PHẦN HAI - Chương 13 CÔ GÁI VÀ CẢNH SÁT TRƯỞNG
Everland, Scotland, ngày mùng Một tháng Năm năm 1934
Cảnh sát trưởng đến lâu đài vào giữa trưa.
Ông vừa đi mất ba ngày trời. Ông đi hai chặng tàu hỏa, một chặng tàu biển và bị mất vali tại Luân Đôn trên chặng giữa ga Victoria và ga King’s Cross. Thoạt đầu, ông tức điên lên, đứng ngay đó nguyền rủa hết đám người Anh, rồi đến Napoléon can tội thua trận Waterloo.
Những người đi ngang qua nhìn ông giậm chân lên vỉa hè, đỏ gay như một cây nấm độc.
Mặc dù vậy, ông chỉ còn nước bất chấp tất cả nhảy lên Flying Scotsman, con tàu mới nối liền Luân Đôn với Edimbourg trong bảy hoặc tám tiếng gì đó. Trên đó, cảnh sát trưởng chìm trong tiện nghi của ngành đường sắt, ăn uống đến nửa chặng đường, thậm chí ông còn tìm thấy trên tàu dao trổ của thợ cạo để làm mới mình cho cuộc hẹn ngày hôm sau. Lúc đến nơi, ông nán lại đến gần sáng trong một khách sạn chật kín người của khu nhà ga Edimbourg, nơi ông ở cùng phòng với một gã khổng lồ mất ngủ tóc hung. Năm giờ sáng, khi gã hàng xóm thiếp đi, Boulard đã chuồn mất tiêu.
Cuối cùng, chiếc xe ngựa của một người thợ mộc thả ông xuống cuối con đường. Sửng sốt, ông đứng khá lâu nhìn tòa lâu đài.
- Anh có chắc chắn không đấy?
Ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần địa chỉ cho người lái xe đang ra hiệu cho ông là đã đến nơi.
- Everland Manor, người thợ mộc nói.
Boulard cám ơn bằng thứ tiếng Anh đặc sệt. Ông để xe đi.
- Được đấy, cô mèo nhỏ của ta…
Ông đội mũ lên để ép tóc xuống cho mượt mà.
- Được đấy, cô mèo nhỏ của ta, cô không sống trong một cái giỏ…, ông vừa nói vừa nghĩ đến cô gái mảnh khảnh ông được thấy trong chốc lát ở Paris, tầng Lợn-rừng-hút-thuốc.
Ông cứ nghĩ sẽ đến một trang viên nhỏ bé, xinh xắn nằm trên một quả đồi. Vậy mà đó lại là một pháo đài, khiến cả đến Mordachus, vua xứ Scotland cũng phải sợ.
Trong lúc chờ đợi, ông không còn can đảm để bước đến tấn công tòa lâu đài nữa. Ông muốn có một chiếc áo lưới giáp, một cái mũ bảo hộ và hai kỵ sĩ tài ba. Vậy mà ông thậm chí chẳng có lấy một cái quần đùi dự trữ.
Ông nấp sau một gốc cây để chỉnh trang lại quần áo. May thay, ông còn một chiếc ô. Chiếc ô chính là điểm nhấn cho phong cách lịch sự của ông. Ông nghĩ đến bà mẹ già đã sửa soạn va li cho ông ở Paris: “Mẹ để cho con cái áo flanen nhỏ này để con khoác nhẹ vào buổi tối nhé…”
Có lẽ tên trộm ở Luân Đôn, trong bộ cánh dự tiệc đẹp đẽ như một hoàng tử của ông, đang uống mừng cho sức khỏe của ông ấy chứ. Cảnh sát trưởng bực mình nhất vì bị lấy mất cuốn sổ tay được anh chàng phụ tá thân cận Avignon ghi chép suốt quá trình điều tra ít ỏi tại Paris.
- Tiến lên nào, Boulard!
Ông bước về phía tòa lâu đài. Chiếc ô trở thành cái gậy. Cánh cửa hai lớp mở ra khi ông còn cách đó một trăm mét.
