Chương 9 TRONG BỤNG CÁ VOI
Vài phút sau, Eckener buông tay ra mỉm cười. Ông hơi xoay người, móc ngón tay cái vào túi áo gi lê.
- Bác vẫn nhớ khi cháu đến lần đầu tiên, Vango ạ. Lúc đó cháu cũng không khá hơn hôm nay đâu. Cháu từ đâu đến vậy?
Ông chăm chú nhìn anh bạn trẻ. Vango có vẻ kiệt sức. Cậu vừa hành trình qua Pháp, Thụy Sĩ và Đức để chạy trốn cảnh sát đang săn lùng cậu.
- Lại là cháu. Đúng là từ trên trời rơi xuống. Lần gần nhất, cách đây ít nhất cũng phải năm năm rồi nhỉ? Eckener tiếp tục. Và cháu ở lại cả năm với chúng ta còn gì.
Eckener nhắm mắt lại để hồi tưởng dễ hơn.
- Năm đen tối, 1929, đại khủng hoảng… Thế giới sụp đổ. Tại sao đối với bác, năm đó lại trở thành một năm không thể quên được? Bác rất quý cháu, Piccolo ạ. Bác rất khoái nhắc đi nhắc lại với cháu rằng bác không cần cháu trên khí cầu này… Nhưng chính vì ông bạn già Zefiro đã gửi cháu đến…
Cả hai cùng cười.
- Một năm trên khí cầu cùng bọn ta. Một năm kỳ lạ và tuyệt vời. Rồi cháu ra đi, đột ngột, không nói năng gì.
- Cháu xin lỗi, chỉ huy, Vango nói.
- Càng nói không cần cháu… bác càng ngạc nhiên sao mình lại nhớ cháu đến thế.
- Cháu…
- Đừng nói gì, Piccolo.
Vango vẫn giữ trong lòng từng giây phút của cái năm đầu tiên sống xa đảo.
Vừa tròn mười bốn tuổi, bị linh mục Zefiro ném ra ngoài, Vango quay trở lại ngôi nhà nhỏ ở Pollara. Cân nhắc từng từ, cậu giải thích với Cô rằng cậu phải ra đi một năm và sẽ trở về.
Cô ôm lấy vai cậu. Cô muốn nói “ừ”, “rất tốt”, “đó là cuộc phiêu lưu thú vị đấy” nhưng rồi vẫn không thốt lên từ nào.
Lúc xuống cảng Naples, mấy ngày sau, cậu chỉ có một chiếc túi thủy thủ trên vai và trong túi áo, có một chiếc phong bì niêm phong, trên đó có tên giáo sư Hugo Eckener ở Friedrichshafen. Địa chỉ được linh mục viết tay.
Ngày hôm đó, trái tim Vango tan nát, cậu rời xa nơi mình ở, trong cái bao la bát ngát của biển cả, cái bao la bát ngát từ nay chia cắt cậu với Cô, với hòn đảo và những người bạn vô hình của cậu. Dường như đối với cậu, đó là nỗi khổ tâm không vượt qua nổi.
Cậu cứ đinh ninh mình không thể sống xa thế giới nhỏ bé ấy, cái thế giới sẽ vận động mà không có cậu.
Trên sân ga lớn, Vango mơ được trở lại sau vài ngày nữa, mơ lại được đứng trên vách đá, ngửa cổ ra như loài chim lặn ngoi lên mặt nước sau khi suýt bị ngạt thở.
Cậu cảm nhận được sức mạnh của làn hơi đầu tiên ấy, nó làm căng hai lá phổi, đôi cánh sải rộng. Cậu tin một khi được trở lại hòn đảo của mình, cậu sẽ ở đó trọn cuộc đời.
Vậy mà trên chuyến tàu rời Naples đi về phía Bắc, nhoài người qua cửa sổ, cậu trông thấy những gương mặt, những chiếc khăn mùi soa vẫy vẫy trong làn khói, những lời tiễn biệt đầy xúc động, những đứa trẻ chạy theo tàu hỏa.
