Chương 16 CÔ
Quần đảo Eolie, ngày 1 tháng Năm năm 1934
Vango được thả xuống hòn đảo nhỏ Basiluzzo. Cậu lập tức nhận ra phiến đá cuội đua ra biển ấy, giữa ngọn núi lửa và đảo Panarea.
Trời hửng sáng, cậu gọi những người đánh cá, họ đến cạo núi đá ngang mặt nước để xua cá và bạch tuộc ra.
Đám người thậm chí chẳng hỏi cậu đang làm gì ở đó. Họ để cậu chui vào giữa những thúng cá.
Một trong số họ đang hát ở phía trước.
Nghe họ nói, cảm nhận cái lắc lư chòng chành của con thuyền và mùi gỗ mặn chát của vỏ tàu, Vango nhận ra cậu đang thật sự trở về.
Những người dân chài đến từ Lipari. Họ mang cậu về đảo lớn.
Từ đó, cậu đi tàu chuyến đến Salina. Không còn chỗ trống nào cả. Vango ngồi chắc chắn đằng sau một người đàn ông đang ngủ gục trên chiếc va li. Cậu trông thấy hai nóc hòn đảo của mình đang dần tiến lại gần. Cậu ngồi ở phía cuối con tàu, hành khách duy nhất không có hành lý trong khi những người khác mang theo nào là ba lô lương thực, nào là đồ ngũ kim to tướng. Một số người không rời đảo của mình trước khi mùa thu đến. Cần phải cầm cự đến lúc đó mà.
Con tàu vòng qua đường đá bọt Lipari. Gió thổi ngược. Chuyến đi này có vẻ dài kinh khủng đối với Vango.
Vậy mà nó ở ngay kia, hòn đảo của cậu, đằng sau cánh buồm lớn hình vuông đang đi ngược chiều gió.
Vango tay bó gối. Người ta nhìn thấy cậu buộc vào mắt cá chân cái khăn màu xanh lam mà cậu luôn giữ khư khư.
Cậu đã kịp luyện tập nhiều lần trong đầu cảnh hội ngộ với Cô.
Cậu biết cô sẽ không trách móc gì, cô sẽ ôm cậu với hai bờ má ướt, cô sẽ hơi lùi lại để nhìn vóc dáng cậu, cô sẽ vuốt tóc cậu, cô sẽ xin lỗi cậu về chiếc váy của mình, cô sẽ bày đĩa và ly lên bàn, cô sẽ nói tình cờ trong lò nóng còn một ít thức ăn, những chiếc bánh ga tô nhân đường, và cô sẽ nói thêm một từ dịu dàng bằng thứ ngôn ngữ mà cô yêu thích, nhưng rồi cô sẽ lên giọng trách cậu ngay lập tức vì cậu không còn là trẻ con nữa.
Cô sẽ làm tất cả để cậu không có thời gian xin lỗi vì đã không trở lại, vì đã chỉ viết bốn bức thư trong vòng năm năm, bốn bức thư không có địa chỉ mà chỉ nhắn:
Con luôn nghĩ đến cô,
Cô à, con khỏe,
Hôn cô.
Bốn bức thư khô khan như thư thời chiến. Chúc mạnh khỏe, tinh thần tốt.
Vango vừa dấn bước vào đời vừa xóa đi những dấu vết của mình. Cậu không gọi đó là chứng cuồng ám mà là sự sống còn.
Cậu giống như những người Sioux Bắc Mỹ giữa thảo nguyên rộng lớn, thường kéo lê sau mình năm tầng cành lá và cỏ với mục đích xóa sạch mọi bước chân.
Cậu nghĩ phải bảo vệ Cô bằng cách không nói gì với cô cả.
Im lặng như thế, bọn chúng sẽ không tìm đến cô.
Bọn chúng là những kẻ vẫn rình mò cậu suốt năm năm nay.
Bọn chúng là những kẻ muốn cậu chết.
Bọn chúng là những kẻ được cha Jean gọi là “căn bệnh của con”, nhưng chính chúng đã giết chết cha Jean.
