Chương 15 CHÚ NGỰA NHỎ BẤT KHAM
Paris, quảng trường Vendôme, khách sạn Ritz, ba ngày sau
Boris Petrovitch Antonov cạo ria mép.
Hắn phát điên vì việc ấy nhưng mệnh lệnh từ tít trên cao rót xuống nên không thể có chuyện phản đối để làm đỏm được.
Lúc này, trông hắn giống như một thằng bé tóc bạc.
- Đó là tất cả những gì mày có đấy à?
Boris giở qua cuốn sổ nhỏ trước mặt một cậu sinh viên đang vò nát chiếc mũ cát két giữa mấy ngón tay dây mực. Họ đang ngồi trong quán bar của khách sạn. Có ba bà già đang uống trà. Từ họ toát ra mùi hương loa kèn trắng và cam becgamot.
- Những thứ còn lại đâu? Boris nhấn mạnh.
- Trong lòng sông Thames.
Boris tự vỗ trán.
- Mày đã vứt xuống sông những thứ còn lại trong vali rồi à?
- Đó là mệnh lệnh tôi nhận được.
Người ta nghe nói cả hai đều là người Nga, nhưng họ lại đang thảo luận bằng tiếng Pháp để không thu hút sự chú ý. Một nghệ sĩ dương cầm chơi những bản nhạc nhẹ nhàng ở phòng bên. Tiếng gót giày nện ngoài sảnh.
Nước da tái xanh và xỉn vàng hơn bao giờ hết, Boris dừng lại trước một trang trong cuốn sổ, trên đó có tái hiện một bức chân dung.
- Cực giống, đúng không? cậu sinh viên nói, cuối cùng anh ta cũng đặt chiếc mũ lên bàn.
Boris trừng trừng nhìn anh ta. Đó chính là chân dung của Boris Petrovitch Antonov, do Ethel vẽ và được Augustin Avignon sao chép vào sổ.
Bức chân dung vẽ tay súng bí ẩn tại nhà thờ Đức Bà đang nằm trong tay tất cả lực lượng cảnh sát.
Boris lật mạnh trang giấy, bực tức khi thấy lại trên tờ giấy chòm râu hắn đã phải hy sinh để không bị nhận diện chỉ vì con nhãi ranh đó.
- Ít ra thì mày cũng nhìn thấy con bé chứ?
- Chỉ từ xa thôi. Không thể lại gần tòa lâu đài. Cô ta có đầy tớ và thợ làm vườn nhan nhản khắp nơi. Khi cô ta ra ngoài, hoặc là bằng xe hơi, hoặc bằng ngựa. Cô ta đi khắp nơi như một đám mây bụi. Nhưng cô ta đưa tay cảnh sát trưởng ra ga Inverness, ngày hôm sau. Còn ông ta, tôi đã theo ông ta đến tận Paris đấy.
- Ai?
- Boulard.
- Ông ta ở đâu?
- Sau Saint-Germain-des-Prés.
- Một mình à?
- Với mẹ ông ta.
Boris chộp lấy người phục vụ đi ngang qua và gọi thêm hai tách cà phê. Cạnh họ, một cô bé đang ăn cốc kem to bự cao vượt quá mặt cô bé một viên kem.
- Thực ra mày chẳng tìm thấy gì cả.
- Tôi chẳng thấy gì vì họ chẳng có gì, cậu sinh viên giải thích.
- Mày chẳng tìm thấy gì cả, Boris nhắc lại.
- Tôi nói với ông rằng…
- Câm đi. Mày lấy chiếc vali quá sớm. Đáng nhẽ mày phải ăn cắp nó trên đường từ nhà con bé về, khi lão già quay lại Luân Đôn. Con bé có thể nói gì với lão ta thì sao. Điều đó sẽ được ghi trong sổ.
- Tôi lấy vali khi tôi có thể, ông Boris Antonov ạ.
Nổi điên, Boris đấm nắm tay lên bàn. Sau khi hy sinh hàng ria mép, hắn đánh cược cả sự nghiệp và sự sống của mình. Hắn cố gắng tóm tắt.
- Về bức chân dung, chúng ta đã biết rồi. Về những thứ còn lại, chẳng có gì cả. Đúng không?
- Đúng.
- Mày làm tao thất vọng đấy, Andreï.
- Tôi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình.
- Ít ra thì mày cũng đến chỗ mấy lão linh mục rồi chứ?