Cậu nhìn đám đông, tất cả những câu chuyện ấy diễn ra trên sân ga.
Và rồi, cậu cảm thấy một ô cửa sổ nho nhỏ đang mở ra trong cậu.
Những con người. Cậu đang khám phá những con người.
Cậu có biết con người, cậu biết một số người, nơi cậu ở. Cô và một số người khác cậu có thể kể tên. Bác sĩ Basilio, Mazzetta, cha Zefiro hay Pippo. Nhưng con người, đó lại là chuyện khác. Những người cậu không quen biết. Những cuộc đời ấy lướt qua chúng ta rất nhanh, giống như những cột điện báo lướt qua cửa kính tàu hỏa vậy.
Bên cạnh cậu, trong khoang tàu, có người phụ nữ trẻ với chú chó nhỏ xíu.
Khi nhà ga khuất dạng trong làn hơi nước và khi cậu quay lại ngồi xuống, người phụ nữ hỏi:
- Cậu có thể trông hộ tôi con chó được không, một lát thôi?
Vango đỡ lấy con chó đang nằm trong đôi bàn tay rộng mở của người phụ nữ. Chị ấy bước đi. Thoáng chốc, cậu hiểu những gì linh mục nói với mình. Trước tiên, phải nhìn thấy thế giới đã. Cậu cảm thấy chính sự chóng vánh làm nên sức mạnh của cuộc gặp gỡ. Những mảnh đời gần gũi nhau hơn khi chúng cọ sát nhau, bởi lẽ chúng có động lực để đi tiếp.
Khi trở lại, từ người phụ nữ toát ra mùi hương hoa.
- Cảm ơn, chị ta vừa nói vừa ôm lại con chó của mình. Cậu thật tốt bụng.
Chỉ thế thôi. Người phụ nữ xuống ở ga kế tiếp.
Những con người.
Vango tiếp tục hành trình ngày đêm đến Rome, Venise và Munich, cậu chỉ rời tàu khi nhảy sang tàu khác. Rồi cậu đi ô tô ray đến hồ Constance.
Năm năm sau, Vango vẫn chưa lúc nào trở lại đảo.
- Cháu thật sự rất thích khí cầu của bác, Vango thì thầm.
Hugo Eckener đi về phía cửa sổ cabin và ngồi xuống ghế.
- Khi nhận được thư của cháu, cách đây một tháng, ông già nói, cùng với bức tranh nhà thờ Đức Bà Paris và một mốc thời gian trong tháng Tư, bức thư đó báo cho bác biết cháu sẽ trở thành linh mục, bác thậm chí chẳng thấy ngạc nhiên. Đã từ lâu bác biết cháu đang tìm kiếm cái gì đó.
Còn Vango, từ lâu rồi, lại cảm giác có cái gì đó đang tìm kiếm mình.
Họ im lặng một lúc. Eckener hỏi:
- Nói cho bác nghe bây giờ bác có thể làm gì để giúp cháu.
Vango nghĩ đến đám đông trước nhà thờ, tiếng quát tháo của cảnh sát, cái xác của cha Jean trên giường, cuộc trốn chạy tới Đức, tới chiếc khí cầu. Mọi thứ mới vừa diễn ra trong có vài giờ, vài ngày.
Cậu không kể gì về những chuyện đó mà nói:
- Bác giữ cháu lại đây nhé. Cháu không cần gì khác đâu. Cháu sẽ bay cùng bác vài tháng. Cháu sẽ làm việc. Cháu chỉ cần chút thời gian để suy nghĩ thôi. Bác làm việc đó cho cháu nhé.
Eckener thõng người xuống ghế hơn một chút.
- À… ra thế…
Ánh mắt của ông lộ vẻ bối rối.
