← Quay lại trang sách

Chương 2

Giống như ông ngoại mình, tức Hoàng thân Trần Nguyên Đán ngày xưa, can đảm lắm Nguyễn Trãi mới giữ được lời hứa lui về ở ẩn một khi đã bị Hoàng để không còn tín nhiệm nữa.

Cả hai ông cháu đều đã từng chèo chống giữa một thời buổi nhiễu nhương và đã tạo lập được nền hòa bình cho xứ sở. Rồi cả hai cũng đều phải bó buộc rời bỏ "Cửa Mận" mang gia đình về ẩn cư tại Côn Sơn mà lòng vẫn nặng trĩu niềm ưu tư về đất nước. Sao mà cả hai cùng chung một số mệnh giống nhau đến thế!

Tuy nhiên tuổi tác và thời đại sống của hai người lại khác biệt nhau. Vị Hoàng thân thì rời khỏi một triều đình đang giẫy chết còn Trãi lại xa lìa một triều đại mới khai sinh. Đối với Hoàng thân, vấn đề phải làm là củng cố lại một lâu đài đã mục nát còn với Nguyễn Trãi thì vấn đề lại là đặt nền vững chắc cho một cấu trúc mới. Vì đã cao niên vả lại cũng biết ý thức giới hạn mình, vị Hoàng thân đã chấp nhận điều không thể nào tránh được, đó là Đại Việt đang trải qua những giờ phút nguy khốn và Hoàng thân thà chết còn hơn là phải sống để chứng kiến. Còn ngược lại hoàn toàn, sự chín chắn vừa đạt vào tuổi trung niên, các dự phóng lớn lao và tầm quan trọng của công việc phải hoàn thành đã khiến Nguyễn Trãi khó lòng tự mình chọn lấy con đường treo ấn từ quan.

Sau nỗi ê chề khủng khiếp của một "vị đại công thần" bị khai trừ ngay lúc đang còn hăm hở phục vụ bị tước đoạt khỏi tầm tay quyền uy cao quý nhất, Nguyễn Trãi đã đau đớn nhìn nhận rằng mình rồi cũng phải chung chịu cái số phận bất công của ông ngoại và phụ thân và chàng còn may mắn thoát được trong đường tóc kẽ tơ số phận thê thảm hơn mà người anh họ Trần Nguyên Hãn của mình đã gánh chịu. Nhưng rồi với tháng ngày dần qua, một tình cảm mới bắt đầu nảy sinh trong lòng Trãi. Tính khí cao ngạo đã nguôi ngoai, nỗi nhức nhối do lòng tuyệt vọng gây ra nay đã dịu dần, giờ đây nơi Nguyễn Trãi đang bắt đầu hình thành một sự nhẫn nhục đầy thanh thản vì không phải không còn có niềm hy vọng nào đó. Một niềm hy vọng thầm kín, kiên vững của ngọn đèn tận đáy đêm đen. Chàng vẫn ôm ấp niềm ước muốn nồng nàn được đem tài năng ra phụng sự ngay cả khi để cho ngòi bút ghi lại bài thơ trầm mặc sau đây:

"Trở về dưới túp lều tranh thôn dã, ta bằng lòng với số phận nhà cư: an bình, ẩn dật âm thầm

Ta tiêu hao ngày tháng hoàn toàn tự chủ lấy đời ta Khi xuân tàn hoa nào chẳng úa

Có gặp kẻ điên rồ, ta sẽ bảo chớ hoài công tính chuyện dời non chuyển.184

Mảnh đất Côn Sơn không phải không có góp phần vào cuộc tái sinh ấy. Vị Hoàng thân đã để lại mảnh đất này cho ông và vĩnh viễn Trãi đã thuộc về mảnh đất ấy. Mãi lo chu toàn bổn phận và trách nhiệm của mình, Trãi đã bỏ phế mảnh đất bao nhiêu năm trời, thế nhưng ngay khi tìm gặp lại, mảnh đất ấy đã ban tặng dư dật cho ông biết bao niềm an ủi. Những hàng tre xanh lúc nào cũng nghiêng mái đầu thanh tú phủ rợp các sườn đồi. Những ngọn núi uốn mình dài như bất tận, dòng suối mát rì rào như tiếng đàn xuyên qua sỏi đá (ám chỉ bài Côn Sơn Ca của Nguyễn Trãi). Trải bao thỏ lặn ác tà, mảnh đất ấy vẫn như đã bị ngày tháng gặm nhấm dần. Vắng bước chân chung thủy của khách dạo chơi, con đường đã mất đi dấu vết mình dưới những cành cây bụi cỏ, con suối đã quên đi chiếc cầu nhỏ có hàng lan can màu đỏ thẫm và khu vườn của vị Hoàng thân đâu còn nhớ đến những khóm cúc ngày xưa nữa. Túp chòi cạnh bờ hồ nơi trước kia Trãi thường ra đọc sách nay chỉ còn lơ thơ vài tấm ván nổi giữa đám bèo trôi. Trong khung cảnh quen thuộc này, một số gương mặt thân quen đã khuất non, một số khác đang bắt đầu bị nhạt nhòa. Đứa con trai người thủ từ tên Đạo đã thay chỗ người cha sau khi ông này đi theo cụ ông Phan và cụ bà Tỵ về chốn suối vàng, và ông Phò, người thợ gốm trong làng cũng đã ở vào số những chiếc tiểu sành đã được cải táng. Ông Tú Tài hương Sư và cụ Lương y hiện chủ tọa "Hội đồng phụ lão" được liệt vào hàng các "đại tôn lão". Trên ruộng đồng và trên các khung cửi, các thiếu nữ tươi trẻ con cháu của các bà nông dân và các bà thợ dệt ngày xưa đang cúi mình khom lưng làm lụng.

Sự vắng bóng của Trãi chỉ làm thay đổi dáng vẻ bề ngoài của mảnh đất. Đối với chàng nho sĩ, vết hằn của thời gian trên miền đất Côn Sơn giống hệt vết hằn trên khuôn mặt dấu yêu làm khuôn mặt ấy càng thêm thân thiết. Dù kinh qua bao trận mạc cũng như bao cuộc chiến thắng, dù trải qua bao thương tích và đau đớn của bậc nam nhi, Trãi vẫn giữ nguyên mối tình với quê cha đất tổ, cái mối tình được kế thừa từ tấm bé. Và cái vẻ đẹp man rợ của mảnh đất, hiện Trãi cũng đang đem thêm vào một vẻ đẹp khác nữa: vẻ đẹp của Thị Lộ, người tỳ thiếp ông rất đỗi dấu yêu.

Nguyễn Trãi trở về cố hương nhằm ngày 18 tháng 7 âm lịch, trùng hợp với ngày lễ Kỳ Yên tại ngôi miếu do vị Hoàng thân đã lập nên với hy vọng sẽ cất đi hoặc làm giảm bớt cái nghiệp chướng đè nặng lên hậu duệ của ngài. Nguyễn Trãi tay mang lễ vật tiến đến ngôi miếu, có người thiếu phụ theo chân.

Cũng tương tự như tòa nhà cổ kính, chiếc bàn thờ bé nhỏ dành cho việc thờ cúng "Xà Thần" cũng dãi dầu với những đợt nắng hạ mưa dầm và bị hoang phế, các mảnh ngói rơi ngổn ngang trên mặt đất, chân bàn thờ bị mối mọt đang sắp sửa sụp đổ. Bàn tay sùng kính của Thị Thanh, người vợ quá cố của Trãi đã cắm lên đó cây nhang cuối cùng từ lâu lắm rồi... Chỗ bước chân nàng thường qua lại nay chỉ còn lại dấu vết màu đỏ sẫm tím của loài hoa dâm bụt, loài hoa mà nàng đã hái dâng tặng Trãi trong khu vườn Thượng uyển, khi chàng mới là vị khôi nguyên trẻ tuổi, ba mươi năm về trước. Xúc động một cách khác thường, vị nho sĩ dừng lại chiêm ngưỡng. Thị Lộ kín đáo nép mình sang một bên.

