử, ban ra nhằm phục hồi đất nước, như là những hành vi hoàn toàn xứng hợp với sứ mệnh cao cả của Ngài. Những hành vi của một người cha lo lắng cho con cái mình.
Lớp quần chúng nông dân chiến sĩ này chẳng có lấy một tấc đất dung thân trong khi một số kẻ khác lại quá dư dật. Bọn quý tộc địa chủ hợp tác với quân Minh đã chiếm lấy những miếng đất màu mỡ nhất, những gia đình bị tản cư vì chiến tranh nay phải lang thang khắp mọi vùng trong nước.
Đức Lê Thái Tổ ban chỉ dụ ra lệnh kiểm kê vô số đất công, đất tư và phân chia phần ruộng đất cho "Các quan, binh lính và dân chúng, từ các vị cao cấp trong triều cho đến các cụ già, các kẻ mồ côi, góa bụa, cả nam phụ lão ấu. Tài sản của bọn người hợp tác, và của quân Minh, những cánh đồng bỏ hoang đều trở nên đồn điền của nhà nước hoặc được ban tặng cho những kẻ có công. Những kẻ đi lang thang phải về lại quê quán và lo cầy cấy đất đai nếu không sẽ bị trừng trị đích đáng.
Nhân dân thì xác xơ nghèo đói, cơ cực.
Một sắc chỉ được ban ra cho miễn thuế điền và thuế thân trong hai năm. Lớp nô lệ được quyền chuộc lại với giá 50 quan một đầu người (một quan gồm 10 tiền, hoặc 500 trăm đồng kẽm dưới thời Lê Thái Tổ).
Quân đội gồm 2 trăm 50 ngàn từ nay kể như vô dụng, đang mong ước được trở về quê cũ: Vì thế Đức Lê Thái Tổ ra sắc chỉ cho phép 150 ngàn người trong bọn họ được trở về làng mình lo công việc đồng áng. Một trăm ngàn còn lại được phân phối thành 5 đạo luân phiên bảo đảm số quân hiện dịch.
Chiến tranh đã sản sinh ra loạn lạc mất trật tự, những băng cướp quấy nhiễu vùng quê, gây kinh hoàng cho dân làng và khách lữ hành, những kẻ vô công rỗi nghề trong xứ thì bê tha cờ bạc, rượu chè: Vì thế Đức Lê Thái Tổ cho phổ biến một bộ luật hình sự khắt khe mô phỏng theo bộ luật của nhà Đường (Triều Đại Đường (618-907), bao gồm 5 loại hình phạt sau: đánh bằng gậy mây hoặc tre, bắt làm nô lệ, đày ải, xử giáo180, xử trảm hoặc lăng trì. Kẻ nào chơi cờ bạc thì bị chặt một tay, uống rượu thì bị đánh 100 gậy.
Xét thấy: Đất nước bị tàn phá, nền hành chính buông thả thiếu các nhân tài, nước Đại Việt vừa được phân thành 5 vùng cần những công chức tài năng và liêm chính nhưng đám con cái của dân chúng chẳng có lấy một phương tiện tiến thân: Vì thế, Đức Lê Thái Tổ cho mở các khóa thi: Khoa thi Hương cứ 5 năm một lần. Khoa thi Hội 6 năm một lần. Các ngôi trường tỉnh, giống như dưới triều nhà Hồ, đều mở rộng cho các trẻ em nghèo, và các học sinh xuất sắc nhất dù thuộc hàng lê thứ cũng được nhận vào trường Quốc Tử giám lừng danh ở Thăng Long vốn cho đến bây giờ chỉ dành riêng cho con cái nhà quan.
Tiền bạc trở nên hiếm hoi, tiền bằng đồng hầu như biến mất, những lò đúc mới không cung ứng đủ cho nhu cầu, người ta đưa vấn đề hồi phục việc phát hành tiền giấy đã được thử nghiệm dưới triều nhà Hồ: Vì thế, Đức Lê Thái Tổ nghĩ rằng,- Tiền bạc là huyết mạch, nhân dân không thể nào thiếu được và không thể nào ép buộc nhân dân phải nhìn nhận tờ giấy bạc là có giá trị.
Ngài ra sắc chỉ truyền tiếp tục sản xuất tiền đồng. Một tiền trị giá 50 đồng kẽm.