- Bác không làm việc đó để giúp cháu đâu, Vango. Mà bác làm cho bác…
Ông dừng lại, lấy tay phủi lớp bụi vô hình trên mặt bàn.
- Tuy nhiên, khí cầu không còn giống trước kia nữa… Bác không được chọn nhân viên nữa. Tất cả đều được kiểm soát trước mỗi chuyến bay. Phi hành đoàn là người Đức. Chỉ toàn người Đức thôi.
Những từ cuối khiến chỉ huy Eckener đau lòng. Khí cầu của ông là một phần nước Đức. Luật của chế độ quốc xã mới áp dụng cả trên khí cầu. Mất hàng tháng trời đàm phán, ông mới được phép tuyển dụng Dick, một anh chàng người Mỹ đến từ Akron bang Ohio, vậy mà chính quyền vẫn theo dõi anh ta như thể gián điệp.
Không thể mở cánh cửa chật hẹp của Khí cầu Graf cho bất kỳ người nước ngoài nào khác.
- Cháu có giấy tờ tùy thân của Ý không? Eckener hỏi.
- Pháp ạ, Vango nói. Cháu mới có được vài ngày.
Eckener nhăn mặt.
- Bác thích giấy tờ của Ý hơn. Thế sẽ dễ dàng hơn.
Mussolini, ông chủ nước Ý, đã bắt tay với Hitler.
- Cháu chưa bao giờ có giấy tờ của Ý, Vango nói.
Một nụ cười buồn thoáng qua trên gương mặt chỉ huy. Ông nhớ lại câu chuyện của Vango, nạn nhân đắm tàu tí hon, không quá khứ và không gốc gác.
- Bác quên béng câu chuyện về cậu bé Jonas được cá voi nhả ra bên bờ biển Sicile của cháu…
Trước kia, ông đặt tên cậu như vậy khi nhớ tới một chương Kinh thánh, trong đó một nhà tiên tri tí hon đã bị rơi vào bụng cá voi trước khi bị nhả ra ngoài.
Eckener đã từng chu du rất nhiều bằng thuyền buồm trước khi sinh lòng yêu mến với khinh khí cầu. Ông biết biệt danh Jonas được gán cho những thủy thủ mang lại những điều không may mắn cho tàu…Coi thường mọi sự mê tín dị đoan, Eckener đã chọn biệt danh này.
Đột nhiên, một ý nghĩ làm tiêu tan nụ cười của chỉ huy.
- Thật ra bác… Thật ra bác rất muốn giúp cháu.
Ông bỗng dưng đứng bật dậy, ái ngại vì lời thú nhận này.
- Thế đấy. Như vậy nhé. Vĩnh biệt.
Vango lắc đầu, không tin. Cậu không nhận ra ông chủ của mình nữa.
- Cháu hiểu, Doktor Eckener. Cháu sẽ đi vào sáng mai. Cháu xin lỗi vì đã làm phiền bác. Cháu chỉ xin ngủ lại đây thêm một chút nữa thôi ạ, nếu bác…
- Không.
Câu trả lời thật cương quyết.
- Không, Vango, cháu không thể ngủ lại đây. Phi hành đoàn sẽ đến trong vài tiếng nữa. Chúng ta sẽ khởi hành đi Nam Mỹ lúc bình minh. Cháu phải rời khỏi đây bây giờ.
Vango nhìn Hugo Eckener. Chỉ huy khí cầu thậm chí không dám nhìn vào mắt cậu.
- Ngay bây giờ! Eckener nhắc lại.
- Cháu hiểu, vâng, cháu hiểu. Ngay lập tức… Cháu đi đây.
Cậu bước một bước về phía lối ra.
- Cháu không có hành lý à?
- Không ạ.
Cậu kiệt sức mất rồi. Cậu đẩy cửa cabin, lưng dựa thành cầu thang lần đến hết đường đi.