- Rồi. Họ đã chôn cất cha Jean sáng nay. Có nhiều người. Đêm hôm trước tôi qua phòng ông ấy. Người ta đã lau sạch tất cả. Không còn gì cả.
Cô gái hất đổ cốc nước của mình, suýt thì làm ướt cả cuốn sổ. Andreï chộp lấy chiếc mũ cát két, còn Boris cảm thấy quần mình sũng nước. Họ cùng nhìn cô gái. Cô xin lỗi, tóc vàng và xinh đẹp mê hồn, với nụ cười tươi, cô lại tiếp tục ăn cốc kem từ mặt phía Bắc.
Boris nghiến răng. Sao người ta có thể để một đứa trẻ mười hai, mười ba tuổi một mình trong sảnh khách sạn được cơ chứ? Hắn khạc nhổ vào khăn mùi soa sự kinh tởm của hắn trước nền văn minh này.
- Vậy là mày chẳng có gì, Boris Antonov trở lại chủ đề của mình.
- Tôi đã làm những gì ông yêu cầu. Ông tìm thấy một địa chỉ tại nhà linh mục còn gì… Nó có thể đem lại cái gì thì sao.
- Xa đấy. Đâu đó ở giữa biển cơ. Có cả những loại người đi xem…
- Này, ông nhìn xem, còn có cả cái tên này trong sổ.
Andreï lấy cuốn sổ trên tay Boris và chỉ một trang.
- Đúng, Boris nói, tao đã nhìn thấy. Cá Nhám.
Hắn cười khẩy.
- Rất cảm ơn vì phát hiện này! Cá Nhám! Hoan hô, anh chàng. Đây đúng là kẻ tình nghi!
Hắn vừa đứng dậy vừa vỗ tay khe khẽ rồi bắt tay cậu sinh viên. Những ngón tay hắn lạnh ngắt.
- Ông đi à? cậu sinh viên lo âu hỏi.
- Ừ. Nhiệm vụ đặc biệt.
Boris thì thầm vào tai cậu ta:
- Tao đi đến vườn thú Vincennes tìm Cá Nhám.
Andreï nở một nụ cười căng thẳng.
- Mày thấy điều đó buồn cười à? Boris gắt gỏng.
Andreï cứng đờ người. Boris véo tai cậu.
- Mày ở đâu nếu tao cần mày?
Cậu sinh viên vặn vẹo chiếc mũ cát két trên tay mà không trả lời.
- Ở đâu? hắn nhấn mạnh, sẵn sàng dựt đứt tai cậu.
- Ông Boris Petrovitch Antonov, tôi muốn nói với ông… tôi cho…
- Có chuyện gì?
- Tôi cho rằng tôi sẽ phải thôi…
- Thôi?
- Thôi không làm việc cho ông…
Boris làm ra vẻ mềm mỏng hơn.
- Không ư? Mày cho rằng ư?
- Tôi đã suy nghĩ rồi. Tôi nghĩ mình sẽ thôi.
- À, thế sao?
Boris Antonov thả cái tai ra, hắn lấy khăn trải bàn lau chiếc kính gọng dây sắt của mình. Đôi mắt cận của hắn nhìn chòng chọc vào mặt Andreï.
- Còn tao, tao không nghĩ đó là một ý kiến hay. Mày còn trẻ, Andreï ạ.
- Chính xác. Tôi cần phải suy nghĩ về tất cả những thứ đó. Tôi là nghệ sĩ violon mà.
Boris không thể nhịn được cười. Suy nghĩ… Thằng nhóc này hãy còn tin mình có quyền lựa chọn ư. Hắn đặt vài đồng bạc lên bàn.
- Ở lại nhé. Uống thêm một cốc nữa vì sức khỏe của tao đi. Và đừng có tự nhiên biến mất đấy, nhóc con. Tao tin ở mày. Gia đình mày cũng tin ở mày.
- Tôi nói với ông là tôi sẽ thôi tất cả.
Vừa cười, Boris vừa đặt ngón giữa và ngón trỏ lên trán cậu thanh niên, bàn tay chụm lại hình khẩu súng.
- Thôi gì? Thôi sống hả? Có những thứ không thôi được đâu, Andreï ạ.
Hắn véo má cậu và lại cười, bước đi.
Cậu sinh viên ở yên tại chỗ rất lâu, hai tay bấu chặt chiếc mũ cát két để khỏi ngã.