Người ta đang đợi chàng hiệp sĩ Boulard.
Một người đàn ông dẫn ông vào và nói bằng thứ tiếng Pháp chuẩn:
- Xin chào mừng, ngài cảnh sát trưởng.
Ông ta giúp Boulard cởi áo măng tô và cầm lấy cái ô.
Bị bất ngờ, Boulard nắm chặt cán ô.
Cái ô. Ông không nên thả nó ra.
Người kia cố gắng kéo cái ô về phía mình, nhưng Boulard bám chặt bằng cả hai tay.
Họ nhìn nhau chăm chăm, cứ từ từ xoay quanh cái ô gấp thẳng đứng trên nền đá. Đúng là cuộc đọ sức kỳ quặc của hai võ sĩ samurai, giữa vị quản gia Scotland và cảnh sát trưởng Pháp.
- Mong ngài cho phép tôi cầm ô giúp ngài, cuối cùng vị quản gia cũng thốt lên.
- Tôi thích giữ nó, Boulard trả lời như thể sợ sẽ có cơn mưa rào trong phòng khách vậy.
Đúng là đối thủ cự phách, quản gia nhượng bộ.
Boulard nhẹ cả người. Cái ô là thứ duy nhất còn lại của ông. Mẹ ông thấy con mình rất đỏm dáng bên chiếc ô. Không có nó, ông sẽ cảm thấy trần trụi chốn thành trì này.
Người ta để vị khách ngồi gần lò sưởi tại cái nơi mà người ta gọi là phòng săn nhỏ. Thế nhưng trên thực tế, có thể đỗ được hai hay ba máy bay của hàng không bưu điện trong căn phòng đó. Người ta mời Boulard một ly rượu. Trong tích tắc, ông đồng ý ngay. Đôi bàn chân cảnh sát trưởng được sưởi ấm gần lửa. Ông kín đáo cởi giày ra để hong khô đầu tất.
Thường thì cảnh sát trưởng ghét phải chờ đợi. Chỉ cần người ta để ông một mình trong một phút thôi là huyết áp ông tăng vọt như trong phòng chờ khám nha khoa chẳng hạn. Nhưng lần này, ông cảm thấy rất thoải mái bên góc lò sưởi, giữa tranh ảnh và những tấm thảm. Ông gần như rên lên.
Ông nhận ra mình chưa bao giờ chờ đợi một cô gái trẻ trong một tòa lâu đài. Đó đúng là cảm giác khá tuyệt vời. Ở tuổi sáu mươi chín, đây là cơ hội lớn để thử làm chàng hoàng tử duyên dáng.
Nhưng Boulard lại bắt đầu lo lắng về thần kinh của mình khi ông nhìn thấy cánh cửa hé mở, để một nàng hươu cái đốm trắng trẻ trung lỉnh vào.
Một nàng hươu, đúng vậy.
Một nàng hươu.
Ông hết nhìn cái ly rồi nhìn con vật, rồi lại cái ly, rồi lại con vật.
- Boulard, chàng trai của ta, ngươi đang mệt đấy, ông nói.
Ông hất rượu trong ly vào lửa, làm ngọn lửa bùng lên và khiến nàng hươu lùi ra.
Một nàng hươu.
Boulard bật dậy.
Con vật tiến lại gần cảnh sát trưởng.
- Xùy, xùy, xùy, ông huơ huơ ngón tay để đuổi nó đi.
Nàng hươu rất thích trò chơi này. Nó hơi nhún nhảy trong phòng và lại tiến đến gần người bạn mới.
- Xùy, xùy, xùy, Boulard lặp lại và nhận ra mình để ô và giày gần ghế bành.
Nàng hươu thích thú. Nó nhún nhảy tại chỗ.
- Xùy, xùy.
Lần này, nó nhảy lên một cái bàn rộng, vòng sát dọc chiếc ghế dài bằng da, rồi lao về phía cảnh sát trưởng.