Tất cả những biện pháp nói trên phần lớn đều nhằm vào mục đích chính trị, Vị Hoàng đế, tức Thiên tử đang cố gắng biến thần dân mình thành những bầy tôi nhiệt tình, buộc chặt họ trong hệ thống phong kiến, và như thế thiết lập nên một triều đại cho dù Trung Quốc chưa công khai nhìn nhận thì cũng chẳng hệ trọng gì!
Những sắc chỉ của triều đình làm thỏa mãn đa số nhân dân, các thương nhân thì vui mừng tìm thấy lại công ăn việc làm, đám thợ thủ công thì gia tăng và các tổ hợp của họ được khuếch trương rộng ra. Dân chúng được đảm bảo ăn ngày ba bữa và được sống an ổn, họ lại có thể đeo đuổi giấc mộng lớn của dân Việt là thấy con cái mình, quạ con đường khoa bảng, một ngày kia có thể leo lên chiếc thang quyền cao chức trọng, nói tóm lại là được trở thành "làm quan"!
Người ta hẳn ngạc nhiên vì các sắc chỉ dồn dập kế tiếp nhau, và công việc tái thiết xem ra trôi chảy. Đồng thời họ nhận ra rằng tất cả sự cải cách này là thành quả lao động cực nhọc của chính bộ đôi Lê Lợi - Nguyễn Trãi, là những người đã từng làm nên chiến thắng. Người ta xầm xì rằng Hoàng đế đã mệt mỏi và già đi trước tuổi vì những tháng năm chinh chiến, nên ngài cảm thấy cần phải sắp xếp nhanh chóng mới sự đâu vào đó. Ai mà dám tỏ ý phàn nàn về việc này?
Năm Mậu Thân đầu tiên dưới triều Lê Thái Tổ khai màn cho niên hiệu Thuận Thiên, tức "Thuận theo ý Trời" quả thật đáng với tên gọi của nó. Đây là một năm thực hạnh phúc.
—★—Nhưng ông Trời thường hay thay đổi. Các vị tinh tú trong sự vận hành luân chuyển gieo xuống trên mọi sinh linh, hết phúc rồi đến họa. Các thần linh tính khí thất thường. Con người thật sai lầm khi tưởng rằng mình làm chủ được số mệnh, một số lại còn dám nghĩ rằng nhân định thắng thiên, họ cho rằng không phải các điềm trời mà chính là đức độ của họ quyết định mọi việc...
Thế là ngay khi vừa mới thiết lập nền tảng cho triều đại mình, Lê Thái Tổ đã dựa theo nguyên tắc thu tóm tất cả mọi sự. Ngài vừa mới tiên liệu tất cả, làm lấy tất cả, tự cho mình là tất cả thì sức khỏe ngài đã bị chao đảo và chi phối suy nghĩ cùng hành động của ngài. Còn các chiến hữu thì sau thời gian được tôn vinh và tưởng thưởng, bây giờ đối với một số, giờ thất sủng đã đến...
Sáng hôm ấy, tướng Trần Nguyên Hãn bước vào thư phòng người em họ Nguyễn Trãi. Gương mặt rạng rỡ của ông không còn nữa vẻ trầm tĩnh ngày xưa xứng với biệt danh Hổ Trầm. Phi Hùng đang làm việc bên cạnh Nguyễn Trãi bỗng sửng sốt nhìn vào đôi mắt quầng thâm, tinh thần thảng thốt của vị tướng, hình như ông ta đang bị một việc gì đó đè nặng trong lòng.
Sau nghi thức chào hỏi thông thường, và trà đã cạn chén, thấy Trần Nguyên Hãn còn ngần ngại không cất lời, Nguyễn Trãi vội dịu dàng lên tiếng:
- Đại huynh quý mến, giữa chúng ta thân tình ngày càng siết chặt, vậy chẳng cần gì phải giấu giếm nhau. Hôm nay huynh có điều gì mà do dự không cho đệ biết? Hay đệ có làm điều gì không phải với huynh chăng?
Từ nhiều tuần qua, vị nho sĩ đã lấy nàng Thị Lộ xinh đẹp làm tỳ thiếp. Niềm đam mê từ lâu bị dồn nén nay bùng dậy thiêu đốt người đàn ông trung niên. Người tình yêu dấu và những dự phóng lớn lao cho việc kiến tạo đất nước đã xâm chiếm trọn vẹn tâm trí của Trãi. Giữa biết bao hạnh phúc ấy, đột nhiên Trãi chợt cảm thấy áy náy.