Cậu nghĩ đến gia đình mình ở Mátxcơva.
Cậu đến Paris học nhạc. Cậu ngạc nhiên khi dễ dàng nhận được giấy phép rời đất nước mình. Nhưng mọi việc đều trở nên rất rõ ràng khi Boris Antonov liên hệ với cậu. Ban đầu, người ta nói chuyện về gia đình cậu, vốn không gây được thiện cảm tại Mátxcơva. Rồi người ta đề nghị cậu giúp đỡ. Chừng nào cậu còn nghe lời họ thì gia đình cậu không sợ gì hết.
Làm thế nào để kết thúc chuyện này? Làm thế nào đây?
- Anh có muốn kết thúc không?
Cậu giật nảy mình.
Cô gái, ở bàn bên, đẩy cốc kem của mình về phía cậu.
- Nó to quá, cô nói, em không thể ăn hết được.
Cậu nhìn cô. Thực ra, có lẽ cô bé cũng không nhỏ tuổi lắm. Ít ra cũng phải mười ba.
- Không, cảm ơn. Tôi phải đi đây.
Cậu đứng dậy đi khỏi.
Để trả tiền kem, cô gái chồng một đống xu lên bàn, một đống cao ngất như cái cột trên quảng trường Vendôme, rồi cô cũng bước đi.
Cô đi qua sảnh.
Người gác cửa cúi đầu chào cô:
- Chào buổi tối, tiểu thư Atlas.
Trưởng quầy lễ tân chào cô khi đi ngang qua.
Ở lối ra, nhân viên phụ trách hành lý điều khiển cho cửa quay.
- Hẹn sớm gặp lại, tiểu thư Atlas.
Bên ngoài, người đánh xe cũng nhắc lại như vậy.
Cô không trả lời ai trong số họ.
Tất cả họ cứ nhất nhất gọi cô là Tiểu thư Atlas từ khi cô còn bé tí. Tuy vậy, cô cảm thấy điều đó thật ngu ngốc.
Cô đi xa dần trên quảng trường.
Tên thật của cô là Cá Nhám.
Cá Nhám gặp Vango mười tám tháng trước, ngày 25 tháng Mười hai năm 1932, vào ba giờ sáng, giữa tầng hai và ba tháp Eiffel.
Phải công nhận rằng địa điểm, ngày giờ không hẳn thiên thời địa lợi để cuộc gặp diễn ra. Những mét cuối cùng của tháp Eiffel, đêm Giáng sinh, vào ba giờ sáng. Nhưng về mặt thống kê mà nói, cơ hội bắt gặp một kẻ leo trèo sẽ lớn hơn nhiều ở độ cao này, nơi chỉ có một đường lên xuống, trong khi phía dưới, chân tháp có rất nhiều lối đi.
- Chào.
- Xin chào, Vango trả lời. Ổn chứ?
- Ừa.
Vango không phải típ người chơi bời trong những chuyến bỏ ra ngoài vào ban đêm, và trong những lần hiếm hoi cậu đụng phải ai đó trên mái tòa Opera, trong đồng hồ nhà ga Lyon hay vài năm trước, trên dây cáp cầu Brooklyn, cậu thường tránh mặt trước khi bị nhìn thấy.
Đêm hôm đó, thoạt tiên cậu bị ngỡ ngàng bởi độ tuổi của Cá Nhám. Trông cô như một cô bé con ngồi trên chiếc đu quay trong công viên. Nhưng cô lại đang ở độ cao hai trăm hai mươi lăm mét, chênh vênh trên hình vòng cung kim loại.
Mặc dù trời lạnh, Cá Nhám không đeo găng tay.
Cô để cậu phải nài nỉ rất nhiều trước khi thú nhận mình mới mười ba tuổi.
- Em đến đây thường xuyên à? Vango hỏi.
- Khá thường xuyên, cô nói mà không rời mắt khỏi cậu.
Câu trả lời này muốn nói đây là lần đầu tiên.
- Em có muốn chúng ta tiếp tục leo cùng nhau không?
- Em nghỉ một chút đã, nhé.
Hổn hển trong làn khí giá lạnh, cô thở ra làn hơi trắng hình những đám mây nhỏ tròn tròn.
- Tốt thôi.