- Vĩnh biệt, Jonas, Eckener nói với theo.
- Vĩnh biệt, Vango vừa mấp máy môi trả lời vừa chậm chạp lê qua phòng ăn lặng như tờ.
Chính ở đó, trên tấm thảm đỏ ấy, cậu đã làm phục vụ suốt một năm trời, năm 1929.
Thẳng trên các kim tự tháp, bên trên sa mạc Mauritanie và rừng rậm Braxin, trong khói tỏa New York, qua xích đạo hay qua dãy núi Oural, cậu đã phục vụ những bữa ăn tuyệt hảo. Và hành khách thỉnh thoảng lại nhỏm dậy, khăn ăn trên tay, mỗi khi có đàn tuần lộc chạy ngay phía dưới họ, trên thảo nguyên Siberie, hay khi có đàn ngỗng trời cất cánh đuổi theo con chim ánh bạc kỳ quặc ấy.
Vango biết rằng năm 1929, năm cậu mười bốn tuổi, vẫn chưa hé lộ tất cả bí ẩn về cậu. Ở đó, dưới bóng quả khí cầu, giấu một trong những chìa khóa mở ra biến cố lớn trong đời cậu.
Và giờ đây, cậu đã chọn đến chính nơi đó đầu tiên, khi rời Paris và thi thể cha Jean bị sát hại.
Cậu đi xuống lối dẫn vào khí cầu Graf. Đám người vẫn gác cổng vào nhà kho, ở đằng kia. Họ không trông thấy cậu. Vango biết cách tránh họ. Cậu đi về phía xưởng.
Hugo Eckener ngồi vào bàn lái, ông đặt hai nắm tay siết chặt lên tấm màn bằng da. Nỗi tức giận làm ông run lên. Ông vừa từ chối giúp đỡ chàng trai hai mươi tuổi được ông yêu quý như con trai mình.
Ông vừa bị khuất phục trước nỗi sợ hãi.
Rudolf Diels, ông chủ đẹp trai và trẻ trung của Gestapo [2] , đã tiếp ăn trưa Hugo Eckener vào tháng Sáu trước. Cuộc đối thoại thoạt tiên không có gì lý thú.
- Tôi rất ngưỡng mộ ông, Doktor Eckener.
Eckener im lặng húp thìa xúp. Ông tự hỏi không biết người đàn ông có vết sẹo dài trên má và mái tóc chải ốp chỉn chu ra sau thế kia muốn gì ở ông. Lúc tráng miệng, lấy ngón tay phủi vụn bánh mì ra khỏi khăn trải bàn, tay sếp của sở mật thám đặt trước mặt chỉ huy một tập hồ sơ dày cộp. Cái họ Eckener được viết hoa trên bìa ngoài.
Sau khi lướt qua mấy trăm trang giấy đó, chỉ huy Eckener nói:
- Nhưng này anh bạn, anh đối với tôi còn hơn cả ngưỡng mộ đấy chứ: đó là tình yêu!
Tập hồ sơ thật kinh khủng. Họ biết tất cả. Cảnh sát biết tất cả những gì liên quan đến Hugo Eckener và công ty Zeppelin. Bất kỳ sự di chuyển nào, bất kỳ cuộc gặp gỡ, tiếp xúc nào, bất kỳ cú điện thoại nào đều được ghi trong tập hồ sơ này. Đây là công cụ gây sức ép đáng sợ.
Sau bữa ăn đó, ngày hôm sau, chỉ huy đã phải sơn lại dấu thập ngoặc trên khí cầu.
Hành động đe dọa không dừng lại ở đó.
Hai tháng sau, một ngày nắng to, Eckener bị quốc trưởng Hitler triệu tập đến nhà hắn tại Berchtesgaden giữa vùng đồi núi.