Tuy nhiên, ở Nhà thờ Đức bà, tất cả đã thay đổi. Hàng nghìn người đã trông thấy những viên đạn nổ quanh cậu.
Và Vango đã muốn gào lên: “Mọi người nhìn thấy rồi đấy! Mọi người nhìn thấy rồi đấy! Liệu tôi có bị điên không? Bọn chúng tồn tại mà! Bọn chúng kia kìa!”
Trong khoảnh khắc, ở tít trên cao, cậu thậm chí đã dang rộng cánh tay, sẵn sàng đón nhận viên đạn trúng tim để sao cho trên da thịt có một dấu vết, một bằng chứng mà bác sĩ phẫu thuật sẽ lấy panh gắp ra và đặt lên bàn. Nhưng điều gì đó không thể diễn ra đã diễn ra. Cậu nhìn thấy một con chim nhạn từ từ bay đến trước mặt mình, đập đập đôi cánh một cách yếu ớt, nó gần như dừng lại, vì chẳng một con chim nhạn nào có thể làm được điều đó.
Tiếng súng vang lên, và con chim nhạn dừng lại, bị bắn xuyên mình, trước khi rơi tự do từ trên nhà thờ xuống.
Viên đạn chệch hướng sượt qua mạn sườn Vango thay vì trúng tim cậu.
Ở Salina, Vango xuống cảng Malfa.
Đêm xuống. Mọi người đang đợi tàu.
Cuộc dạo chơi buổi tối… Đến xem thủy thủ, giúp họ bốc dỡ hàng, nhìn ngắm những người ở lại trên tàu để chuẩn bị khởi hành đến một đảo khác, mơ mộng với những gương mặt mới. Vango thấy rõ không ai nhận ra mình. Nhiều đôi trai gái ngồi ngay bên trên mặt nước, chân đung đưa trong không trung. Một ông già đang đếm lại giỏ cá của mình.
Vango bước đi trên bến cảng, và quả thật, cậu cảm thấy mình đã thay đổi. Cậu không còn là cậu trước kia nữa. Cậu nhìn những người dân trên đảo, những người mà cậu vẫn xa lánh họ suốt cả tuổi thơ mình.
- Cậu giúp tôi được chứ, cậu bé?
Một người đàn ông đặt tay lên vai cậu.
- Tôi phải đưa thư lên bờ. Mỗi người một túi nhé.
Vango cầm một túi và đặt lên vai mình.
Cậu nhận ra người đàn ông đó, Bongiorno, phụ trách bưu điện, vé tàu, bán rau quả, giày dép và sửa kính vỡ. Một người đàn ông đã thay đổi đến năm hay sáu nghề gì đó để thử vận may ở nơi tận cùng trái đất.
- Thường thì, Bongiorno nói, có một gã sẽ mang lừa đến lấy, nhưng lúc này gã lại không ở đây. Chỉ để đưa lên trên kia thôi mà, trên quảng trường ấy. Tôi sẽ trả công cậu cái gì đó nhé.
- Không sao, Vango nói, đằng nào cháu cũng lên đó.
Cậu ngắm nhìn những đứa trẻ đang cắm mình nhảy xuống từ một mỏm đá. Chúng biến mất trong dòng nước đen ngòm. Một người đàn ông và một phụ nữ lần xuống theo sợi dây chạy về phía con tàu. Họ kêu gào, cầu xin người ta đợi họ. Ai đó đập vào chuông tàu như thể con tàu đi đây, khiến họ phát điên lên. Ngồi trên những chiếc hòm, đám con gái cười đùa. Một cậu bé lao thẳng xuống nước từ mũi tàu. Vango tự hỏi tại sao cậu chưa bao giờ bơi cùng lũ trẻ con trên đảo.
Cậu nhìn thấy một người phụ nữ giống như kẻ lang thang không nhà cửa, ngồi xổm dưới mái nhà bằng ván trên con đê cảng.
- Người phụ nữ đó là ai đấy ạ?
- Cậu không phải người ở đây rồi! Bongiorno nói.
- Không ạ.