Trần Nguyên Hãn sa sầm nét mặt nói:
- Thời gian của ngày xưa không còn nữa và kể từ đây ta chỉ còn một mơ ước là được rút lui về ngôi làng Đông Sơn (huyện Lập Thạch tỉnh Vĩnh Phú) của ta, ấy thế mà ta vẫn còn gặp một trở ngại không vượt qua nổi.
- Điều ấy có lạ gì đâu? Làm sao Hoàng đế chúng ta lại chịu để cho Thượng Thư Bộ binh của ngài rời chức vụ trong khi tất cả công việc phải thực hiện vẫn còn nguyên đó?
Trần Nguyên Hãn buông một tiếng cười lạnh nhạt:
- Đệ thân mến, đệ chẳng hiểu gì hết. Đức vua không đồng ý cho ta ra khỏi Kinh thành bởi vì ngài nghi ngờ ta. Dù cho ngài làm bộ kính trọng ta, nhưng đã từ lâu ta biết tận đáy lòng ngài, ngài không tin cậy ta. Mặc dù ngài cố gắng muốn yên tâm về ta cũng không được, bởi vì bọn quan lại theo đuôi vào giờ cuối, trước kia im hơi lặng tiếng nay đã bắt đầu quậy phá. Chúng đang bỉ ổi bầy mưu tính kế. Đó là bọn Thục Huệ, Lê Văn vốn căm ghét đệ!
Nguyễn Trãi kêu lên:
- Chà! Đại huynh là người đã từng chiến thắng trận Tốt Động, Chi Lăng là tác nhân chính cho cuộc chiến thắng của Hoàng thượng! Huynh đừng quá hoang mang như vậy. Có thể trong lúc chờ đợi được Trung Hoa tấn phong chính thức, Hoàng thượng của chúng ta cảm thấy tinh thần căng thẳng, thêm vào sức khỏe suy giảm nên ngài đã không luôn luôn giữ được sự nể vì đối người tôi trung sáng chói như huynh. Nhưng ngay sau khi đế quốc phương Bắc đã chấp thuận công nhận triều đại mới - và chính đệ đây đang lo liệu việc ấy - thì mọi sự sẽ lại đâu vào đấy thôi, xin huynh hãy kiên nhẫn đợi chờ.
Con Hổ Trầm khó chịu nhăn nét mặt: Chà! Chính Nguyễn Trãi mà cũng muốn cho ông tin rằng Trãi không hề hay biết những gì hiện đang ẩn khuất bên dưới bộ mặt bóng loáng rạng rỡ của triều đình à? Phải chăng đang chằng chịt những chuyện vòng vo Tam quốc, và cả một vũng lầy nguy hiểm đầy những mưu mô xảo quyệt chết người. Hãn tiếp lời:
- Than ôi, đệ của ta ơi! Cội rễ điều ác đã lan xa quá rồi và... (Hổ Trầm cố nén không phát ra cái tên húy kỵ), không còn là Lê Lợi nữa. Hơn ai hết, thần là người hiểu rõ được rằng việc tấn phong của Trung Hoa mà chúng ta từng chờ đợi lại liên hệ chặt chẽ với sự tiêu vong của con cháu họ Trần. Và lẽ nào đệ lại tưởng rằng công lao hãn mã và những chiến thắng mà chúng ta đã đem lại có thể làm cho đức vua quên rằng đệ và ta vốn là thân thích của triều đại trước đây. Và riêng ta vì là thuộc hàng trực hệ nên ta đã bị nhằm tới đích danh và tính mạng ta hiện cũng đang bị đe dọa, do đó ta chỉ ao ước được lui về ở ẩn.
Từ nãy giờ im bặt, đến lúc này Phi Hùng mới chợt thốt lên:
- Thưa Đại huynh, đệ e rằng người anh họ nổi tiếng của chúng ta đây đã thấy đúng đấy vì "Các biến cố xảy đến trong tương lai thường phóng chiếu ra trước bóng hình của chúng" (Kinh Dịch). Đại huynh hãy nhớ lại xem! Kiếm Ngọc Phạm Văn Xảo đã bị hy sinh một cách nhẹ nhõm như không ngoài biên địa thế nào? Vị anh quân của đại huynh nay đã trở thành một ông Hoàng chỉ biết lo sợ bất cứ quang vinh nào có thể làm mờ nhạt vinh quang của ngài. Nỗi âu lo sợ bị soán ngôi đã giày vò ngài và khiến ngài sẵn sàng làm tất cả mọi sự để củng cố ngai vàng của mình. Tai họa rồi đây sẽ do ngài mà đến cho xem, đệ đã biết được điều ấy ngay từ giây phút đầu tiên.