Khi Ethel bước vào phòng săn nhỏ, cô thấy ngay có cái gì đó không ổn.
Cảnh sát trưởng chân đi tất đang ở trên tủ com mốt, tay cầm cây giá nến. Con hươu cái chớp chớp hàng mi dài đa tình nhìn ông.
- Tôi có thể nhờ cô đưa giúp cái ô được không, cô gái?
Ethel búng ngón tay và con hươu cái, giận dỗi, uể oải đi về phía cửa.
- Tôi xin lỗi nhé. Ông vừa gặp Lilly đấy, Ethel vừa nói vừa đưa chiếc ô và đôi giày cho ông.
Ông vẫn ở trên tủ com mốt để buộc dây giày, liếc mắt xem liệu Ethel đã đóng chặt cửa sau khi Lilly đi ra chưa.
- Nó… Nó sống với cô à?
- Không. Nó từ rừng đến đấy, nhưng nó lỉnh vào nhà khi cửa ra vào hoặc cửa sổ mở.
Cảnh sát trưởng choáng váng. Ở Paris, thậm chí cả chim bồ câu cũng không lại gần cửa sổ nhà ông.
- Tôi đã nuôi Lilly bằng sữa bình trong suốt năm đầu, cô nhẹ nhàng nói. Nó trở nên quá… gắn bó rồi.
Ethel luôn cần một chút thời gian để tìm lại vốn tiếng Pháp của mình.
Quả thực, chưa bao giờ Boulard cho bồ câu uống sữa bình. Vì thế nên có thể chúng không bén mảng đến nhà ông.
Khi Boulard đặt chân xuống nền nhà và khi đã giành lại được cái ô của mình, ông chỉ cần có vài giây để nhập lại vai Auguste Boulard, cảnh sát trưởng Paris đáng sợ, đã từng giải quyết những vụ án lớn nhất từ đầu thế kỷ đến giờ.
- Tôi nghĩ ông không đến đây gặp tôi chỉ vì tình yêu đối với loài vật, Ethel nói.
- Không, đúng vậy, thưa cô. Đúng vậy.
Vừa hết hai ngày, hai ngày sau sự kiện ở nhà thờ Đức Bà, Boulard hiểu ông sẽ không tìm thấy gì liên quan đến anh chàng Vango Romano đó tại Paris. Thực ra, chưa bao giờ ông gặp phải tình huống như vậy: một cậu bé sống bốn năm trong trường dòng, giữa hàng chục con người vẫn luôn đánh giá cao, thậm chí ngưỡng mộ cậu, một cậu bé hòa nhập với một cộng đồng gắn bó, nhưng tuyệt đối không ai có thể nói được gì về cậu ta. Không gì cả.
Có lần, Boulard điều tra về một thảm kịch đường phố và đã có chuyện nhân chứng thậm chí chẳng biết tên họ của mình, kẻ đó trả lời: “Ở đây, người ta gọi tôi là Muỗi, tôi không biết mình tên là gì nữa.”
Nhưng Vango không phải là kẻ cầu bơ cầu bất, cậu ta là tu sĩ tu viện dòng Cácmen từ bốn năm nay!
Boulard đã cố hỏi những người bạn đồng môn của Vango về nơi sinh, tên một thành viên trong gia đình, địa chỉ bố mẹ cậu ta, hay bất kỳ thông tin nào cho biết Vango Romano được sinh ra ở đâu đó trên trái đất. Ông còn tìm hiểu về sở thích, nơi cậu ta hay đi nghỉ, những người đến thăm cậu ta, thư từ cậu ta nhận được…
Không gì cả. Tuyệt đối không có gì.
Không gì cả. Không gì cả. Không gì cả.
- Nhưng rốt cuộc, tất cả các cha đều coi thường tôi, ngài phụ tá giám mục ạ!
Boulard đến phòng người quản lý, linh mục phụ tá Bastide, người vừa trả lời từng ấy câu hỏi, mắt mở to và tay vân vê áo tu.