Từ mối tình xưa giữa đường gãy gánh này, hương thơm ngọt ngào cay đắng của bao sự việc dở dang vẫn như còn đang phảng phất. Vào năm Tý (1411), hai người đã chia tay nhau để không bao giờ còn gặp lại. Thỉnh thoảng Trãi cũng nhận được tin tức của nàng và của ba đứa con trai của họ: Khuê, Ứng, Phù. Suốt những đêm lạnh lẽo ở vùng Thanh Hóa, lúc nào Trãi cũng nghĩ đến vợ con. Khi thủ đô được giải phóng, Trãi đã cho người đi kiếm họ thì mới hay Thị Thanh đã qua đời từ một năm trước. Hình ảnh tươi đẹp người vợ trẻ đã khuất mà Trãi không bao giờ thấy phải bước sang tuổi già, như hợp làm một với hình ảnh tuổi thanh xuân của chính mình đã để lại trong tâm hồn vị nho sĩ khắc khổ này một nỗi nhớ nhung, một sự đợi chờ những cơn nồng nhiệt không sử dụng và nỗi trống vắng mênh mông mà giờ đây mối tình thắm thiết đối với Thị Lộ đã đến lấp đầy. Mối tình muộn màng độc đáo và mãnh liệt này đã giúp Trãi hiểu ra rằng trước đây chàng chẳng mấy biết yêu. Nhìn những điểm màu đỏ thắm giống hệt những giọt máu hỷ lễ, Trãi bỗng nghiệm ra rằng trong việc chu toàn bất cứ bổn phận nào, khi mà bổn phận ấy lại có liên quan đến một người khác với chính bản thân mình (và trong trường hợp của ông thì bổn phận ấy lại đưa ông đến chỗ phải gạt việc ăn ở vợ chồng ra ngoài mọi dự tính) nó bao hàm bao nhiêu là sự hững hờ lãnh đạm gần như chai đá. Thuở xa xưa ấy, để đi đến ngôi miếu nhỏ bé kia, bước chân mệt mỏi của Thị Thanh thường được người tớ nữ trung thành Nụ Nhài nâng đỡ. Trong một niềm hối hận u uất xen lẫn vào lòng kính phục xót thương người hiền thê gương mẫu, Nguyễn Trãi đã tâm sự với Thị Lộ: "Lịch sử đất nước này giống như cơn sóng dìm ngập đời ta, giờ dây khi sóng rút đi rồi, ta mới thấy hết tất cả sức tàn phá của nó".

Ví như Nguyễn Trãi có muốn xua đuổi đi niềm tiếc hận ấy thì cặp mắt đầy trách móc và bộ tang phục vải xô màu trắng của Nụ Nhài không cho phép ông làm như thế. Cô tớ gái ranh mãnh ngày xưa mà Thị Thanh đã sai đến Kinh thành thay mình lo việc gối chăn cho chồng bà, giờ vẫn không quên được chàng nho sĩ.

Khi Trãi ra đi gia nhập vào nghĩa quân Lê Lợi ở Thanh Hoá vào năm Ất Mùi (1415), cô nàng đã thảm thiết khóc thương. Điệu bộ "buồn thảm như chó mẹ mất con" đã hoàn toàn lừa phỉnh được đám quân Tàu. Tất cả bọn chúng đều tin rằng Nguyễn Trãi đang hấp hối trong túp lều của chàng ở mạn Nam thành phố, trong khi thực ra chàng đã trốn khỏi thủ đô. Sau đó chính Nụ Nhài cũng biến mất theo để rồi lại về ở với bà chủ nàng tại Côn Sơn. Năm qua đi tháng lại, tình yêu dành cho vị nho sĩ trước kia đã làm cô nàng cảm thấy xa cách với bà chủ thì lạ lùng thay, với thời gian trôi qua lại làm cho nàng trở nên gần gũi với bà ta. Cùng chung số phận, họ đã cùng liên kết với nhau. Người vợ cả và cô tỳ thiếp của Trãi, cả hai đã cùng chia sẻ với nhau những đêm cô quạnh, nỗi chia ly đau đớn cũng như sự trống vắng thường xuyên dai dẳng. Cả hai người phụ nữ này đã cùng nhau khấn vái nài xin Đức Phật và thần Rắn ở ngôi miếu nhỏ, cùng dò la tin tức từ những kẻ bán rong, các khách hành hương cùng những tay lãng tử chuyên kể chuyện thỉnh thoảng dừng chân dưới gốc đa làng để loan tin chiến sự dưới những ám chỉ kín đáo. Sau nỗi vui mừng về cuộc giải phóng các tỉnh thành phía Nam, họ hy vọng nghĩa quân sẽ sớm nhanh chóng gặt hái luôn chiến thắng ở miền Bắc. Than ôi! Cuộc chiến tranh chỉ thay đổi trận địa mà thôi! Hai người phụ nữ hoài công rình chờ bóng dáng thân thuộc xuất hiện đầu lối hàng thông, hoài công đoán giải điềm trời, tra vấn các vì tinh tú. Hai người chia công sẻ việc với nhau: người thì lo lắng dạy đỗ các con trai chàng, người thì lo lắng thu dẹp nhà trong cửa ngoài. Cả hai nàng càng trông già đi, nhất là Thị Thanh, khổ người vốn mảnh mai yếu ớt. Đến khi nghe tin chiến thắng Tốt Động, lòng chan chứa hy vong, họ lăng xăng quét dọn lau chùi nhà cửa tươm tất, trang hoàng kỹ lưỡng để chờ đón vị nho sĩ đã gần giây phút khải hoàn. Nhưng than ôi. Cuộc chiến lại tiếp tục sa lầy trong cuộc vây bủa thủ đô. Nụ Nhài trông thấy bà chủ mình ngày càng tàn tạ, kiệt sức mỏi mắt ngóng chờ sứ giả đưa tin đến từ Thăng Long. Ôi trời ơi! Thế mà chẳng thấy bóng dáng ai hiện ra nơi ngưỡng cửa! Cuối cùng, vào tháng 2 âm lịch năm Đinh Mùi (1427), không bao giờ có một lời than thân trách phận, Thị Thanh đã thốt lên cùng Nụ Nhài những lời tối hậu: "Phu quân ở xa không thể về kịp. Muội làm ơn chăm sóc giùm ba đứa con trai anh ấy. Cầu trời sẽ không bỏ rơi muội cũng như muội đã không bỏ rơi ta". Nói xong Thị Thanh nhắm mắt lìa đời sau mười hai năm chia ly gian khổ. Nụ Nhài đã hoàn tất chu đáo các nghi thức chôn cất Thị Thanh chẳng khác cho chính cha mẹ ruột của mình... Thế rồi, kế tiếp là trận thắng Chi Lăng, quân Tàu rút về, và tân hoàng đế lên ngôi vua Đại Việt, nhưng Nụ Nhài nào biết cùng ai chia sẻ niềm vui bây giờ? Ngày dần qua, cô nàng luôn có cảm giác mình đang đóng vai người bảo tồn niềm đau đớn, nỗi cô quạnh cảnh đơn chiếc của bà chủ. Tựa như đốm lửa phủ dưới lớp tro tàn vẫn không lụi tắt, tình yêu của nàng đối với Nguyễn Trãi vẫn còn âm ỉ cháy, và giả như khi về lại cố hương, Trãi không dắt theo bên mình cô tỳ thiếp xem ra chàng rất cưng chiều vừa mới hai mươi lăm xuân xanh, thì ắt hẳn sẽ bùng lên sáng rực nồng nàn.

Thế là ngay từ khi nhận thấy rằng người tỳ thiếp về sống chung dưới mái ấm với vị nho sĩ là một phụ nữ tuyệt đẹp, đồng thời lại là nữ kháng chiến kiêm nữ văn sĩ có hạng, tất cả niềm hy vọng đoạt lại người xưa liền tan biến khỏi lâm trí Nụ Nhài. Nỗi ghen tuông làm héo úa ruột gan cô nàng. Bên cạnh cô gái "nõn nà" mà mọi người đều ngưỡng mộ, mà anh chàng Ba ngờ nghệch lại thường quỵ lụy, thì lớp da chai sạm vì đồng ruộng và lòng trung thành của cô nàng đối với vị nho sĩ nào có nghĩa lý gì? Sau khi lấy làm mừng cho bà chủ của mình đã được chết đi để khỏi phải nếm chịu cơn thử thách chua xót này, Nụ Nhài lại xót xa tiếc rằng phải chi bà ta đừng vội từ trần. Giá như vậy, thì con bé ấy ắt phải hoàn toàn tôn kính phục thuận đối với bà vợ cả, mẹ chính thức của tất cả các con cái bất kỳ là do ai sinh ra. Và hẳn là bà chủ sẽ giành lấy khuê phòng cho riêng mình đêm nào cũng vậy. Còn cái ả Thị Lộ kia, thay vì vùi chăn lăn gối trên giường, ắt sẽ phải ngủ trên manh chiếu ở phòng ngoài hoặc trong chuồng bò, họa hoằn mới được gặp chồng đôi bận! Nhưng thôi, dù sao thì trời cao cũng đã trừng phạt cặp uyên ương đáng nguyền rủa này: được yêu dấu thế mà cái bụng con tỳ thiếp ấy cũng vẫn còn son sẻ.