Nguyễn Trãi sững sờ đăm đăm nhìn người em út. Đây là lần đầu tiên Trãi nghe cậu em bộc bạch như thế. Giờ thì Trãi mới hiểu được bản chất đích thực mối tình cảm đối với Lê Lợi mà mãi đến lúc này cậu em mình vẫn dè dặt không để lộ ra. Trãi tự nhủ: Chắc là vì sau bao nỗi mệt mỏi nhọc nhằn chinh chiến, Lê Lợi ngày càng trở nên đa nghi và u uất, và vì thế ngài dễ bị lung lạc nghe theo những lời sàm tấu khiến ngài có thể trở thành kẻ bội ơn, tuy nhiên, dù sao đi nữa, đức vua cũng vẫn còn biết tưởng thưởng công lao từng người, vẫn còn giữ được lòng nhân thứ và cũng biết quan tâm đến sự công minh kia mà! Chính nơi con người dữ dằn này là hiện thân niềm khát vọng và ý chí của toàn dân, ngài đóng một vai trò cao vời, khẩn thiết. Một bên là chiến binh, một bên là nho sĩ, hai người đã từng bổ túc lẫn cho nhau. Vị quân vương mà chính Trãi đã kiên tâm rèn luyện chắc chắn sẽ không thể nào đi ngược lại chính mình. Bằng cả nghị lực, Trãi nguyện sẽ giúp đỡ Hoàng đế trong công việc tái thiết và một khi đã được nâng lên hàng tể tướng đầy đủ quyền hành, ông ta nguyện sẽ rưới khắp muôn dân ân đức của Hoàng đế, sẽ mang lại cơm no áo ấm cho mọi người, sẽ đặt xứ sở này trên các nền tảng vững vàng như núi Thái Sơn và sẽ làm cho triều đại này trở thành một triều đại hùng mạnh...
Trần Nguyên Hãn chợt ngắt đứt dòng suy nghĩ của Nguyễn Trãi:
- Có cần gì ta bảo, đệ cũng dư biết đường đời đầy trắc trở và càng cố dấn bước thì càng có nguy cơ bị tiêu vong. Mới hôm qua đây thôi, người ta vẫn còn ân cần mời mọc ta thế mà hôm nay đã vội khôn khéo lẩn tránh ta. Ta bị thất sủng làm ảnh hưởng lây đến họ hàng thân thích, bằng chứng là bọn Lê Sát đã dám tạo nên cả một âm mưu đả kích ngay cả đến bài "Chí Linh Phú" của đệ nữa đó!
Nguyễn Trãi giật bắn người:
- Bọn họ âm mưu chống lại bài phú đó à? Bài phú từng khiến đức vua phải cảm động và đánh giá ngang hàng với "Bình Ngô Đại Cáo" à?
Nguyên Hãn tiếp lời:
- Khó mà tưởng tượng nổi đệ mà lại không hay biết gì về điều đó. Hiện Lê Sát và Lê Vấn thường xuyên làm mưa làm gió ở triều đình. Chúng đã thành công trong việc dùng những lời ngụy biện để thuyết phục Hoàng đế tin rằng đằng sau những lời tán tụng vinh quang của Hoàng đế, đệ đã dám đưa lời cảnh cáo phạm thượng nhắc bảo cho ngài về các bổn phận của ngài. Theo lời ghi chép của sử quan, vị Thiên tử đã tái mặt, nắm tay bóp vào mở ra tỏ dấu cực kỳ giận dữ, đoạn ngài thầm thì: "Hoặc khuất phục hoặc tiêu diệt đi!" Đệ nên coi chừng đó!