Những đêm tiếp theo, ông bị bóng đè, ông mơ thấy người đàn ông nhỏ thó đó ngồi sau bàn làm việc, mũi bàn chân gãi gãi một con chó đen, trong căn nhà nghỉ dưỡng nhỏ bé đầy hoa vươn ra thung lũng. Lần đầu tiên trong đời, được Göring, bộ trưởng Bộ không quân, người căm thù Eckener chẳng kém nỗi căm thù đối với khí cầu của ông, tiễn ra tận cửa, chỉ huy cảm thấy hai tay mình run lên.
Và, kể từ ngày hôm đó, đằng sau cái vẻ khiêu khích và tính cách ngỗ ngược của mình, Hugo Eckener giấu trong nếp nhăn sau gáy một con vật tí hon bám chặt vào da thịt ông: nỗi sợ hãi.
Cái gì đó trong ông đang bị khuất phục. Một chút kiêu hãnh đã tan biến.
Hugo Eckener bật dậy.
Ông biết nó chứ, cái con vật đặt không đúng chỗ ấy, chỉ cần ông ngẩng cao đầu là nghiền nát được nó.
Một lúc sau, khi đang bước trên thảm cỏ của bãi đất rộng đặt khí cầu, Vango nghe thấy tiếng gọi đằng sau:
Cậu quay lại.
Hugo Eckener tiến lại gần. Ông mệt bở hơi tai.
- Bác nhớ có lần, một tên đi lậu đã trốn vào bên trong khí cầu. Trong những chuyến bay, đôi khi chuyện đó cũng xảy ra. Một khi quả bóng đã bay rồi, người ta không thể làm gì đối với kẻ lẩn trốn. Người ta sẽ không ném hắn ra ngoài được…
Vango chờ ông nói tiếp.
- Thế thôi, Eckener hổn hển nói. Bác muốn nói với cháu thế đó. Bây giờ, bác sẽ về nhà ngủ một chút. Bác gái đang đợi bác.
Eckener cài lại cổ áo măng tô và quay lưng về phía Vango. Cậu đứng im. Sau vài bước chân, Eckener quay lại.
- Thêm một câu nữa này, Jonas: tối nay bác không gặp cháu. Năm năm rồi, bác không gặp cháu. Bác hầu như không nhớ gì về cháu đâu nhé. Nhất trí thế nhé?
Vango đồng ý.
Eckener đi xa dần trong bóng tối. Ông vươn thẳng người. Ánh sáng lờ mờ hắt ra từ nhà kho hòa lẫn với mái tóc bạc trắng của ông.
Ba giờ sáng, đêm hãy còn đen, tổ ong Zeppelin bắt đầu nhộn nhịp.
Đội kỹ thuật mặt đất đi đi lại lại thu lượm. Phi hành đoàn dần dần xuất hiện. Phi công, sĩ quan, thợ máy, tất cả đều nai nịt gọn gàng trong những chiếc áo khoác da màu đen, tập trung vào nhiệm vụ đang đợi họ.
Mặc dù những chuyến bay thế này diễn ra đều đặn từ nhiều năm nay, nhưng không ai trong số họ quen với kiểu phiêu lưu này: họ vẫn cảm tưởng như đó là cuộc phiêu lưu siêu thực. Họ chuẩn bị cho nó như cho một cuộc hẹn hò. Người họ thơm mùi nước hoa Cologne và xà phòng. Tóc họ chải trơn mượt dưới lớp mũ cát két, còn giày thì bóng loáng.
Người ta phục vụ cà phê ở khu riêng biệt, tại một trong các xưởng sửa chữa, để tránh bật bếp gần khí dễ cháy vốn dùng để thổi khí cầu. Và thậm chí để uống cà phê, phi hành đoàn cũng phải trở lại dưới nhà kho, chiếc cốc không chân bốc khói nghi ngút trên tay, đắm đuối ngắm nhìn gã khổng lồ đang còn ngủ, gã khổng lồ mà họ có nhiệm vụ phải đánh thức. Họ mỉm cười chiêm ngưỡng nó, xúc động được là một trong những thành viên của đoàn người ít ỏi mà trong vòng chưa đầy một thập kỷ, được tham gia thực hiện một nhiệm vụ bất khả thi: một con tàu không trung, trong ba ngày hai đêm, đi từ châu Âu đến Braxin hay bất kỳ điểm đến nào, với vẻ sang trọng nhưng giản dị.