- Tuy nhiên, giọng cậu lại có một chút âm sắc của đảo này.
- Cháu đã từng đến đây, cũng lâu rồi.
Bongiorno đi trước Vango.
- Người đó à, cô ta bị điên đấy. Cô ta chờ chồng từ… tôi không biết nữa… từ nhiều năm nay rồi. Cô ta ngồi đó trông chồng về.
- Ông ta đi đâu ạ?
- Tôi thì tôi nói là anh ta chết rồi. Nhưng cô ta cứ làm tôi đau lòng, cô ta ấy.
Ông ném cho cô ta một đồng bạc và nói to:
- Phải ăn đi đấy, cô Giuseppina ạ!
Vango bước chậm lại khi đi ngang qua. Cậu vừa nhận ra vợ của Pippo Troisi, Giuseppina.
- Cô ta như thế đó, ông nói, cứ khóc lóc thôi.
Vango không thể rời mắt khỏi người đàn bà.
- Còn cậu, cậu đi đâu?
- Cháu á? Vango hỏi, một chút lơ đãng.
- Ừ. Sau đây thì cậu đi đâu?
- Cháu đi lên kia, đến Madonna del Terzito, để hành hương.
Đó là ngôi đền nhỏ bị bỏ quên trên đèo, giữa những ngọn núi. Vango không tìm thấy câu trả lời nào tốt hơn để đáp lại tính hiếu kỳ của Bongiorno.
Và quả thật, ông ta không đặt thêm câu hỏi nào nữa cho đến khi lên tới quảng trường Malfa.
Ở đó, Vango để lại ông ta cùng những chiếc túi, lấy cớ cậu muốn lên trên kia trước khi đêm xuống.
- Cầm lấy mấy đồng bạc này nhé…, người đàn ông nói.
Và vì cậu bé từ chối:
- Cậu thắp nến giúp tôi ở đền Madonna nhé. Cậu sẽ không cô độc đâu, có hai người nước ngoài cũng đến đó sáng nay đấy.
Vango cầm mấy đồng bạc. Cậu rời khỏi làng theo hướng Tây. Cậu đi như chạy. Chưa đầy một giờ, cậu đã đến bên miệng núi lửa Pollara. Phía dưới cậu, cách đó vài trăm mét, một ánh lửa sáng rực trong làng.
Lúc này, trong ngôi nhà ở Pollara, Cô đang ngồi trong chiếc ghế bành nhỏ được Vango, năm mười hai tuổi, làm bằng gỗ nổi, thứ gỗ trôi rất lâu trên biển, và cuối cùng được đánh nhẵn, sáng bóng giữa đám đá cuội. Chiếc ghế là một cái ổ làm bằng những mẩu gỗ buộc lại với nhau. Người ngồi vào đó cảm thấy rất thoải mái. Hằng tối, cô ngồi trên đó để đọc hoặc khâu vá, đôi lúc cô thức dậy cũng trong chiếc ghế đó, sách trên đầu gối.
Tối hôm đó, cuốn sách tuột xuống đất nhưng Cô không hề ngủ. Cô chỉ lặng nhìn hai gã đàn ông đang phá hoại bên trong ngôi nhà của cô.
Chúng vào mà không nói năng gì, chỉ nhếch mép cười lịch sự với Cô.
Giữa những bức tường ấy, đồ đạc ít ỏi đến nỗi bọn chúng gần như thất vọng. Cô sững sờ. Cô không tài nào cử động được. Bọn chúng đi quanh một lúc, bắt đầu xé những trang sách trên giá sách nhỏ. Chúng tìm thấy một tập giấy trong chiếc túi hồ sơ bằng giấy thấm, dốc tập giấy đó vào chiếc túi du lịch chúng mang theo. Chúng còn vứt vào túi một quyển vở khâu tay, trong đó Cô chép lại một cách lộn xộn những khoản chi tiêu và vài bài thơ.