Dù đã biến thành như "lọ giấm chua"185, Nụ Nhài vẫn khéo léo che đậy không lộ cho Nguyễn Trãi thấy được tình cảm của mình. Lúc nào cô cũng khoác trên người bộ tang phục dường như luôn tưởng nhớ đến bà chủ, điều mà ngay cả đến người chuộng lễ nghĩa Khổng giáo mấy cũng phải cho là quá đáng, cô ta thầm lặng tận tụy phục vụ ông chủ của mình, nhưng khi ông chủ quay lưng thì cô nàng lập tức tuyên chiến với Thị Lộ. Đây là một cuộc chiến tay đôi đáng sợ, quyết liệt và lì lợm, một cuộc chiến đa dạng trong đó mỗi lời nói là một liều độc dược, là một mũi dao găm, mỗi cử chỉ có thể chứa đựng một bẫy gài, mỗi đồ vật thường ngày lại trở thành khí giới! Đây là một cuộc chiến thâm hiểm với những lần đình hoãn khôn khéo, một cuộc chiến cân não, tiêu hao.

Dưới những chiêu bài ngụy tạo, Nụ Nhài đã tách Thị Lộ ra khỏi công việc nội trợ, nào là cô ấy không biết nấu cơm, lần nào cơm cũng nhão bét! Nào là cô ấy chẳng chịu thích ứng với những tập tục tinh tế, mà vị công nương quá cố đã thiết lập ra ở chốn này, nào là cô ấy chẳng để ý gì đến sở thích, ý riêng của ông chủ... Dựa vào lòng tôn kính đối với vị công nương quá cố được mọi người quý mến, một lòng tôn kính lan đến cả những đồ vật bà ấy thường dùng, Nụ Nhài đã không ngừng khiến cho nàng tỳ thiếp tự cảm thấy mình trở thành người vô tích sự dưới mái nhà này và dưới con mắt mọi người nàng tỳ thiếp ấy bị xem như một vật vô dụng chỉ dành riêng để phục vụ cho lạc thú của ông chủ, một món đồ xa xỉ lãng phí trong một gia đình đang bước dần vào cảnh nghèo túng. Bằng cách bẻ hành bẻ tỏi, Nụ Nhài đã hoàn chỉnh hành động của mình bằng cách khéo léo ly gián nàng tỳ thiếp kia khỏi mọi người thân quyến trong gia đình, đặc biệt là hai nàng dâu của Nguyễn Trãi, bởi vì hai nàng dâu này đang lo lắng vì chồng mình quá khâm phục bà kế mẫu quá ư quyến rũ này. Thế là chẳng bao lâu, Thị Lộ trơ trụi không biết cậy dựa vào ai nữa, ngoại trừ anh chàng Ba mà thôi.

Khư khư theo đuổi các trò thù nghịch khuất khúc ấy, Nụ Nhài tin chắc rằng người ta sẽ cho rằng những quấy nhiễu ấy là do một thần linh thù nghịch nào gây nên. Một lần thì Thị Lộ bị trượt chân vào chậu nước sôi đặt ở ngạch cửa, lần khác thì chút xíu nữa nàng bị rơi xuống một cái hố trong vườn, lần khác nữa, nàng suýt bị trúng phải một tảng đá từ trên đỉnh đồi lăn xuống. Biết tố cáo buộc tội ai đây? Khi mà các sự không may này có vẻ như chỉ là những tai nạn thông thường mà nàng tỳ thiếp ấy đã may mắn thoát khỏi? Con đầy tớ đãng trí bị rầy la, gã làm vườn sơ ý bị khiển trách, và rồi tất cả đâu lại vào đấy, để sau đó nàng tỳ thiếp lại phải chuốc thêm vào người vô số phiền lụy khác, chẳng hạn chiếc áo dài đẹp nhất của nàng bị vò nhàu, sách vở nàng bị vấy mực. Chưa hết, Nụ Nhài còn tìm kiếm những lá bùa để trù yểm Thị Lộ.

Có người làm ra vẻ sành sỏi bảo với Thị Lộ:

- Chắc cô đã lỡ xúc phạm vị thần nào đó nên cô đã bị trả thù. Cô nên đi xem thầy bói đi. Ông ta sẽ cho biết cô đã xúc phạm đến vị nào và sẽ chỉ cho cô cách thức hòa giải với vị ấy kẻo vị ấy sẽ nhập vào vật cô ra đấy!

Thị Lộ mỉm cười nói: Tục ngữ có câu: "Bói ra ma quét nhà ra rác". Chẳng cần đến thầy bói Thị Lộ cũng dư biết được vị thần "bằng xương bằng thịt" đó là ai và còn biết rõ nỗi gặm nhấm mà Nụ Nhài che đậy dưới cái vỏ của lòng trung thành "khuyển mã" đối với bà chủ đã khuất. Những lời tâm sự của Ba, dựa vào lời tường thuật của chàng Khiết, cho Thị Lộ biết được cái vai trò người tớ nữ kia đã đóng vào đoạn cuối tấn bi kịch nàng ca nhi Tiểu Mai xinh đẹp. Không hiểu Trãi có ý thức được những nỗi đam mê mãnh liệt mà chàng khêu dậy nơi tâm hồn của những người phụ nữ không nhỉ? Một đằng thì người ta có thể yêu chàng điên dại đến chỗ sẵn sàng tự hủy, đằng khác thì vì chàng người ta lại có thể sẵn sàng gây tội ác. Đã dày dạn trong cuộc trường chinh chống giặc Tàu, thì sự căm ghét độc địa của một người phụ nữ đang về già chẳng làm Thị Lộ lo sợ. Nàng chỉ cần nói một lời hay đưa ra một cử chỉ là đối thủ tội nghiệp của nàng sẽ bị khai trừ ngay. Tuy nhiên, Thị Lộ đã không làm điều đó. Trái lại, chính nàng còn ngăn không cho Ba kể lại cho vị nho sĩ những chuyện hiềm khích trên. Khi nghe đề nghị:

- Ông chủ chúng ta chẳng từ chối cô điều gì. Cứ nói cho ngài biết về cách xử tệ tướng đó, ngài sẽ tống cổ mụ ta ngay cho xem!

Thị Lộ liền gạt phăng:

- Đại huynh ơi, coi chừng kẻo muội sẽ giận huynh đến muôn đời muôn kiếp đó! Người đàn bà quê mùa dốt nát đó có thể làm gì được muội, muội hoàn toàn xuôi chèo mát mái một mình được mà. Huynh đã rõ hiện giờ phu quân của muội đang nghiền ngẫm sáng tác. Huynh hẳn thấy suốt ngày ngài bận lo cặm cụi trên bàn viết đó chứ? Vậy thì tại sao huynh lại còn muốn lôi ngài vào cái việc làm trọng tài phân xử cho ba cái vụ cãi cọ tào lao về công việc nhà cửa thế này? Làm sao muội chấp nhận được. - Nói xong, như một nữ hoàng biết rõ mình đang được kính mến. Thị Lộ giả giọng truyền bảo - Tôi không bao giờ chấp nhận việc ấy, nhất là nó lại tự huynh gây ra. Huynh rõ chứ?

Trước tia nhìn như thiêu đốt của Thị Lộ, chàng Ba tận tụy im lặng nghe và chỉ biết vậy. Bao dung với con mẹ độc ác như thế có ích chi? Lợi lộc gì mà phải chịu đựng một cuộc sống như vậy! Dàn xếp một công chuyện chẳng qua chỉ là việc vặt trong gia thất thì có gì là trở ngại đến tài ba vốn đã lớn lao của vị tôn sư. Thật chẳng hiểu nổi!

Thị Lộ tự nhủ: Chàng Ba họa sĩ này chắc hẳn có đôi bàn tay khéo léo hơn là trí óc minh mẫn! Anh ta đâu hiểu rằng từ ngày về lại Côn Sơn, vị nho sĩ dã phải cam chịu một nỗi đau thầm kín trong lòng: Thay vì gặp lại người vợ hiền thì chỉ là một nấm mộ. Thế mà con quỷ Nụ Nhài với bộ tang phục thường xuyên trên người lại không ngừng khuấy động niềm ân hận này lên trong tâm trí ngài. Phải là phụ nữ mới cảm nhận được điều này. Giả như bị bó buộc phải sa thải người tớ nữ trung thành, người bạn đường vào cái thuở hàn vi ấy thì chắc chắn nỗi giày vò sẽ càng tăng thêm trầm trọng trong lòng Nguyễn Trãi bởi lời trách móc xa gần. Thế nên dù gì đi nữa, Thị Lộ cũng không muốn ép buộc Trãi sa thải Nụ Nhài, làm như vậy chàng sẽ phá mất sự hài hòa yên tĩnh thuận lợi cho việc sáng tác của chàng. Nếu một ngày nào đó Nụ Nhài phải ra đi thì đó là do tự chính cô ta. Thị Lộ tự hứa với lòng: "Nếu cần, ta sẽ tạo ra cho thị ta một cơ hội để viện cớ mà ra đi".