Như bị điểm huyệt, vị nho sĩ đáp lời:
- Đệ không phủ nhận những gì mình đã viết hoặc đã nói ra. Chăm lo vun trồng nhân đức, xây dựng một guồng máy cai trị khôn khéo luôn biết giáo dục thần dân mình, đó là các bổn phận cần phải được nhắc nhở cho các bậc vương giả. Các vị Hoàng đế Thuấn, Vũ, Thang, Văn (các Hoàng đế Trung Quốc thời Hoàng kim) đã từng trằn trọc lo âu, từng tận tâm thờ Trời và lo lắng cho dân không dám bỏ bê một giây phút nào. Thế thì những ai không sánh được với các vị ấy lại càng phải lo lắng hơn nữa mới phải chứ. - Nói rồi, Trãi dịu giọng - Còn nếu quả huynh muốn rút lui về ẩn nơi quê cha đệ tổ, thì mặc dù không đồng ý, đệ cũng sẽ cố đệ trình và biện hộ lời thỉnh nguyện của huynh lên cùng đức vua.
Trần Nguyên Hãn lắng nghe, lòng thán phục pha lẫn sợ hãi. Nguyễn Trãi quả là một con người cương trực ngoan cường nhưng quá ít mềm mỏng! Một lần nữa, những lời của vị Hoàng thân, người ông chung của cả hai người, lại hiện ra trong ký ức của Hãn. Làm sao một cá tính đầy cao vọng và liêm chính như thế lại tránh khỏi việc tạo nên cả một lũ địch thù tại triều đình được? Số người thù ghét Trãi đông vô số mà Trãi nào ngờ. Chúng từng bị Trãi đàn hạch181 về sự bất tài, biếng nhác, hối lộ, chưa kể đến những thèm thuồng tài năng, ganh tị với uy tín của Trãi.
Nguyên Hãn tiếp lời:
- Đệ à, ta không đến cầu xin giúp đỡ mà chỉ muốn khuyên đệ nên cực kỳ thận trọng. Đệ hãy tránh đừng can dự vào việc xin xỏ giùm cho ta. Đệ nên biết rằng, ngay cả cuộc trò chuyện đơn sơ thế này giữa anh em bà con với nhau trong thư phòng của đệ cũng có thể bị thọc đến tai Hoàng đế, và không chừng lại bị khép vào một âm mưu phản loạn đấy.
Phi Hùng chợt gợi ý:
- Tại sao huynh không tự trốn đi thay vì mất thời gian van xin người ta giải phóng cho huynh?
Nguyên Hãn đáp:
- Dù ta có trốn được về bản xứ, thì Hoàng đế cũng dư sức dễ dàng truyền cho quan trấn thủ tỉnh ấy truy nã bắt ta mà.
Nhìn dáng điệu ảm đạm đầy nghi ngại trên nét mặt Nguyễn Trãi, chắc hẳn Trãi đang suy nghĩ về thân phận mình, Nguyên Hãn bỗng dưng cảm thấy những lời bộc bạch của mình hẳn đã chạm đến nơi người em họ, một nỗi khắc khoải đớn đau thầm kín nào đó.
Vì thế, trước khi khiếu từ, ông muốn ký thác lại đôi lời, có thể là những lời cuối cùng: "Than ôi! Hoàng đế mang trong người dòng máu Việt Vương Câu Tiễn182. Ta sẽ không thể nào ở yên được với ông ấy đâu!"
Họ chia tay nhau, tưởng là sẽ tái ngộ vào những ngày kế tiếp sau đó. Thế nhưng trời cao đã quyết định theo một đường lối khác. Ngài thường thử thách những kẻ ưu việt và để "chữ Tài liền với chữ Tai một vần".
Vào cuối tháng hai năm Kỷ Dậu ấy (1429), ngay sau khi vừa mới chuẩn y cho Thượng thư Bộ binh Trần Nguyên Hãn được về nghỉ hưu tại quê cha đất tổ thì Hoàng đế đã vội rút lại quyết định của mình. Muốn cho triều đại mới được công nhận thì chỉ có cách là tiêu diệt đi dòng máu của nhà Trần. Nghĩ thế, gương mặt hao gầy của con Rồng như thâu tóm lại trong tia nhìn lạnh giá. Ngài truyền lệnh cho hộ vệ quân chặn bắt Nguyên Hãn ngay trên đường về quê với lý do Hãn có âm mưu tạo phản, đây là tội nặng nhất trong "Thập ác" đáng phải chịu hình phạt thê thảm nhất, tức là sẽ chết một cái chết từ từ: hình phạt lăng trì183, bá đao.