Đêm hôm ấy, một người đàn ông to béo không cùng chia sẻ niềm vui đó.
Anh ta tên là Otto Manz. Đó là đầu bếp của khinh khí cầu.
Anh ta ngồi trên bậc đầu tiên của cầu thang gỗ dẫn lên khí cầu. Một đội quân bốc vác, đứng trước mặt anh ta với nào là sọt, nào là túi, chờ mệnh lệnh.
- Các anh có thể cứ chờ đấy! Khí cầu Graf không còn đầu bếp nữa đâu.
- Không còn đầu bếp ư? một trong số họ nhắc lại, anh ta đang khuân ba sọt cà rốt và cải bắp nặng trịch.
- Tôi từ chức rồi.
Otto Manz xin từ chức trước mỗi chuyến bay, rồi một tiếng sau, anh ta đã lại làm bánh ngọt phía trên những ngọn núi cho bữa sáng của hành khách. Nhưng sáng hôm nay, tình hình đáng báo động hơn.
- Tôi sẽ không bay nếu không có phụ bếp của mình.
Phụ bếp của anh ta tên là Ernst Fischbach. Cậu ta vừa được bổ nhiệm vào vị trí lái trên khí cầu. Đó là giấc mơ của cậu ta từ bấy lâu nay, từ khi được tuyển làm thành viên phi hành đoàn năm mười bốn tuổi.
Vì thế Otto không có phụ bếp.
- Sếp ơi, chúng ta làm gì với đống rau cỏ đây?
- Tôi không là sếp của ai cả. Các anh đến mà gặp đội trưởng Lehmann.
Họ đi tìm đội trưởng, ông đang cho xếp thực phẩm vào tủ lương thực và tủ ướp lạnh đặt dưới sống quả bóng. Lehmann là một trong những nhân viên xuất sắc nhất của Eckener. Trong những chuyến đi, ông không bao giờ rời chiếc phong cầm của mình.
Lehmann ngoại giao giỏi như lái tàu. Ông lại bên Otto. Ông im lặng ngồi đó mặc cho nhà kho đang rất nhộn nhịp.
- Cô ấy sẽ thất vọng đấy, đội trưởng thở dài.
- Sao cơ?
Otto quay sang ông.
- Tôi nghĩ cô ấy sẽ thất vọng đấy, Lehmann nói.
- Ai cơ?
Đội trưởng bỏ mũ ra.
- Cô ấy thích món củ cải bao tử dầm kem của anh.
- Mẹ kiếp, nhưng mà ông đang nói về ai mới được chứ?
- Anh không biết sao?
- Biết gì, đội trưởng?
- Lady Drummond Hay đã đến khách sạn Kurgarten tối qua.
Anh chàng đầu bếp bật dậy và ưỡn ngực, anh ta phủi phủi nếp nhăn trên chiếc tạp dề.
- Lady ư?
- Cô ấy có trong danh sách hành khách.
- Lady!
Otto gọi người ấy là Lady, như thể đó là tên cô ta vậy.
- Lady…
Đó là một nữ quý tộc người Anh, nhà báo nổi tiếng, đặc phái viên của những tờ báo lớn nhất nước Mỹ, góa phụ ba mươi mốt tuổi, một người phụ nữ thích phiêu lưu mạo hiểm với áo khoác lông thú và đôi mắt nhung. Cô đã từng tham gia vài chuyến chu du nổi tiếng của khí cầu.