Lúc mới về định cư ở Côn Sơn, Thị Lộ hy vọng Nụ Nhài sẽ biết cam phận sau khi vơi đi niềm cay đắng, và hơn nữa nàng ao ước Trãi sẽ được triệu hồi về lại Kinh thành, mang nàng xa khỏi vùng đất Côn Sơn. Quen với nếp sống ở Triều đình rồi, nên Thị Lộ cảm thấy vui thích được sống ở đó và khi phải rời bỏ ra đi, nàng vẫn tiếc nuối khôn nguôi. Vì thế trải bao mùa mưa nắng, nàng vẫn không quên khơi dậy nơi vị nho sĩ lúc nào cũng mong ước cống hiến này, niềm hy vọng rằng Hoàng đế không thể nào bỏ lơ chàng lâu được. Ngỡ rằng lời ước nguyền của mình được trời cao chứng nhận khi nàng nghe được tin nước Trung Hoa cuối cùng rồi cũng đã chấp thuận tấn phong cho Lê Thái Tổ vào năm Tân Hợi (1143), nhưng than ôi! Hoàng đế chẳng thèm mời cố vấn khôn ngoan của ngài đến dự lễ tiếp nhận rương đựng chiếu chỉ phong vương, biểu tượng uy quyền hoàng đế Trung Hoa. Nhưng không sao, nàng vẫn nuôi hy vọng: Ngày ấy rồi cũng sẽ phải tới thôi. Đã được dày dạn rèn luyện trong những tháng ngày kháng chiến nên nàng vẫn một lòng kiên nhẫn. Nguyễn Trãi yêu nàng nhưng về phần nàng đối với Nguyễn Trãi, ngoài tình yêu, còn có thêm cả lòng khâm phục đến mức độ tột cùng, vì thế không được để cho bất cứ điều gì khiến chàng sao nhãng những dự phóng về sự nghiệp văn chương sớm muộn gì cũng sẽ đem chàng trở lại Thăng Long.

Chàng Ba lầm tưởng Thị Lộ nhân từ đối với "con mẹ độc ác Nụ Nhài" song thực ra chẳng qua là nàng xem thường cô mà thôi. Vì đối với Thị Lộ, người mà chú ta quý mến, thì chỉ có những tác phẩm của Nguyễn Trãi mới là đáng kể, mới là nỗi ưu tư chính yếu. Còn việc riêng tư của nàng thì chỉ là thứ yếu. Thế nên, nàng vẫn cứ chờ đợi.

Ba mùa xuân thấm thoát trôi qua và mùa xuân thứ tư, năm Quý Sửu (1433) vừa đến...

—★—

Dù đào xuân hé nhụy, mai rụng tả tơi trước ngọn gió của mùa trăng thứ năm hoặc phượng đỏ vào đầu mùa mưa tới thì ngày tháng ở Côn Sơn vẫn đều đặn tiếp nối nhau giữa việc sách đèn và cảnh nhàn nhã.

Mọi người trong nhà đều học cách thích ứng theo các thói quen của vị nho sĩ.

Thức dậy trước mọi người ngay từ hừng đông, Trãi yêu thích dạo chơi khắp vùng quê và trò chuyện thân mật với đám nông dân. Nếu chợt gặp Trãi dọc đường, chân mang dép cỏ, đầu quấn dải khăn the mịn, ai lại không tưởng lầm đây là một khách lãng du nào đó? Trở lại nhà vào giờ Mão (5-7 giờ sáng), Trãi dùng điểm tâm món cháo do Nụ Nhài chu đáo dọn lên, sau đó chàng tự giam mình vào thư phòng bầu bạn với mấy quyển sách cho mãi đến trưa. Lúc thì người ta nghe tiếng bước chân chàng qua lại trong phòng, lúc khác thì chỉ có sự yên lặng tuyệt đối bao trùm khiến mọi người phải lo lắng. Tuy nhiên, chẳng ai dám bén mảng đến chỗ ấy vì Thị Lộ đang canh chừng. Nàng đuổi hết đám trẻ quá ồn ào, các tớ gái lắm miệng đi chỗ khác chơi, và buộc mọi người phải yên lặng. Không ai được khua các cối xay lạch cạnh hay dậm chân lên các phản giặt ầm ầm. Mọi người trong nhà thường nói đùa với nhau: "Có chăng gió mới được phép thổi, mưa mới được phép rơi, sấm mới được phép gầm, còn chúng ta thì hầu như không được phép thở mạnh!". Họ kháo với nhau lén gọi Thị Lộ là "Thần giữ cửa", vì chỉ mình nàng tự quyền thỉnh thoảng bước vào thư phòng mang theo nước mài mực, trà nóng, thuốc hút hoặc trầm hương. Vào khoảng giờ Ngọ, vị nho sĩ thường cùng nàng tỳ thiếp thư giãn trong túp chòi được chàng Ba dựng lại cạnh bờ hồ. Không một ai trong thân tộc, kể cả lũ con nít, dám đến quấy rầy hai người vào giờ khắc ấy. Về phần mình, Nụ Nhài ở dưới bếp chỉ còn biết lấy dao cố sức chặt chặt, băm băm, thái thái thức ăn cho hả cơn tức giận.

Còn chàng Ba thì thích thú đứng từ xa xa quan sát cặp uyên ương này. Ngồi trong túp chòi, mặt đối mặt, đôi bạn tình Nguyễn Trãi, Thị Lộ trông chẳng khác nào bức tranh chàng ta từng trông thấy nơi nhà một tay bán ấn họa ở Kinh thành: bức tranh lụa vẽ từ đời Tống (690-1280 sau Công nguyên) tả cảnh một gia chủ đang sánh vai cùng vị phu nhân nội tướng. Từ đằng xa, Ba trông thấy Thị Lộ đôi tay thuôn nhỏ uyển chuyển qua những cử chỉ thật duyên dáng. Nàng xinh xắn như một bức tượng ngà bé xíu, đồng thời lại tươi mát tựa cành đào ướt đẫm sương mai. Kề cạnh người thiếu phụ trông vẫn còn kiều diễm này, là người đàn ông tuổi đã tròn năm mươi ba. Hàng ria mép mảnh như sợi dây mịn, chòm râu cằm dài thượt tiếp giáp bờ môi thuở còn đen mượt ngày trước đem lại cho khuôn mặt một vẻ man dại nào đó đầy quyến rũ, nay đã ngả qua màu xám khiến ông trông có phần già đi. Nếu đừng khoác trên người bộ đồ lôi thôi lếch thếch, thì trông ông có dáng dấp một vị hiền giả. Chẳng hiểu Thị Lộ nói những gì mà thỉnh thoảng giữa cuộc chuyện trò êm đềm, người đàn ông đã đứng tuổi đang hứng khởi cúi xuống trán nàng, gương mặt chàng thanh niên tuấn tú ngày trước như bỗng tái sinh, cặp mắt tuyệt diệu tóe lên những tia lửa lạ thường, nụ cười đầy tinh anh ý vị nói lên tâm trạng say đắm của một kẻ tình si. Chẳng có gì thoát khỏi tầm quan sát của anh chàng Ba. Qua nhiều năm phục vụ, cuối cùng Ba đã hiểu được vị nho sĩ rất thích sự cô tịch nên anh ta luôn luôn cố gắng tôn trọng điều ấy. Vì thế Ba khó mà tưởng tượng được một ngày kia ông chủ mình lại có thể chấp nhận chia sẻ niềm tịch liêu ấy với một kẻ khác, nhất là kẻ ấy lại là một phụ nữ như Thị Lộ cho dù rằng cô nàng vừa xinh đẹp lại vừa hấp dẫn. Quả là một phép lạ khiến Ba không ngừng sửng sốt. Nhìn cảnh đôi uyên ương cùng nhau kề vai sát cánh chuẩn bị cho giây phút hợp hoan, Ba cảm thấy bối rối tựa như đang đối diện với một sự huyền nhiệm đầy vẻ linh thiêng. Thị Lộ đã biết cách làm xao động lòng dạ, chinh phục tâm hồn và đã giành được quyền du nhập vào cái thế giới thăm thẳm của vị nho sĩ. Trân trọng tài năng của nàng, Nguyễn Trãi đã không ngần ngại bày tỏ cho nàng các dự phóng, các công việc hiện tại lẫn tương lai. Chỉ Trời mới biết được Nguyễn Trãi có bao nhiêu dự định, chàng nho sĩ đã thổ lộ gì với Thị Lộ và cô nàng đã trả lời ra sao? Cả hai nói gì mà xem ra cứ nói hoài nói mãi không chán vậy? Với lòng kính trọng thầy mình cũng như ân cần quý mến Thị Lộ, nên Ba cứ tưởng mình có quyền vượt lên trên mọi sự dè dặt.