Vango giả vờ leo tiếp lên. Ở độ cao này, lớp sơn bị bong ra một chút dưới sương giá. Cậu cẩn thận trước mỗi bước leo để không bị trượt. Cậu quay lại lần nữa.
- Ổn chứ? Em có chắc không đấy?
Vango ghét cái kiểu van vỉ này nhưng cô gái có vẻ không ổn. Cô không trả lời. Cậu leo xuống gần cô, nhìn cô lần nữa. Cô quàng một chiếc khăn lụa quá dài quấn năm hay sáu vòng quanh chiếc cổ rất thon. Xung quanh họ, những thanh ngang bằng thép trông lờ mờ.
- Em bị đau bàn chân trái rồi, cậu nói.
- Không.
Rồi cô máy móc thêm vào:
- Sao anh biết?
- Anh xem nó được không?
Cậu cầm lấy bàn chân, cô kêu toáng lên.
- Bong gân rồi, chân của em ấy.
- Vậy thì sao?
- Anh giúp em ra khỏi chỗ này nhé?
Cô nhìn những ánh đèn, ở phía xa và nhún vai như một đứa trẻ lễ phép được người ta cho kẹo.
- Vâng, em rất muốn.
Cậu khéo léo cõng cô bé trên lưng. Có tiếng chim cú kêu, rất gần đó. Theo cái cách cô bám lấy vai mình, cậu cảm nhận cô bé giống mình, giống những ai biết leo trèo trước khi biết đi.
- Anh hình dung là em không muốn đi thì phải, cậu nói.
- Không.
Cả hai đều biết rằng thỉnh thoảng trong cầu thang vẫn có người gác tháp đi cùng một con chó đen đáng sợ với hàm răng phát lân quang.
- Nhất trí.
Cậu bắt đầu leo lên.
- Anh đi đâu đấy?
- Em không muốn lên trên kia à?
Cô rất thích cậu gọi mình là “em”.
- Có chứ…
- Vậy thì ta đi thôi.
- Tốt. Tùy anh.
Họ ở lại trên đỉnh tháp cho đến lúc mặt trời mọc.
Vango lấy ra một mẩu bánh mì và họ chia nhau.
Lũ chim mòng đến kêu ríu rít quanh họ. Chúng vui đùa với Vango.
- Anh quen chúng à? vẻ đầy thán phục, Cá Nhám hỏi.
Vango chăm chú nhìn lũ chim.
Từ phía dưới, có lẽ người ta sẽ thấy trên đỉnh tháp cả một vầng hào quang bằng lông chim đang xoay tròn trong sắc đỏ của mặt trời ló rạng.
Vango chỉ một chú chim đang là là bay ngay bên trên.
- Con đó, đúng rồi, con chim đó, anh đã nhìn thấy nó ở nhà mình, rất xa nơi đây.
Cô bé cố không tỏ ra ngạc nhiên.
Họ thấy thấp thoáng đồng quê và những cánh rừng, phía bên kia ngoại ô thành phố, và Cá Nhám còn khẳng định nhìn thấy cả biển nữa.
- Có thể, Vango nói.
- Đằng kia kìa, nhìn xem kìa.
Những đám mây đang vươn mình về phía chân trời.
Giống như loài cá nhám, quả là cô có đôi mắt thật tinh tường.
Cả cô và cậu đều không tiết lộ phần còn lại của cuộc đời mình.
Buổi sáng, cậu đưa cô bé về trước nhà cô.
- Tại sao em lại tên là Cá Nhám.
- Vì nếu ở dưới trần nhà thấp hơn năm mét là em thấy nghẹt thở.
Vango cười.
- Đừng cười, em nghẹt thở thật đấy.
- Anh cười vì điều đó tạo cho em sở thích xa xỉ đấy… Nhà em có vẻ to nhỉ.
Họ đang ở trước một ngôi nhà lộng lẫy dưới đại lộ Champs-Elysées.
- Ổn rồi, em có thể bước qua các phòng, nhưng em lại sống ở trên kia cơ.
Cô ngước mắt lên. Có thể nhận ra một chiếc võng treo giữa hai cột thu lôi trên mái tòa nhà.
- Em bị chứng sợ chỗ kín.
- Thật hân hạnh. Còn anh, anh bị chứng cuồng ám.
Họ cười, bắt tay nhau rồi cô cà nhắc bước đi.