- Lady, lạy Chúa tôi, Otto lặp lại.
Anh ta điên tình vì cô. Cô đùa giỡn đôi chút với sự si mê đó, vào tận bếp ăn bánh quy. Otto lại nhìn thấy ở cô mọi dấu hiệu của một tình yêu song phương. Anh ta đã lập sẵn kế hoạch.
Anh chàng tội nghiệp không biết gì về cuộc sống bên ngoài khí cầu của người phụ nữ ấy, đến hàng trăm kẻ ngấp nghé cầu hôn cô, đến những người bạn cô ở Hollywood, Buenos Aires, Madrid hay khu Montparnasse ở Paris.
Anh ta chỉ biết rằng có một ngày đã được nắm tay nàng, trên bầu trời Tokyo, để dạy nàng cách đánh nước xốt bơ trứng. Và bàn tay trắng trẻo nhỏ xinh ấy nằm trong tay anh, dùng phới nguấy lên thứ hương vị của ngải thơm và xếp phơi, trở thành kỷ niệm ngọt ngào nhất đời anh.
- Lạy Chúa tôi, Lady! Otto Manz thốt lên lần cuối rồi biến vào khí cầu.
Hugo Eckener đến lúc hơn năm giờ sáng một chút. Viên đội trưởng ra đón ngay khi ông đến nơi.
- Thưa chỉ huy, cần có người thay thế Ernst Fischbach, nhân viên phụ bếp.
- Chúng ta sẽ tìm được thôi.
- Tôi sợ chúng ta không tìm thấy trên những đám mây đâu, thưa chỉ huy.
- Anh có biết gì về việc đó không, đội trưởng?
- Ông có cao kiến gì à?
- Có thể.
Lehmann không nài thêm. Eckener có vẻ chắc chắn.
- Động cơ trước bên phải đã sửa xong rồi, viên đội trưởng tiếp tục.
- Tuyệt. Còn gì nữa không?
- Vâng… Tôi tự cho phép mình làm một số việc rất khẩn cấp ở phần đuôi.
- Tôi tin tưởng ở anh. Thời tiết thì sao?
- Đài điện báo đã nhận được tin thời tiết từ Hambourg. Gió thổi cùng chiều với chúng ta và hành lang Rhône quang đãng.
- Tốt. Đội trưởng, tôi nhờ anh đến đón khách trước nhà kho cùng trưởng lễ tân nhé. Bảo họ thông cảm cho tôi. Nói với họ rằng tôi sẽ gặp họ trên khí cầu.
Lehmann tuân lệnh. Đứng bất động, Eckener quan sát khí cầu khá lâu. Rồi ông đi về phía cầu thang. Ông muốn kiểm tra thứ gì đó bên trong. Thợ máy, nhân viên phi hành đoàn, sĩ quan, tất cả đều ngưng tay và hơi gập người chào khi ông đi qua. Vẻ đãng trí, ông không đáp lại lời chào của họ.
Nhưng khi bước qua cửa khoang lái của khí cầu, Eckener nghe thấy tiếng người gọi mình.
- Thưa chỉ huy!
Đó là Kubis, trưởng lễ tân. Anh ta có vẻ lo lắng.
- Hải quan và cảnh sát đang ở kia, thưa chỉ huy. Lehmann yêu cầu họ chờ bên ngoài.
- Rất tốt. Lát nữa hải quan sẽ kiểm tra hành khách. Còn nếu viên cảnh sát muốn có danh sách phi hành đoàn, chúng ta sẽ cung cấp cho anh ta.
- Không chỉ có một nhân viên cảnh sát đâu ạ, nếu như tôi đếm đúng.
- Hai người à? Eckener hỏi, ông không còn ngạc nhiên trước cảnh thừa thãi cảnh sát nữa rồi.
- Không, thưa chỉ huy, họ có ba mươi lăm người. Tôi cho là có vấn đề gì rồi.