Và chính ngày hôm nay, 16 tháng tư năm Tân Sửu (1433), vẫn đứng ở vị trí quan sát quen thuộc, Ba nóng lòng tò mò xem xét sự tình. Anh ta cố gắng hết sức đoán thử những lời nói từ đôi bờ môi mấp máy của vị nho sĩ nhưng chẳng ngạc mà cũng chẳng hiểu được gì!

Sở dĩ thế là vì tại Côn Sơn này ngày hôm nay khác hẳn mọi ngày.

Hôm qua, ngọn đèn bỗng rực sáng lên, đây là điềm báo có khách từ phương xa đến.

Và quả thế, sáng nay một sứ giả triều đình đã từ thủ đô đến đây! Thế là các tiêu lệnh giữ im lặng bị xáo trộn, toàn thể gia trang ào ào chạy túa ra xem. Thị Lộ chạy thẳng một mạch tới báo tin cho Nguyễn Trãi và vị nho sĩ đã ung dung ra tiếp đón sứ giả. Chẳng hiểu chiếc hộp tre màu trắng mà sứ giả trao cho vị nho sĩ chứa đựng thứ gì trong đó? Và các cử chỉ từ khước mà Ba trông thấy từ xa nói lên ý nghĩa gì? Phải chi mà Ba có thể áp lại gần đế nghe cho biết!

Trong túp chòi nhỏ, cuộc trao đổi giữa hai người không diễn ra bình thường như mọi khi. Vầng trán đanh thép trông lạnh băng, đôi chân mày cau lại, trước mặt người ái thiếp, Nguyễn Trãi chẳng cần gìn giữ nét mặt lẫn ngôn từ. "Dẹp đi, đừng hòng bắt ta cứ mãi làm một con chim ca hát mãi mãi cho triều đại ông ấy! Tôi nhất định từ chối!".

Câu nói này hàm ý phản đối thánh chỉ triều đình giao cho Trãi phận vụ soạn lại "Ký sự về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn". Lời nói nhát gừng kèm theo cử chỉ biểu lộ cho thấy Trãi đang cực kỳ bực bội vì bị buộc phải đóng vai nhà viết ký sự trong khi mà đối với ông cuộc chiến thắng giặc Tàu giờ đây không còn quan trọng bằng việc tái thiết đất nước lúc này. Làm công việc ấy, bộ Đức Lê Thái Tổ đã hết người có khả năng ở quốc sử quán rồi sao? Cứ đi mãi ngược dòng lịch sử sao? Ngụp lặn mãi trong quá khứ mà làm gì? Lợi lộc gì cho dân chúng trong việc này? Trãi nói:

- Phục vụ cho tương lai, đó chính là lẽ Đạo phải theo. Thế mà, than ôi! Ta cứ phải mãi ngồi đây mà chờ với đợi cơ hội.

Gương mặt luôn giữ nét thanh thản, Thị Lộ yên lặng chờ cho cơn bão dịu xuống. Nàng hiểu rõ những sự căm phẫn, những nguyên do, những trăn trở cũng như các nỗi giày vò của Trãi. Cuối cùng nàng mới lên tiếng:

- Thưa phu quân, quả đúng vậy, nhưng đây chẳng phải chính là cơ hội đó sao? Quần chúng sẽ lấy làm hãnh diện về ký sự Lam Sơn này và rồi thiên ký sự ấy sẽ cùng phu quân lưu danh đến muôn ngàn thế hệ...

Nguyễn Trãi nghiêng người về phía người thiếu phụ đang phản bác mình với cung cách mềm dẻo, bình thản của người đàn bà Đại Việt, nhưng thật ra bên trong lại ẩn kín bao sức kiên cường. Chàng lên tiếng:

- Tiểu muội ơi, tất cả đã không được viết trong "Bình Ngô Đại Cáo" hay trong "Chí Linh Thi?" rồi sao? Chúng ta thường mắc sai lầm là luôn luôn cứ muốn tán dương các bậc anh hùng. Nhưng nếu suy nghĩ cho kỹ, trong đất nước mình, tính cách anh hùng thể hiện ngay trong các sinh hoạt thường ngày. Đất đai khô cằn, nông dân chúng ta phải lam lũ từ sáng tới tối, từ đầu năm đến cuối tháng, đê điều thì sụt lở cứ phải đắp lại cho cao. Chưa kể đến nắng hạn, bão táp dịch tễ và các loại tai ương khác. Còn lòng can đảm nào sánh được với nỗi cơ cực mà phụ nữ đất nước mình phải còng lưng gánh chịu trên các đồng ruộng, bắp chân họ bị đỉa đeo lúc nhúc? Còn lòng can đảm nào sánh được sự quên mình mà các người mẹ chúng ta đã gánh chịu khi cam lòng hy sinh bán con đi, hơn là nhìn thấy chúng đói chúng khát? Còn lòng can đảm nào sánh được với sự gan góc của các bà vợ chết lần chết mòn trong nỗi đợi chờ các ông chồng đang xông pha chinh chiến? Ôi! Khốn khổ nào sánh được nỗi khổ của nhân dân ta, nhưng đồng thời cũng có sự phong phú nào sánh được không? Chính vì lẽ đó mà cần phải biết nghĩ đến nhân dân trước hết!

Gương mặt Thị Lộ rạng rỡ lên niềm thán phục, cặp mắt đen láy long lanh bừng lên như mặt hồ trong ráng lửa hoàng hôn. Không lúc nào Nguyễn Trãi trông cao cả và không bao giờ trông chàng gần gũi nàng cho bằng những lúc chàng đề cập đến nhân dân! Dường như Trãi đang nói về chính bản thân nàng, đang nâng nàng lên ngang tầm với chàng, đang làm cho nàng, một cô thôn nữ đơn sơ mộc mạc được trở nên cao trọng.

Trãi tiếp lời, và Thị Lộ thấy giọng chàng thật nồng nàn đắm đuối khác nào lời thì thầm bên gối:

- Kể từ nay, chính vì nhân dân mà ta muốn viết, và viết bằng thứ ngôn ngữ mà họ hiểu được, ngôn ngữ bình dân đáng yêu của ta. Muội ơi! Sáng nay ta có phác họa một bài thơ, cuộc trao đổi này sẽ giúp ta hoàn tất được bài thơ ấy...

Thị Lộ đưa mắt nhìn Trãi đang rảo bước vượt qua chiếc cầu nhỏ rồi khuất dạng. Từ Chi đã có lần nói với nàng: "Nét mảnh khảnh dễ gây xúc động của dáng người vị nho sĩ làm ta nhớ đến bố ông ấy". Ngay lúc này, cảm giác như bị mất đi người bạn tình bỗng xâm chiếm Thị Lộ, và trước mắt nàng, mặt hồ như đang thốt ra một lời nức nở.

Trong thư phòng, Nguyễn Trãi đương điểm xuyết lại một cách nghiêm khắc bài thơ mà chàng vừa phóng bút hoàn tất xong.

Tất cả dòng thơ chữ được viết ra như những bụi rậm đầy phẫn nộ, lởm chởm như gai góc đầy chua cay cho thấy Trãi vẫn còn ước muốn được lưu lại trong chiếc lưới "hồng trần", ngoài ra bài thơ còn cho thấy nỗi băn khoăn cực độ của Trãi trước một cuộc sống từ đây bị xem như vô tích sự, trôi nổi như bọt bèo! Đem những lạc thú của cuộc đời ẩn dật đối chọi với một cuộc sống như vậy. Đem vinh quang đổi lấy chiếc cần câu, đem thái độ gò bó của một kẻ công khanh luồn cúi đổi lấy phong thái ung dung của một bác nông dân, cũng là một ý tưởng hay ho.

Tuy nhiên, cách diễn đạt quá lố như thế gây tác hại cho cái tinh thần thanh thoát trong sáng vốn là nguồn gốc phát sinh ra tất cả sức mạnh của bài thơ, điều này không phù hợp với bản chất, vốn có phần trào lộng và những xác tín nơi Trãi. Cuối cùng, nó còn phương hại đến cả kỹ thuật cá nhân trong sáng tác thi ca mà nhờ đó Trãi đã thoát được khỏi cái khuôn khổ chặt chẽ của loại thơ bát cú Trung Hoa. Trong thơ chữ Nôm của ông, phép biền ngẫu của hai câu trung gian vốn không bao giờ thu hẹp vào lối diễn tả tượng hình, thì trong bài thơ này, theo như đòi hỏi của riêng ông, lại thiếu mất sự ngưng đọng đặc biệt giữa hai nhịp tạo ra thời gian cần thiết cho suy tưởng, nhờ đó bài thơ nói lên được ý nghĩa sâu sắc của nó.