Rồi chúng đập vỡ mấy cái đĩa. Và như thể không kiềm chế được, chúng bắt đầu đập phá cả những ô vuông ốp sành xốp màu xanh lam trên tường. Những mẩu sành không rơi xuống, chúng bị rạn thành nghìn vết nứt. Căn phòng trở thành một chiếc kính vạn hoa nhìn đến chóng cả mặt.
Chúng ra tay mà không nói một lời, như thể chúng đang làm một công việc tỉ mẩn, đòi hỏi sự tập trung cao độ. Chúng đặt vũ khí lên bàn để tay được rảnh rang. Hai khẩu súng tự động Tokarev TT33 và một khẩu súng trường tốc độ cực nhanh nặng đến sáu hay bảy ki lô gam gì đó.
Khi chúng bước vào, Cô không tỏ ra quá ngạc nhiên.
Cô nói với chúng bằng tiếng Nga rằng cô đợi chúng mười lăm năm nay rồi.
Vango lao xuống con đường trong đêm khuya. Cậu không cảm thấy gì ngoài sự hưng phấn trong khoảnh khắc. Cuộc trở về nơi mình yêu quý, ngôi nhà chính là Tổ quốc của cậu, người phụ nữ đó chính là gia đình cậu, một cuộc chạy bộ trong đêm tháng Năm sau năm năm cách xa. Cậu đã quên tất cả những thứ còn lại.
Cậu đi tắt sang trái. Giờ cậu đã nhìn rõ màu trắng của mái nhà, rồi tiến thêm nữa, ánh đèn thắp sáng bên cửa sổ. Cô kia rồi.
Vango không muốn làm Cô bất ngờ. Cậu định gõ cửa, báo hiệu qua cánh cửa. Cậu đi một vòng sát qua cây ô liu, cành lá xạc xào khi cảm thấy cậu lại gần.
Cậu đặt tay lên vỏ cây, rồi cả trán nữa.
Trong nhà, một bóng người đang đi lại, cậu nhìn thấy người đó di chuyển qua những ô cửa sổ bé xíu. Cô không ngủ.
Cô.
Cậu mang ơn cô nhiều lắm. Chỉ riêng Cô đã là cả thế giới. Dường như cô biết tất cả bí mật của cuộc sống, nhưng cô bóc tách từng bí mật ấy một cách khéo léo. Giống như cái cây ô liu kia, cả năm lá rụng mà người ta vẫn cứ có cảm giác chẳng bao giờ nó mất đi một chiếc lá nào.
Khi Vango buồn bã quá lâu, cô nói với cậu những câu đại loại như: “Mỗi nỗi buồn chỉ cần một ngày là đủ.” Cô sáng tạo ra đạo lý cho riêng mình.
Trước khi ra khỏi lùm cây, cậu đứng nghỉ vài giây.
Một bóng đen lực lưỡng tiến về phía cậu, từ đằng sau. Cứ như Vango cố tình để cho người đó có thời gian lại gần mình. Nhưng cậu có nhìn thấy gì đâu, cậu chỉ muốn kéo dài khoảnh khắc êm dịu đứng tựa cây mà thôi.
“Con đến đây, Cô ơi…” cậu nghĩ.
Khi Vango tiến thêm một bước về phía ngôi nhà, cậu cảm giác có một bàn tay tóm lấy hàm mình, nắm ngang bụng và nhấc bổng cậu lên khỏi mặt đất. Đây là lần đầu tiên sau bao năm, Vango thật sự chểnh mảng. Tích tắc đầu tiên cậu mất cảnh giác.
Nhưng một giây đó cũng đã đủ.
Cô thấy hai gã đàn ông nhảy xổ vào đống vũ khí của chúng. Cô cũng nghe thấy một tiếng động bên ngoài. Chắc chắn bọn chúng có tên thứ ba đang theo dõi ở ngoài. Một gã đi ra. Hắn trở vào ngay, gật đầu ra hiệu cho tên kia yên tâm. Chúng tiếp tục nhiệm vụ quỷ quái của mình. Cô nhắm mắt lại.
Vango bị mang đi trong đêm. Sức mạnh đang giữ cậu thật kỳ lạ. Vango không phản kháng.