Từ ngày hôm đó, họ cùng nhau qua rất nhiều đêm trên bầu trời Paris. Cô dạy cậu trượt trên mái nhà hát Châtelet và mạo hiểm trong mái vòm cuốn ngay bên trên các vũ công trong buổi trình diễn.
Cậu chỉ cho cô tháp Saint-Jacques, ngay bên cạnh. Một người gác tháp điên khùng cứ lượn tròn quanh tháp suốt cả đêm. Đối với họ, đó là một trò chơi. Phải leo bảy mươi bảy mét trong chưa đầy chín mươi giây. Thời gian người gác tháp đi hết một vòng. Khi đã ở trên cao, họ nhìn thấy đường cong của sông Seine và những hòn đảo trên đó, thấy cả con tàu nhà thờ Đức Bà giữa biển những mái nhà xám xịt.
Họ trở thành bạn bè mà không hề biết gì về nhau. Đôi khi, họ đưa nhau về. Mỗi người chỉ biết đến cánh cửa nơi ở của người kia. Nhưng cánh cửa ấy lại đóng kín khi họ chưa kịp nhìn thấy qua khe cửa một chút phần còn lại của cuộc đời họ.
Một ngày tháng Tư, Vango không đến chỗ hẹn. Sau đó vài ngày, Cá Nhám có mặt ở lối vào tòa nhà nơi cô biết cậu sống ở đó. Khi thấy thái độ người gác cổng lúc cô nhờ “Ông làm ơn báo với Vango rằng Cá Nhám đang đợi anh ấy”, cô hiểu ngay đang xảy ra chuyện gì đó. Cô thoát khỏi đám cảnh sát trong gang tấc.
Những giờ, những ngày sau, cô cố gắng tìm hiểu.
Tiếp cận, dỏng tai ở lối vào các quán cà phê nơi có các điều tra viên, cô có thể xâu chuỗi lại câu chuyện.
Điều ngạc nhiên đầu tiên là cô phát hiện Vango sắp trở thành linh mục. Bản thân cô không quen biết vị linh mục nào cả, cô hầu như không hiểu linh mục có nghĩa là gì, nhưng cô không thể tưởng tượng nổi một vị linh mục lại có thể treo lơ lửng trên tháp Eiffel hay ngủ trên cây trong công viên như hai người vẫn hay làm.
Nhưng ít ra điều đó cũng không khiến cô bị sốc bằng lúc nghe nói cậu bị buộc tội giết người. Có thể cậu có lý do thì sao. Điều đó không liên quan đến cô. Bây giờ cô đã hiểu tại sao cậu không đến và đó là tất cả những gì cô muốn biết.
Vì thế cô tin mình sẽ lấy lại được nhịp sống thường ngày.
Nhưng rồi một đêm, nằm dài trên võng, cô cảm thấy cái gì nhoi nhói bên mạng sườn.
Đó không phải một nỗi đau cụ thể, mà đúng hơn là cái gì đó như loài bò sát đang bò lên ngực, lên vai cô.
Cô quay bên này, rồi quay bên kia.
Cô thở dài.
Cô bước đi trong đêm, trên mái nhà.
Cô nhìn ánh sáng của cây đèn đường đang chập chờn.
Một lúc lâu sau, tay vắt chéo ôm vai, cô lại thở dài. Có lẽ đó là những gì sách vở vẫn gọi là nỗi cô đơn.
Chưa bao giờ cô có cảm giác như vậy.
Cá Nhám lớn lên một mình.
Cô có ba người anh hơn cô rất nhiều tuổi. Người anh sau cùng bỏ nhà ra đi ngay trước ngày cô ra đời. Hiện nay, họ đều đã quá ba lăm tuổi, đối với Cá Nhám, đó là độ tuổi của bậc tổ tiên trên những bức tranh rồi.
Cô được sinh ra từ cuộc hôn nhân thứ hai của cha. Cha mẹ cô quá bận bịu. Cùng một lúc, họ sống ở ba thành phố, lúc nào họ cũng để nguyên xi hòm đồ đi đường và thậm chí còn mặc nguyên áo choàng lông thú khi về đến nhà ôm cô.
Cô đã từng có hai mươi hai quản gia, tất cả đều có cái ý tưởng tồi tệ khi gọi cô là Tiểu thư Atlas và muốn giữ cô giữa bốn bức tường. Bà quản gia mới nhất vừa bị ngã từ trên cây xuống khi cố gắng tóm lấy cô.