- Không gì cả, ông nhắc lại để kết thúc, điều này khiến Boulard phát điên.
- Các cha coi thường tôi! Đừng có nói với tôi rằng các cha không biết cả ngày sinh của hắn!
Lần này, gương mặt của Bastide sáng bừng.
- À, có chứ… Ngày sinh của cậu ấy, tôi có thể giúp ông.
Đúng mối bận tâm, trung úy Avignon, đứng sau Boulard, rút sổ ra.
- Khoảng năm 1915, Bastide nói. Hoặc có thể 1916.
Boulard nghiến răng.
- Hoặc 14 thì phải, phụ tá giám mục Bastide ngại ngùng nói thêm.
Augustin Avignon vừa viết ba năm đó vào sổ.
- Chính xác như ngày sinh của Abraham nhỉ, cảnh sát trưởng nói.
- Thực ra, phụ tá giám mục nói, tôi cho rằng Vango khai tăng tuổi một chút để có thể trở thành linh mục sớm hơn. Đó là một cậu bé. Cậu ấy xin được giấy đặc cách ở Rome. Tôi không biết làm sao cậu ấy nhận được giấy phép đó. Cậu ấy nói tiếng Ý, cậu ấy có những mối quan hệ.
Những mối quan hệ! Tất cả vấn đề chỉ nằm ở chỗ Vango chẳng có mối liên hệ nào cả.
Phụ tá giám mục thậm chí còn nói đến một từ về chứng cuồng ám mà Vango đang gặp phải.
- Chứng cuồng ám?
- Đúng, phụ tá giám mục nói. Đó là một cậu bé yếu đuối. Khổ thay, lời tố cáo lại rõ rành rành. Nó được viết trên bàn nạn nhân.
Boulard có đủ vốn từ Latinh trong đầu để biết được “Fugere Vango” có nghĩa là gì, nhưng ông luôn nghi ngờ những điều có vẻ rõ rành rành. Ông thấy rõ Bastide không thích Vango. Ông đổi chủ đề.
- Cha có hồ sơ về việc xin đặc cách không?
- Không có gì, vị phụ tá giám mục lẩm bẩm lần này là lần thứ năm mươi.
Boulard ngồi phịch xuống ghế bành. Ông nhìn Avigon đứng đằng sau.
- Chàng trai, cậu còn gì khác để hỏi vị cha tốt bụng này không?
- Không gì cả, viên trung úy trả lời.
- Tốt! Boulard vừa làu bàu vừa kiểm tra chiếc đồng hồ bỏ túi.
Cảnh sát trưởng đứng dậy và đi về phía cửa. Ông mải miết nghĩ đến một quán rượu nhỏ sau Saint-Sulpice. Quán rượu nhỏ có món má bê ngon quên sầu.
Boulard đang đói.
Khi định đặt tay lên nắm đấm cửa, ông nghe thấy phụ tá giám mục nói:
- Rốt cuộc, chỉ một người có thể giúp được các ông. Người ấy biết tất cả, tôi nghĩ vậy. Ông ấy đứng ra nhận bảo trợ cho cậu ta ngay từ đầu mà.
Avignon lại lôi sổ ra.
- Người đó, Bastide nói, chính người đó đã giới thiệu Vango với tôi. Người đó đã cho cậu ấy vào đây.
- Và đó là?
- Cha Jean. Và Vango đã giết ông ấy tối hôm thứ Sáu vừa rồi.
- Khi nào tìm được nhân chứng sống, cha hãy báo cho tôi nhé.
Boulard đóng sập cửa lại. Vách tường rung lên và làm cho cây thánh giá quay đúng một vòng.
Lúc này, trước mặt Ethel, cảnh sát trưởng giữ một giọng điệu khác.