Ngay khi vừa bị chặn bắt, Trần Nguyên Hãn, vị thống tướng lừng danh, người hùng trận Tốt Động, vị Hoàng thân đồng thời cũng là hậu duệ nhà Trần đã không cho phép đám lính chạm đôi bàn tay phạm thượng vào người ông. Sau khi cung kính nghiêng mình ba lần trước chiếu chỉ triều đình ban cho ông ân huệ cuối cùng được tự chọn lấy cái chết cho mình, Nguyên Hãn đã trầm mình xuống dòng sông thuộc xã Sơn Đông. Như thế, sau bao nhiêu cống hiến lẫy lừng, giờ đây Hổ Trầm còn phải cống hiến cho Hoàng Thượng của ông điều cao cả nhất đó là tự biến mất đi!
Và trong khoảng thời gian ấy, Thượng thư Bộ Lại Kiêm Chưởng ấn đại thần Nguyễn Trãi cũng bị Hoàng đế ngờ vực, bị tách lìa khỏi sách đèn, khỏi bao dự tính lớn lao, khỏi người ái thiếp của mình. Trãi bị bắt dẫn đi ban đêm và tống giam vào ngục thất chật hẹp có lính canh gác cẩn mật. Nếu bị buộc là đã phạm tội đồng lõa theo như lời người ta tố cáo thì dù cho âm mưu còn trong nhen nhúm hoặc đã bùng nổ ra, Trãi, anh em, con cái cũng như thân thích đời thứ hai của ông chắc chắn sẽ phải chết, kể cả những kẻ suy nhược hay tàn tật, còn thê thiếp của ông, con dâu và tỳ thiếp của các con trai ông thì sẽ bị bắt làm nô lệ cho các gia đình quan lại có công.
Bọn công khai thù nghịch với vị danh sĩ đã lập mưu đưa ông ta đến chỗ tiêu vong, tức là bọn Lê Sát, Thục Huệ và Lê Vấn, trước đây chỉ ao ước điều này giờ đây chúng được hoàn toàn toại nguyện, nên say sưa trong lạc thú báo thù. Nỗi căm ghét hực hừng trong tia mắt kèm theo sự thỏa mãn độc ác được phơi bày ra trên các nếp nhăn của khuôn mặt chúng. Chúng nhâm nhi niềm lạc thú mà Trãi là người trả giá, với cái oái oăm của số phận, đang đường đường là vị cố vấn khôn ngoan của Hoàng đế, thế mà Trãi lại bị ném vào chính cái ngục mà ngày trước Bố Chính Trung Hoa Hoàng Phúc, kẻ thù của chàng lại cứu thoát chàng ra khỏi! Thế là cuối cùng, giao ước nối kết thanh gươm và ngọn bút đã bị tan vỡ. Giờ đây chỉ cần thêu dệt những câu chuyện nham hiểm với dáng vẻ vô thưởng phạt để dần dà, các câu chuyện ấy thẩm thấu từng ngày sẽ tạo cho Con Rồng nỗi ám ảnh ngày càng dữ dội về một cuộc tạo phản sắp xảy ra. Với chủ tâm phá hoại ngấm ngầm tinh vi như thế, mối tương quan giữa người chiến binh và vị nho sĩ đã từng sát cánh bên nhau trong công cuộc giải phóng cũng như trong công cuộc tái thiết, đương nhiên phải bị lụi tàn. Về phần Nguyễn Trãi thì theo lời các tên canh ngục, chàng vẫn điềm nhiên và vô cùng kiên nhẫn tiếp tục viết, nhưng là viết những vần thơ chứ không phải viết những lời van xin gửi đến ngự tiền văn phòng. Điều này khiến cho niềm vui của đám thù nghịch chàng bị giảm đi chút ít.
...Quả thực khôi hài biết bao!
Danh thì hão, khổ đau là rất thực
Người duy nhất tín trung thì lại bị đám đông tị hiềm ganh ghét
Thật đáng thương thay!
Số phận này không thể nào tránh khỏi
Nên ta vẫn một lòng yêu mến văn chương, phúc lộc
Trời Cao
Tuy ngục tù, ta vẫn không chịu được nỗi nhục phải van nài
Bằng trang thư viết mặt sau.
Lúc nào cũng thế, Nguyễn Trãi vẫn đương đầu với bọn thù nghịch bằng chính sự cao ngạo vô bờ của chàng, vẫn tin rằng mình vượt lên trên mọi sự thăng trầm. Vị ngự sử nghiêm khắc, vị quân sư đã từng ban bố những lời khuyên dạy, con người đã từng là vị hướng đạo cho đám dân đen, vị danh nho có phần nào u mặc từng sống với những thú vui đạm bạc vẫn thách thức bọn chúng.