Cuối cùng Cá Nhám cũng có được vị trí của mình. Cô trở thành người quản gia của chính mình. Người thứ hai mươi ba.
Mười bốn năm qua, chưa bao giờ cô biết đến nỗi cô đơn. Ngay cả khi người quản gia thứ bảy nhốt cô cả đêm trong tủ để ngăn không cho cô ngủ trên mái nhà, ngay cả khi cô ở cả một năm trời trong nhà nghỉ trên núi vì bị ốm, chưa bao giờ cô cảm thấy thực sự cô đơn.
Vậy mà cái anh chàng ngu ngốc Vango đó vừa lột đi bộ lông nhím của cô, trong tiếng ồn ào của đám chó săn.
Cá Nhám quyết định tìm cho ra anh ta để hỏi tội.
Vì thế, cô mang chăn đến mai phục trong gác chuông nhỏ của tu viện dòng Cácmen. Không lúc nào cô rời nơi xảy ra thảm kịch. Cô chắc chắn đấy là nơi duy nhất cô có thể phát hiện ra điều gì đó.
Suốt ba ngày trời, không có gì xảy ra.
Ký ức về vụ giết người nhạt dần.
Đêm thứ tư, ai đó bắt đầu chơi bản fox-trot trên dàn đàn ống nhà thờ ở phía dưới cô. Cô không biết đó là Raimundo Weber, tu sĩ dòng thánh François, người gác tu viện, sau một thời gian để tang ngắn, lại bắt đầu những bản hòa tấu đêm của mình. Cuộc sống lại tiếp tục.
Ngày hôm sau, cảnh sát đến dọn sạch căn phòng của nạn nhân. Một chiếc xe hòm chở bàn làm việc, ghế tựa, vài hòm sách vở đi khỏi. Năm cậu bé của tu viện dội nước căn phòng, rồi họ mở cửa sổ để mọi kỷ niệm về cha Jean bay đi hết.
Đến đêm thứ năm, Cá Nhám bắt đầu nghĩ mình đã đến quá muộn.
Đêm đó rất bình yên, trước tiên bởi vì làn gió tháng Năm nhè nhẹ thổi vào thành phố mùi hương anh đào, cũng có thể bởi lão Weber hôm đó chơi một khúc nhạc êm dịu hơn thường lệ. Đàn chỉ có bốn nốt nhưng lão chơi chúng theo một thứ tự thần kỳ thay đổi theo mỗi tiết tấu nhạc.
Cá Nhám dỏng tai lên nghe.
Ai đó đang bấm chuông ngoài chấn song tu viện.
Weber không nghe thấy gì, lão hoàn toàn bị âm nhạc mê hoặc.
Nhìn hình dáng người đang đợi sau chấn song, Cá Nhám hiểu đây là cuộc viếng thăm bất thường. Những ngày trước đó, cô chỉ nhìn thấy các vị linh mục, các bà sơ, một giám mục, các tu sĩ và đám quân cảnh lui tới. Nhưng người đang đứng đợi lúc này lại đội một chiếc mũ cát két Gavroche to tướng trên đầu. Anh ta xách một cái túi đen và một chiếc cặp da, trông giống như sinh viên khu phố Latinh.
Cá Nhám quan sát anh ta. Nếu không ai đáp lại tiếng chuông cửa, anh ta sẽ bỏ đi mất, mà điều đó sẽ làm Cá Nhám chán nản.
Vậy nên cô trườn xuống dọc mái nhà và nhìn qua ô cửa sổ vào bên trong nhà thờ. Weber dường như nửa tỉnh nửa mê. Cơ thể bé nhỏ của lão không động đậy, nhoài lên nhạc cụ, tuy nhiên, đôi bàn tay to lại mở rộng như loài dơi và nhảy nhót trên phím đàn. Lúc này lão đã thoát khỏi bốn nốt nhạc ban đầu. Từ nốt trầm nhất cho đến nốt cao nhất, lão không muốn bỏ quên bất kỳ phím nào.
Cá Nhám quăng cái chăn như quăng lưới đánh cá. Tấm chăn bay lượn một lát dưới vòm rồi rơi lên mấy cái ống đàn bật lên tiếng kêu khàn khàn như một con voi bệnh. Weber thoát ngay khỏi trạng thái đê mê âm nhạc. Lão nghe thấy có ai đang gọi. Lão nhảy khỏi chiếc ghế đẩu, chạy ra ngoài nhà thờ đáp:
- Đây, đây…
Gấu áo ngủ của lão kéo lê trên sân lát đá.