Nguyễn Trãi lại cầm bút chỉnh lại bản văn, tẩy xóa các câu đầy vẻ thô bạo thay vào đó bằng những hàng thông hiền hòa và lũy tre dịu dàng của vùng đất Côn Sơn. Cơn giận hùng hổ trước đây giờ đã chuyển biến thành nỗi buồn nhớ mênh mang mãnh liệt: nỗi buồn của một nho sĩ đương độ tuổi sung mãn bị đẩy ra ngoài rìa chính sự mà lòng vẫn chưa tắt niềm hy vọng.

Vào giấc xế trưa, Thị Lộ mang ấm trà nấu bằng nước mưa (món uống Trãi ưa thích) vào thư phòng thì Trãi vẫn đang viết tiếp cuốn "Địa Dư Chí", suốt ngày hôm nay chàng chưa ăn gì cả!

- Phu quân đã xong bài thơ chưa ạ? Trãi liền trao bài thơ cho nàng:

Lui về cố hương đã mấy xuân qua - Ta vẫn chần chừ chưa muốn thoát khỏi lưới hồng trần - Ta những sợ cuộc trôi qua vô vị - Thôi! Hãy cam phận kiếp làm người.

Ta còn có một mảnh vườn: dăm ba sào tùng trúc. Đã thỏa nguyện: Đem danh vọng đổi lấy chiếc cần câu - Ta cất chân thanh thản như một nông phu.186

Thị Lộ đưa mắt nhìn Nguyễn Trãi nửa châm chọc nửa vui đùa:

- Phu quân ơi! Bài thơ đọc nghe sống động và tươi mát khác nào ngọn xuân phong. Sự thanh sảng bộc lộ trong bài thơ có lẽ sẽ giúp phu quân nghe những lời của thiếp sau đây: Bản Ký sự Lam Sơn làm cho phu quân bực bội rất nhiều vào sáng nay đó...

Trãi liền ngắt ngang: "Thì sao?" - Vừa nói Trãi vừa đưa tay cầm tách trà như để tìm thêm sức nóng và cường lực, trong khi Thị Lộ tiếp tục ngỏ lời:

- Có thể đó chỉ là một cái cớ mà đức vua nại ra thôi!

Nhờ khéo tranh thủ được niềm tin cậy của viên sứ giả, Thị Lộ được biết đức vua đã bị sốt rét sau cuộc chinh phạt chống tên giặc Thái "Đèo Cát Hãn" năm ngoái. Thể trạng mạnh như sắt đã cho phép đức vua chịu nổi sự lạm dụng thuốc men mãi đến ngày hôm nay. Tuy nhiên do quá lạm dụng cách điều trị "Công phá" bằng những phương thuốc mạnh bạo đến nỗi bệnh căn nơi ngài trở nên tiềm tàng, âm hiểm. Chân Âm và Chân Dương đã bị tổn thương. Thánh thượng thường dễ nổi giận bất chợt, tùy hứng đòi hỏi rồi lại bỏ lửng, ngờ vực đột ngột, đang ủ rũ thê lương bỗng dưng ngài nổi cơn thịnh nộ khiến đám hoạn quan sợ quá bỏ chạy trốn. Việc Thái tử Nguyên Long ít chăm học và có xu hướng hưởng lạc sớm quá thường xuyên gây ra các cơn cuồng nộ nơi Hoàng đế. Khi đó khắp mọi phòng ốc trong Hoàng Cung vang dội tiếng gào thét của Con Rồng, khác nào tiếng gầm của con cọp trong cơn cấu cào điên loạn. Người ta kháo với nhau rằng càng ngày đức vua càng thích sống lại thời quá khứ. Nhiều lần đám thái giám phục dịch trong phòng đức vua nghe thấy vị Thiên tử gợi lại vùng núi Chí Linh, đám chiến hữu ngày xưa - Thị Lộ đăm đăm nhìn Nguyễn Trãi, cặp mắt chất nặng điều bí mật nàng sắp sửa thổ lộ ra với chàng - và Thiên tử thường phàn nàn về sự vắng bóng vị Cố vấn khôn ngoan thỉnh thoảng khiến ngài cảm thấy đau đớn - Thị Lộ kết luận, trong khi Trãi vẫn trầm ngâm lặng im.

- Dưới ánh sáng tất cả các sự kiện trên, sao chúng ta lại không nhận ra là Thánh thượng đã dùng chiêu bài sai bảo phu quân viết bài Ký sự này để khéo léo kéo phu quân về bên cạnh ngài?

Sự nồng nhiệt khiến cho người phụ nữ vốn thường dè dặt kín đáo này bỗng dưng phát biểu sôi nổi, ào ạt làm buốt lạnh trái tim nhà nho sĩ. Niềm hy vọng giả định rằng sẽ được nhà vua sủng ái trở lại, mà Thị Lộ muốn thuyết phục Trãi, bộc lộ cho thấy lòng ước mong thầm kín của nàng được trở về lại Thăng Long, bởi vì Trãi dư biết Hoàng đế có e ngại gì mà phải dùng đến chiêu với bài! Cuộc sống quê mùa, xa cách những lạc thú Hoàng Cung chắc hẳn đã làm người ái thiếp của chàng cảm thấy nặng nề. Ngay giữa cao điểm niềm hạnh phúc mà Trãi đang tin rằng Thị Lộ cùng chia sẻ với mình thì một nỗi đau đớn đã chộp xuống, bất ngờ và tàn nhẫn: Trãi chợt thấy rằng, mình không thể nào làm cho Thị Lộ được thỏa mãn trọn vẹn!

Nhìn thấy Trãi như đang đắm mình trong cơn mơ ảm đạm, chẳng đoái hoài đến việc trả lời, Thị Lộ liền khôn khéo rút lui. Phải chăng phản ứng của Trãi đã làm nàng chưng hửng ngỡ ngàng? Hay nàng đã thiếu đắn đo, khéo léo chăng? Cuối cùng, Thị Lộ tự trấn an. Tính khí Nguyễn Trãi vốn vẫn thường khiến nàng phải ngạc nhiên kia mà. Tuy nhiên, không còn nghi ngờ gì, những lời nàng nói ra đã gây tác động đối với Trãi. Dưới mái hiên, Nụ Nhài đang lặng lẽ gọt vỏ cau. Làm bộ như không hay biết, Thị Lộ trở về phòng ngồi sao chép lại những ghi chú Nguyễn Trãi giao phó.

Vào khoảng giờ Thân (15-1 7 giờ), từ khung cửa sổ, nhìn thấy Nguyễn Trãi đang đi về hướng ngọn đồi, Thị Lộ liền bước theo cách chàng một khoảng xa xa. Thay vì vòng qua con đường ngoằn ngoèo giữa hàng thông, Trãi lại đi vòng phía Tây hướng về ngôi miếu thờ thần Rắn. Mỗi khi bị lo âu hay nghi ngại giày vò, Trãi thường có thói quen đến đó, ẩn mình dưới các tán lá. Thị Lộ dõi mắt quan sát. Gương mặt hướng về bàn thờ được Ba trùng tu lại, Nguyễn Trãi hình như đang chìm đắm trong dòng suy tư của mình. Cơn gió hoàng hôn thổi tung tà áo dài màu đen. Nỗi quạnh hiu khủng khiếp đang đè nặng đôi vai chàng.

Thị Lộ lên tiếng ho khẽ.

Vừa trông thấy nàng, khuôn mặt Nguyễn Trãi bừng lên một nỗi buồn đìu hiu:

- Hiền muội ơi! Ta muốn thẳng thắn cởi mở tâm sự với nàng. Hiện nàng vẫn còn trẻ trung trong khi ta thì đã bước vào buổi xế tà. Tài sắc của nàng xứng hợp với Cung điện đức vua. Nàng đáng hưởng một cuộc sống khác chứ nào phải cuộc sống khốn khổ chốn này, ngày ngày cùng ta chung một cuộc đời khắc khổ. Ta sẽ dàn xếp mọi sự để viên sứ giả dẫn muội về lại Kinh Đô.

- Phu quân ơi! Xin đừng xua đuổi thiếp! Thiếp chỉ thuộc về ngài chứ chẳng thuộc về ai khác. Xin hãy thương tình nghe thiếp nói.

Tiếng kêu xé lòng này làm Nguyễn Trãi rung động. Nỗi nhiệt tình và mùi hương toát ra từ cơ thể cận kề của người thiếu phụ bỗng khiến chàng ngây ngất. Chút xíu nữa, Trãi đã không kiềm nổi được ước muốn điên cuồng siết chặt lấy nàng, dùng đôi môi chặn lại những lời phản đối nồng nhiệt của nàng. Nhưng Trãi đã tự kiềm chế.