- Đúng, cuộc điều tra đang tiến triển, điều đó là chắc chắn. Chúng tôi sắp chạm tới bí mật rồi. Gọng kìm đang siết chặt. Vụ việc đang nằm gọn trong túi rồi. Cậu ta sẽ không mang nó lên thiên đường đâu…
Ông xiên vào que những câu vô nghĩa nhất, để có thời gian tìm cách tra hỏi Ethel.
Boulard không bao giờ chuẩn bị câu hỏi thẩm vấn.
Thầy của ông, Jacques Aristophane, người chỉ huy cảnh sát Paris khi Boulard vào ngành năm 1891, luôn nói với ông rằng có sẵn câu hỏi chẳng khác nào trả lời luôn cho xong.
Aristophane giải thích phương pháp của mình bằng cách đưa nhanh các ví dụ, với chất giọng đặc Ménilmontant: “Cậu nghe nhé, Boulard, nếu cậu hỏi người bán sữa là tối qua anh có nhìn thấy con mèo của mẹ Michel không, như vậy là cậu đã thông báo rằng mẹ Michel có một con mèo, rằng con mèo gặp vấn đề gì đó, rằng vấn đề đó xảy ra đêm hôm trước. Nhưng xem nhé, Boulard, nếu cậu chỉ nói ‘Xin chào’…, đó, cậu sẽ có cơ hội nghe được cái gì đó.”
Chàng trai trẻ Boulard lắng nghe một cách kính nể: “Người bán sữa sẽ nói với cậu rằng: ‘anh bạn đáng thương của tôi ơi, ngày hôm đó bắt đầu thật tệ. Người ta hất hết sữa của tôi rồi. Chắc chắn đó là con trai lão hàng xóm, nó chơi bóng trong sân mà.’ Đấy, có khi anh ta sẽ không bao giờ nói điều đó với cậu, thấy không Boulard. Mà anh ta sẽ trả lời: ‘Không, tôi có trông thấy con mèo đâu.’ Thế thôi. Anh ta sẽ không đả động gì đến việc sữa bị đổ, quá sướng khi tố cáo hàng xóm đấy chứ…”
Jacques Aristophane truyền lại tất cả cho Auguste Boulard.
Ông ấy bị chết bởi một phát súng lục năm 1902 khi đang cố gắng ngăn chặn cuộc đọ súng của mấy tay găng tơ cuối phố Planchat, cửa ngõ Paris. Chàng trai trẻ Boulard, cúi xuống bên ông, nghe được những lời cuối cùng: “Viên đạn bắn dưới sườn ta, con nhìn xem, chính là tên thấp bé nhất bắn đấy.”
Thế đấy, ngay cả hơi thở cuối cùng của ông cũng làm nên một cuộc điều tra của cảnh sát.
Boulard nhớ lại tất cả những điều đó, nhưng ông thấy cô bé Ethel này thật ma lanh và không dễ dàng cung cấp thông tin
- Vậy tôi nói rằng chúng tôi đang ở rất gần đích…
Ông dừng lại để nhìn cô gái và nói thêm:
- Dù sao thì, thủ phạm, Vango Romano, cũng đang ngồi tù rồi.
Tự dưng ông nói thế, như thể người ta bỏ nhỏ quả bóng ngay sát lưới trong trò quần vợt. Đó là cú đánh nhử.
Hiệu quả phát huy tức thì. Ethel siết chặt đôi bàn tay và giấu chúng dưới lớp áo đi săn ngắn của mình như thể cô đang bị lạnh. Boulard bắt gặp cử chỉ này, nhưng một người quan sát bình thường thì chỉ nhìn thấy sự thờ ơ bề ngoài của cô gái trẻ mà thôi. Tuy nhiên cô đã đón kịp quả bóng:
- Ngài rất hiệu quả, hoan nghênh đấy, ngài cảnh sát trưởng. Nhưng tôi không hiểu lắm tại sao ngài đến tận đây để báo với tôi điều đó.
- Bởi vì có người nói với tôi rằng cô là người duy nhất có thể cho tôi thông tin.
- Ai?
- Cô.
- Nhưng ai nói với ngài điều đó?
- Vango nói với tôi.