Đến một lúc, cậu cảm thấy mình được đặt xuống đất. Cậu đang ở trong một nơi đại loại như cái hố có nền nham thạch. Tận cùng bên trong cái hang nho nhỏ ấy, lửa soi sáng cả căn phòng. Vango nhỏm dậy. Một khẩu súng chĩa vào cậu.
- Đừng động đậy.
Người đàn ông nói tiếng Sicile.
- Cậu không có cơ hội chống lại chúng đâu.
Vango nhận ra Mazetta.
- Chúng có nhiều vũ khí, đạn dược hơn tất cả cảnh sát Ý đóng trên các quần đảo kéo dài đến tận Milazzo đấy.
Mazzetta có lý. Khẩu súng cối lật để trên bàn Cô nạp pháo calip 600 nitro, được coi là thứ vũ khí săn voi lý tưởng suốt hai mươi lăm năm nay. Và một trong hai gã kia, gã cao to hơn còn có hai khẩu Tokarev, chiếc tiểu liên xinh xắn của Anh đeo dưới lớp áo sơ mi, trông giống như vòng rửa tội.
Vango đứng dậy.
- Ngồi xuống, Mazzetta ra lệnh. Tôi sẽ bắn vào đầu gối nếu cậu cố tình đi đấy. Tôi không muốn bọn chúng tóm được cậu.
Mazzetta suýt nữa nhảy bổ vào ngôi nhà khi hắn nhìn thấy mấy gã đàn ông bước vào. Nhưng qua cửa sổ, hắn phát hiện ra đống vũ khí. Hắn biết sức mạnh của vũ khí. Hắn không lo cho cuộc sống của mình, thứ hắn đã cho đi từ bấy lâu nay. Hắn lo cho Cô. Hắn muốn sống để còn trông nom cô.
- Để cháu đến đó đi mà.
- Không. Rồi bọn chúng cũng bỏ đi thôi. Bọn chúng sẽ không làm gì cô ấy đâu. Tôi nghĩ chính cậu mới là người bọn chúng tìm kiếm.
Có tiếng giậm chân ngay trước cái hố của Mazzetta. Ai đó đang xéo lên cỏ khô. Vango nín thở.
- Ai nhỉ? cậu thì thầm.
Mazzetta đặt ngón tay trước miệng.
Đúng, có ai đó đang thở phì phò cách đó chừng hai mét.
- Ai nhỉ? Vango nhắc lại.
Cái mặt gấu của Mazzetta lắc lư chầm chậm.
- Con lừa của tôi đấy, cuối cùng hắn cũng thầm thì. Nó báo với chúng ta bọn chúng đi rồi.
Con lừa Tesoro thò đầu qua cửa, cùng với chiếc lục lạc bằng da đóng đinh to tướng. Mazzetta vuốt ve vùng da giữa hai mắt nó.
Họ chờ một lúc lâu nữa rồi Mazzetta đi ra. Vango không nhúc nhích.
Mazzetta trở lại, ngồi xuống cạnh Vango.
- Bọn chúng đi rồi.
- Thế còn Cô?
- Bọn chúng sẽ còn ở lại đây một thời gian. Cậu phải đi thôi.
- Cô thì sao?
- Cô ấy đang ở trước nhà. Cô ấy chẳng làm sao cả.
- Cháu muốn nói chuyện với cô ấy.
- Chúng đang theo dõi. Nếu cậu nói chuyện với cô ấy, cô ấy sẽ chết.
Vango lấy tay xoa mặt.
- Lạy Chúa tôi, cậu nói.
- Đi đi.
Mazzetta đặt cây súng săn xuống. Cuối cùng, Vango cũng nói chuyện với hắn lần đầu tiên.
- Còn Cô? Chú sẽ chăm sóc cô ấy chứ?
- Cô ấy không muốn tôi giúp. Nhưng tôi biết có người sẽ đến mà.
- Hãy làm những gì cần thiết cho cô ấy nhé. Cháu xin chú đấy.
Vango ra khỏi hang, bò đi giữa đám bụi rậm.