Những điều trước kia chôn kín vì thẹn thùng thì giờ đây Thị Lộ để mặc chúng ào ạt trào tuôn:

- Thưa phu quân, ai có thể làm thiếp được hạnh phúc hơn phu quân? Lần đầu tiên gặp phu quân ở truông Chí Linh, Thiếp chỉ mới mười hai xuân xanh. Lúc ấy chẳng có người phụ nữ hay một cô gái nào xem ra có thể quyến rũ được ánh nhìn sâu thẳm hay làm dịu đi được vẻ mặt nghiêm nghị của phu quân. Mọi người đều cúi mình trước phu quân. Phu quân sinh ra là để làm chủ mọi người, kể cả thiếp, tấm thân bọt bèo phiêu dạt vừa gặp phu quân là thiếp đã yêu rồi. Ai dám bảo rằng những câu chuyện "Chỉ xe lá thắm" chỉ đơn thuần là chuyện bịa đặt? Đã từ lâu thiếp hằng mong đợi ngày được sống kề cạnh phu quân! Thế thì giờ đây, làm sao thiếp lại chấp nhận xa cách phu quân "Sâm thương" đôi ngã? Nỡ nào phu quân lại nói đến chia ly giã biệt trong khi chúng ta đã nguyện thề đồng sinh đồng tử? Vắng phu quân, Kinh thành sẽ chẳng còn nét quyến rũ nào đối với thiếp. Còn hạnh phúc nào lớn hơn được đọc những bài thơ vừa ráo mực của phu quân, được nhìn thấy các tác phẩm của phu quân khai sinh và triển nở? Trong đám quần thần đương thời, chẳng ai có tài năng rộng lớn sánh được với phu quân. Bút ký phu quân chứa đầy trung nghĩa nhân ái có thể làm biến dạng mây trời và cảm hóa lòng người. Thiếp chẳng có niềm ước muốn nào khác là được cùng phu quân trở về Thăng Long đề thấy công lao của phu quân được tưởng thưởng một cách cân xứng.

Có nét gì đó nơi người thiếu phụ gợi cho Nguyễn Trãi nhớ lại cô bé gầy nhom mà ngay từ thời còn ở núi rừng Chí Linh đã hứa hẹn sẽ là một tuyệt sắc giai nhân trong tương lai. Sự nhận xét ấy làm cho Trãi vô cùng phiền muộn, chẳng kém gì sự phiền muộn mà chính những lời ngợi khen nồng nhiệt của nàng, đã đem lại cho chàng. Trãi dán chặt tia nhìn rực lửa vào người thiếu phụ khiến toàn thân nàng như tỏa sáng lên để rồi quay ngược trở lại thiêu đốt chính chàng. Điều mà trái tim đang thổn thức, Trãi không thể nói lên được thành lời: "Ôi! Ái thiếp, ái thiếp ơi! Niềm thán phục của nàng làm tim ta buốt lạnh. Ôi! Tình yêu của nàng cần nuôi dưỡng bằng sự nghiệp của ta! Nàng thử nghĩ xem! Tình yêu say đắm của ta đối với nàng lại chẳng quý hơn tài năng của ta sao? Tại sao nàng không nói với ta những điều ta chờ đợi, không nói với ta những lời được thốt ra từ môi miệng một cô gái khờ khạo nhất dù cô ta chưa hề học hỏi, những lời mà bất cứ người thôn nữ nào cũng thầm thì với chồng trên chăn chiếu? Phải chi nàng yêu ta vì búi tóc quái dị, vì dáng vẻ lãng tử khùng khùng điên điên, vì tính khí nghịch thường, vì bờ ria lởm chởm châm vào nàng, vì chòm râu cằm "cù lét" nàng, vì đôi tay khéo léo, vì tấm nhiệt tình và lòng kiên nhẫn vô hạn ta dành để yêu nàng? Tại sao nàng chẳng bao giờ đến quấy rầy ta khi ta đang làm việc, không bao giờ nắm lấy tà áo kéo ta theo nàng đến nơi nào cũng được? Ôi! Chỉ toàn là tôn kính, khép nép như bị ràng buộc! Phải chăng đó là tất cả những lời mà nàng có thể ban tặng cho ta?..."

Trãi chiêm ngưỡng khuôn mặt đẹp xinh đang mời gọi, đôi tròng mắt đen thẫm dưới bờ mi vuốt dài, đôi má hồng biết bao tươi thắm! Chàng thèm muốn đưa tay ôm khuôn mặt ấy, phà hơi mơn trớn lên đó, thế nhưng cử điệu chàng khựng lại giữa chừng không khác gì một anh chàng khát nước đang cúi mình trên tách nước định uống mà vẫn chưa uống được. Khuôn mặt gần gũi này vẫn còn mang dáng dấp trẻ con. Làm thế nào trong độ thanh xuân rạng rỡ của mình, nàng lại có thể yêu được một nho sĩ tuổi đã xế chiều như chàng - có chăng thì cũng là niềm kính trọng học trò dành cho thầy! Giống như một tay nhà giàu sợ người ta yêu mình vì của cải, Nguyễn Trãi cũng sợ rằng sở dĩ chàng được yêu là cũng chỉ vì sự nghiệp của mình. Quả chàng đã đòi hỏi Thị Lộ nhiều quá, và tình yêu này lại đến trong muộn màng! Nỗi đam mê từng khiến Trãi sung sướng như đem lại ánh rực rỡ huy hoàng chính ngọ, từng tái tạo, an ủi gây niềm cảm hứng cho Trãi trong cuộc sống ẩn cư miễn cưỡng này thì hôm nay đây, qua sự day dứt của cơn bấn loạn trong người, Trãi chợt khám phá ra tính cách mong manh của nó. Một sự thôi thúc mãnh liệt đẩy ông về phía Thị Lộ, nhưng Trãi dừng lại, rồi đưa chân rời bước.

Người thiếu phụ lại mở to đôi mắt nhìn theo bóng tình quân đang khuất dạng, lòng ngập tràn bối rối. Chà! Yêu một con người như thế quả thật không dễ! Nàng thả bộ vài bước dưới hàng thông. Mỗi thời khắc trong cái ngày khác thường này dường như phản ánh những diễn biến đổi thay trên nét mặt Nguyễn Trãi: từ nỗi căm giận, thất vọng, buồn bã và cuối cùng là một nỗi đớn đau mặn nồng. Ý thức rằng mình không hoàn toàn hiểu được Nguyễn Trãi khiến Thị Lộ cảm thấy u sầu. Nàng có nên chỉ tin vào cái trực giác cho nàng thấy rằng chính sự thất vọng mênh mang đã khiến vị nho sĩ khăng khăng chối từ không chịu thi hành lệnh đức vua? Rằng chính lòng kiêu ngạo bị thương tổn đã xúi Trãi muốn trả nàng về lại Thăng Long? Hay phải chăng Trãi không cảm thấy được nàng yêu trọn vẹn đến nỗi trong giây lát sinh ra nghĩ vơ nghĩ vẩn rằng nàng có thể bỏ rơi chàng một mình ở lại chốn này? Từ dưới nhà vọng lên tiếng tru tréo của Nụ Nhài đang mắng chó chửi mèo cho hả giận. Chiều dần buông. Để tiết kiệm, người ta chỉ đốt mỗi ngọn đèn trong căn phòng của Nguyễn Trãi. Chắc hẳn, Trãi từng nói chàng đã đổi sự giàu sang lấy lý tưởng thanh bần, tuy nhiên dù sao cuộc sống gia đình chật hẹp và nhỏ nhoi này vẫn không xứng với chàng, với tâm trí rộng lớn, với tài năng sáng chói bao la của một người như chàng.

Vầng trăng còn le lói tỏa sáng giữa các tàn cây. Giọng nói chát chúa của Nụ Nhài vang tận góc cuối vườn phá tan sự điềm lệ của buổi hoàng hôn. Thị Lộ chợt nhớ lại những lời tiết lộ của viên sứ giả. Nàng thở dài. Nếu như thiên Ký sự về Lam Sơn quả thực là cái chiêu bài của vị Hoàng đế đã gần ngày băng hà thì sao? Vị Vua của triều đại Thuận Thiên chẳng bao lâu sẽ khuất đi... Nếu không muốn viết thiên Ký sự ấy nhân danh đức Lê Thái Tổ thì vị nho sĩ vẫn phải làm điều đó nhân danh quần chúng. Nàng bước xuống lối mòn.

Lo lắng về sự vắng mặt của Thị Lộ, Ba vội đi đến gặp nàng. Thị Lộ ra vẻ khó chịu nói:

- Này anh Ba! Anh mỏng môi như vậy, thật chẳng đáng khen tí nào cả!

- Ủa! Tôi có nói gì đâu nào? - Ba quả tình bỡ ngỡ trả lời.

—★—

Nụ Nhài vừa núp sau các tàn cây rình rập Thị Lộ, vừa lầm bầm trong miệng: "Con mụ lăng loàn ấy còn làm gì ở cạnh ngôi miếu thần Rắn nhỉ?".