Lão nhìn qua chấn song và thấy một cậu thanh niên.
- Cậu bị lạc à, con trai?
- Xin chào. Cháu là học sinh nội trú của trường bên cạnh, phố Quý Bà. Cháu bị kẹt bên ngoài, cổng trường đóng mất rồi. Liệu bác có thể tìm cho cháu chỗ nào để ngủ được không ạ?
- Để ngủ…, vị tu sĩ dòng thánh François vừa nhắc lại vừa cắn môi.
Weber vỗ chùm chìa khóa trong túi quần, lão có vẻ buồn phiền.
- Thông thường, tôi sẽ mở cho cậu…
Ông nhìn xung quanh rồi thì thầm:
- Người ta yêu cầu tôi phải thận trọng. Đã xảy ra những chuyện…
- Cháu sẽ đi rất sớm, cậu thanh niên nói bằng giọng Nga.
- Tôi tin cậu, con trai, nhưng tôi có lệnh thế rồi.
Người thanh niên gật đầu.
- Bình thường thì…, Weber tiếp tục.
- Cháu hiểu, mong bác thứ lỗi.
Người thanh niên rời bước trên vỉa hè.
- Này!
Raimundo Weber vừa cất tiếng gọi. Anh ta trở lại chấn song.
- Cậu có gì trong túi đấy?
- Túi nào cơ ạ?
- Đấy, bên tay trái ý.
- Có gì đâu ạ. Một chiếc violon thôi.
Weber đút chìa khóa vào ổ. Lão mở cửa.
- Một chiếc violon?
Lão siết chặt tay anh ta.
- Cậu chơi à? lão hỏi thêm.
- Vâng.
- Zing zang zang zaaaaaaaang.
Weber hát và diễn điệu bộ trên vỉa hè.
- Ziiiing…
Lão nhìn người thanh niên dò hỏi.
- Zaaaaang zoooing… Cậu nhận ra chứ?
- Chostakovitch.
Weber nhảy bổ vào vòng tay anh ta.
- Cậu là người Nga? Weber hỏi.
- Vâng.
- Lại đây.
Cá Nhám trông thấy lão đưa người thanh niên vào, dẫn đến tận nhà thờ. Weber lại trèo lên dàn đàn ống. Lão bắt đầu dạo một bản nhạc.
- Lấy violon ra đi!
Họ chơi cùng nhau suốt một tiếng đồng hồ.
Cứ như đó là ngày hội làng ở Stromoski vùng Siberi. Cả những chiếc ghế cầu kinh cũng muốn nhảy. Kết thúc, Weber tuột xuống giữa bàn chỉnh âm của dàn đàn ống, lả đi vì mệt.
Cá Nhám không rời mắt khỏi người thanh niên.
Anh ta cất chiếc violon của mình vào túi, kiểm tra xem Weber đã ngủ say chưa, lấy chìa khóa của lão và ra khỏi nhà thờ. Anh ta đi vào chái nhà nhỏ ở sân thứ hai, mở cửa bằng chìa khóa to nhất và lên gác.
Cá Nhám theo anh ta bằng đường mái nhà.
Thoáng chốc, người thanh niên đã đi xuống và ra đến tận chấn song. Anh bước ra phố.
Cá Nhám theo về tận nhà anh ta, ở một ký túc xá, rồi ngày hôm sau, đến lễ an táng cha Jean tại nghĩa trang Montmartre, và cuối cùng đến tận khách sạn Ritz vào cuối buổi chiều.
Tại đó, cô được biết anh ta tên là Andreï, làm việc cho một gã Boris Petrovitch Antonov nào đó và hắn cũng đang tìm kiếm Vango.
Trở về, trên mái nhà mình, Cá Nhám thật sự hài lòng. Cô đã có manh mối. Manh mối tên là Andreï, sinh viên violon. Cá Nhám biết giọng nói, địa chỉ và tên ông chủ anh ta…
Tối hôm đó, cô vẫn chưa dám thú nhận rằng manh mối ấy, với cây violon và mái tóc bù xù, đôi mắt buồn, khuôn mặt đẹp của chàng trai đến từ xứ lạnh, đã làm trái tim cô đập cuống cuồng ngang với vận tốc của một chú ngựa non bất kham trong rừng taiga.