Bọn này thầm nghĩ: "Nhằm nhò gì! Chỉ cần Đức Hoàng đế phán ra một lời, một lời duy nhất thôi là đao phủ sẽ... ", "Chỉ một lời thôi là Trãi sẽ xương tan thịt nát, sẽ bị băm từng mảnh, sẽ hoàn toàn không còn gì nữa".
Bọn chúng sốt ruột chờ đợi bờ môi đức vua truyền ra mệnh lệnh thảm khốc này để rồi sau đó bọn chúng sẽ giả vờ như hoàn toàn thờ ơ tiếp nhận với phong thái vô tư tẻ nhạt của guồng máy quan liêu mà chúng vốn sở trường. Ngay lúc này, chúng đã lấy làm khoái chí khi mường tượng ra cái chết của vị nho sĩ mà chúng dự phóng và đã kể như cầm chắc cái chết ấy, vốn là do công sức của chúng mà nên, tưởng chừng như sẽ xóa sạch đi cùng một trật với ông ta những gì là siêu nhân. Và như thế, cái chết ấy sẽ chứng tỏ rằng chính bọn chúng, là những kẻ vừa bất tài vừa không có lòng dạ, mới thật là hiện hữu thực sự.
Và bọn chúng kiên nhẫn chờ đợi...
Ngòi bút nhà chép sử dừng lại ở đây...
Vị Hoàng đế, Thiên tử vẫn chưa đoái hoài đến việc ban truyền mệnh lệnh ấy! Giữa những vấn đề quan trọng của đất nước, việc truất bãi một công thần sủng ái vẫn được trì hoãn ngày qua ngày, hình như sẽ không xảy đến nữa! Đám hoạn quan cũng chẳng hay biết gì về việc này. Cuối cùng, Lê Sát và đồng đảng thắc mắc tự hỏi lẫn nhau. Đây là lần đầu tiên Hoàng đế do dự. Ngoài cô tỳ thiếp Thị Lộ và những kẻ trung thành với vị nho sĩ đang tích cực bào chữa cho Trãi thì nỗi sợ nào hay ảnh hưởng nào đã làm Đức Vua ngần ngại? Các vì tinh tú từng phù trợ cho kế hoạch bọn chúng nay đã rút lui khỏi cuộc chơi rồi sao? Trời đất tưởng đã liên kết với nhau tru diệt Nguyễn Trãi nay bỗng dưng lại tử tế với chàng sao?
Cuối cùng mệnh lệnh đã được ban xuống nhưng lần này nhà chép sử có thể ghi lại mà chẳng run tay, bởi vì đây không phải lệnh tử hình mà là lệnh phóng sinh thể theo thánh ý Hoàng đế. Tội nhân ngày hôm qua, hôm nay lại được nhìn nhận là vô tội được hoàn trả tự do, của cải và đặc sủng.
"Khâm thử".
Đứng trước một tình huống bẻ quật như thế, thật không thức thời và rất thiếu khôn ngoan nếu biểu lộ ra bất cứ dấu hiệu nào không bằng lòng. Bọn Lê Sát, Lê Vấn và Thục Huệ liền cố sửa đổi bộ mặt, cố che giấu sự thất vọng đắng cay và lòng uất hận của chúng dưới chiếc mặt nạ làm bộ ra vẻ dửng dưng.
Quả là luật trời vận hành thật mầu nhiệm qua việc hoạch định từ muôn thuở, nơi số mệnh Nguyễn Trãi, sự đối đầu khốc liệt giữa "nhị không tứ họa", điều mà ngày xưa ông lão Chiêm tinh đã hé lộ cho thấy. Chính luật trời ấy đã truyền bảo phải chờ đợi cho đến lúc giờ định mệnh của ông ta sẽ điểm.
Dù vẫn phải còn kiên nhẫn chờ đợi, nhưng dù sao Lê Sát và băng đảng của hắn cũng đã chiến thắng rồi. Trước đây, ngoài các phần vụ khác, với quyền Thượng thư Bộ Lại, Nguyễn Trãi được có quyền bổ nhiệm các quan lại, tổ chức việc hành chính trong vương quốc và điều hành hội đồng cơ mật, còn bây giờ thì Trãi không còn chút thực quyền nào cả. Các phận vụ của chàng chẳng qua chỉ là một tước