Cơn ghen sục sôi do viên sứ giả triều đình đánh thức dậy vẫn chưa nguôi ngoai trong lòng cô nàng, dù đã ba tuần trôi qua. Nhìn thấy Nguyễn Trãi trước đó chuyện trò với Thị Lộ trong túp chòi rồi sau đó lại tiếp tục trong ngôi miếu thần Rắn với nét mặt thật nồng nàn, Nụ Nhài càng căm ghét người tỳ thiếp ấy gấp bội. Hễ nghĩ đến nó là lòng cô ả héo úa như lá bí khô. Sứ điệp từ Thăng Long chứa đựng điều gì? Viên sứ giả mang về câu trả lời ra sao? Chẳng một ai ngoài Thị Lộ biết được điều ấy! Ngày hôm nay đây, Nụ Nhài chỉ còn là một cô bé lọ lem trong xó bếp, bị đẩy ra rìa rồi. Trong khi đó, ngày xưa, Nguyễn Trãi thường hạ cố tâm sự với nàng, yêu cầu cô nàng giúp đỡ. Ngày trước, Nguyễn Trãi đã từng dành cho cô nàng, cho mỗi mình cô nàng, ánh nhìn trìu mến trên chăn trên gối. Còn bây giờ thì "con đĩ" Thị Lộ được vui hưởng hồng ân của ông chủ, cả ngày lẫn đêm (mà nó có làm cho ngài được sung sướng không?), rồi thêm vào đó, nó lại còn tự gán cho mình cái vai trò kế tục bà chủ đã quá cố mang lễ vật đến ngôi miếu của gia đình. Thật là một việc húy phạm. Chà, cô nàng không ao ước Thị Lộ chết đi, vì như thế thì sẽ chẳng còn gì có thể an ủi ông chủ được, cô nàng chỉ ao ước "con đĩ" ấy phải bị cơn bệnh khủng khiếp gặm nhấm cái gương mặt tươi mát, trẻ trung của nó, biến chiếc mũi thanh tú thành một lỗ hổng đen ngòm há hốc, biến bộ ngực thanh bai thành hai hố sâu nhung nhúc máu mủ, biến cái bụng son sẻ ấy thành nơi cống rãnh nhớp nhúa, phủ lên toàn thân "con ấy" những mụn nhọt xám xanh, những lỗ xì hôi hám, nói tóm lại, tai họa ấy sẽ biến nỗi đam mê của vị nho sĩ thành niềm thương hại nhưng đầy ghê tởm. Và bấy giờ, sẽ vĩnh viễn chấm dứt những trong nỉ non nồng nàn đắm đuối giữa canh khuya, con tỳ thiếp ấy sẽ mãi mãi rời xa căn nhà và khập khiễng bước đi trên đôi chân tật nguyền, gương mặt rỗ chằng rỗ chịt được phủ che bằng chiếc nón lá. Rung động vì niềm phấn khích phải báo được thù, Nụ Nhài không bỏ sót một cử chỉ nào của Thị Lộ.

Phía đằng kia, chẳng hề hay biết mình đang bị quan sát. Thị Lộ trầm tĩnh ung dung xếp đặt lên bàn thờ những trái Phật thủ. Mỗi cử điệu của nàng đều đầy vẻ tự nhiên và thanh lịch. Ngọn gió tháng năm thỉnh thoảng quất mạnh vào tà áo lụa, để rõ nét tấm thân mảnh dẻ mà vị nho sĩ từng đắm say thích thú, từng mơn nhẹ vuốt ve ve vuốt để khám phá những đường cong, nếp gấp kín ẩn.

Từ chỗ ẩn nấp, Nụ Nhài giương cặp mắt sắc nhọn thăm dò xoi mói. Phải là một cơn bệnh kéo dài rất lâu mới có thể làm cho cái bông hoa rực rỡ ấy héo tàn được. Chà! Nụ Nhài sẵn sàng chết ngay lập tức nếu như đất dưới chân con tỳ thiếp ấy cũng nẻ ra nuốt chửng nó đi! Từ trong nỗi ước mong quằn quại ấy, Nụ Nhài bỗng dưng cảm thấy một cơn đau kỳ lạ quặn lên nơi bụng mình, tựa như ai đó đang xoắn vặn phủ tạng cô nàng để vắt ra giọt máu cuối cùng, giọt máu đen ngòm của lòng căm hận.

Bỗng dưng cô nàng nín thở. Hình như có vật gì đó di động trong đống đá ngay dưới chân ngôi miếu. Thực ra bình thường Nụ Nhài cũng rất ngại đến chốn đáng sợ này. Cô nàng nhau cặp mắt nhìn chằm chằm vào đống đá phía trước đó là nàng thiếp Thị Lộ đang đứng. Ủa! Kìa, hình như những viên đá va vào nhau chầm chậm và lặng lẽ quay từng vòng theo một quỹ đạo nhịp nhàng. Chúng động đậy mà xem ra như không động đậy. Nụ Nhài giương cặp mắt lồi ra cố nhìn.

Trên thực tế, các viên đá vẫn nằm im bất động. Còn cái vật đang chảy đó như kiểu một ngọn nước trắng bạc phếch, y hệt những cuộn tròn lớn cỡ bắp tay đàn ông đang trườn tới, đích thực là... Nụ Nhài cố hết sức giữ lại tiếng kêu. Một con rắn đang lắc lư trườn mình qua các viên đá như để quét sạch bụi bặm rồi tiếp tục bò tới hướng Thị Lộ trong lúc cô nàng đang đốt nhang. Tiếng kêu tắc nghẽn trong cổ họng Nụ Nhài nở giãn ra thành tiếng gù gù vui sướng. Hiện giờ con vật bò sát đang khoanh mình lại cách người thiếu phụ chưa đầy một thước và chìa đầu chứa nọc độc về phía cô ta. Chà! Con tiện tỳ có nghe tiếng con rắn rít gió không nhỉ? Chẳng có gì có thể cứu được nó. Đúng là đấng Hoàng Thiên bị xúc phạm đã trừng phạt nó ngay trong lúc nó đang dâng lễ tế! Hồi kết cuộc đang đến gần. Nụ Nhài vạch rộng tán lá ra nhìn.

Đằng kia Thị Lộ vẫn lặng lẽ cắm vào chiếc lư dâng hương những nén nhang cháy đỏ. Nàng chẳng hề cảm thấy cái chết đang kề cạnh dưới chân: Con rắn khổng lồ màu xám điểm đốm bạc đang lừ đừ trườn chầm chậm đến tận cạnh nàng, đoạn bò lên đầu gối thắt lưng và ngực nàng. Ngay lúc con rắn giương móc độc hướng tới khuôn mặt Thị Lộ thì tự dưng, Nụ Nhài nhắm nghiền đôi mắt...

Khi mở mắt ra, Nụ Nhài vô cùng sửng sốt: Kìa! Thị Lộ đang trên đường về lại nhà, hai tay đùa giỡn với các sợi dải thắt lưng. Thế còn con rắn? Nó biến mất rồi chăng? Có lẽ nào như vậy? Cô nàng có nằm mơ không? Thực sự cô nàng đã trông thấy hay đã tưởng tượng thấy? Như kẻ thất thần, Nụ Nhài véo mạnh vào lỗ mũi mình trước khi bật lên tiếng khóc nức nở.

Về đêm, vì thần kinh quá căng thẳng âu lo, hồn xiêu phách lạc, Nụ Nhài phải đi nghỉ sớm. Trong giấc ngủ, cô nàng mơ thấy cha mẹ mình qua đời đã khá lâu rồi hiện về vặn vẹo đôi tay gầy guộc, khóc than vì thân phận lang thang đói khổ, không người hương khói. Cô nàng bừng tỉnh giấc, mồ hôi lạnh đẫm cả người. Những ngày kế tiếp, Nụ Nhài lên cơn sốt dai dẳng và không còn đảm nhận được phận vụ bình thường nữa. Chỉ nghe thấy tiếng Thị Lộ là cô nàng run sợ, Thị Lộ đến gần là cô nàng liền bỏ chạy. Dù miệng cô nàng luận tự trấn an "Bụng dạ ta ở đây mà!" thì cũng chẳng ích gì vì dường như căn nhà này và những người thân cận đã ruồng bỏ cô nàng. Khắp mọi nơi, những linh cảm kinh hoàng bủa vây cô nàng. Đi đến đâu, cô nàng cũng nhìn thấy có những bóng đen quái dị rượt theo, ý chí rã rời của cô nàng làm sao đương cự nổi chúng. Thế là một buổi sáng nọ, với hy vọng tìm lại an bình bằng cách quy phục trọn vẹn, Nụ Nhài đã xin phép rút lui về sống ở ngôi chùa gần làng Vọng (gần Thăng Long, nổi tiếng về bánh cốm), là nơi chôn nhau cắt rốn của cô nàng. Biết được những nỗi giày vò trong tâm