Khi đã ở khá xa, cậu chạy về phía biển, leo xuống vách đá. Cậu đẩy đại một con thuyền trên bãi đá cuội chèo thẳng ra khơi.
Hai giờ sáng, bác sĩ Basilio nghe thấy tiếng gõ cửa nhà mình.
Ông đã quen với kiểu gào thét này của đàn ông trước nhà mình. Theo ông, đàn ông thường gào hét trước cả những bà vợ sắp đẻ hoặc đám trẻ con sắp chào đời vài tiếng đồng hồ.
- Đàn ông cũng phải có lúc gào chứ. Họ có quyền mà.
Bác sĩ lẩm bẩm những từ đó, ông còn đang gà gật, mặc quần, vớ lấy túi đồ nghề, rồi mở cửa.
Không như những gì ông tưởng.
Mazzetta đang ở trước mặt ông, mệt đứt hơi.
- Là…
Nhìn vào mắt Mazzetta, bác sĩ hiểu đã xảy ra rắc rối nghiêm trọng.
- Cô đúng không?
Ông chạy theo Mazzetta trong đêm khuya khoắt.
Arkudah, ngày hôm sau
Zefiro chưa bao giờ xuất sắc trong những buổi hội ngộ.
Ông có tài thực sự khi nói vĩnh biệt, khi ban phép lành đến cảm động, khi kìm lòng trước mỗi chuyến đi. Nhưng khi gặp lại ai đó, ông không biết mình nên dang rộng vòng tay, nghiêng đầu hay chìa tay ra. Và phần lớn, ông kết hợp cả ba động tác cùng một lúc, và điều này gây ra những va chạm đáng tiếc.
Zefiro vẫn không biết nên nói gì trước tiên và không nhớ lần chia tay gần nhất là từ bao giờ.
Quãng thời gian xa cách đối với ông là bức màn nước đá.
Đứng trước Vango, ông đã khiến cậu chú ý khi cứ ấp a ấp úng nói tóc cậu hơi ngắn hơn trước, ông còn đánh liều nhận xét về thời tiết, ông mời cậu một cốc nước.
Cuối cùng, ông cũng cố gắng thốt ra một lời chào mừng đầy lạ lùng:
- Ta có mấy con thỏ mới đấy.
Vango đang ở trước mặt ông, ngoài cửa tu viện vô hình, kiệt sức, quần áo rách tả tơi. Mắt cậu đỏ ngầu, cậu đang đói lả đi.
Nhưng cậu không quên Zefiro. Cậu đi theo ông.
Chính lúc bước về phía chuồng thỏ là lúc bức màn nước đá tan dần. Khi Vango run run đưa cho ông con thỏ xám cậu tóm được, Zefiro gạt con vật bé nhỏ ra và ôm chầm lấy đầu cậu bé, ghì chặt nó vào hõm vai mình. Năm năm đã trôi qua.
- Con cao quá.
Vango muốn ngẩng đầu lên nhưng Zefiro vẫn ghì chặt để cậu bé không nhìn thấy nước mắt ông.
- Chính cha đã bảo con đi mà, cậu rên rỉ.
- Một năm! Thì ta cho con một năm để rồi trở lại còn gì…
Vango nhìn ông.
- Con đang gặp rắc rối, cha ơi.
Mátxcơva, Điện Kremli, cũng tối hôm đó, ngày 2 tháng Năm năm 1934
Setanka lên tám tuổi rưỡi. Khi đi xem phim, vào ban đêm, trong một khu vườn mùa đông cổ kính được cải tạo thành rạp chiếu bóng, cô bé thường được một đội xe hơi bọc thép và hàng chục vệ sĩ hộ tống.
Còn cô bé chạy lon ton phía trước.
Tối hôm đó, cha cô bé, bước ngay phía sau, đang nghe một nhân viên báo cáo.
- Chúng tôi đã tìm thấy ngôi nhà và người phụ nữ nuôi hắn. Tuy nhiên, không có dấu vết nào của hắn. Hình như hắn không còn sống ở đó từ lâu rồi.
- Tìm cho ra hắn.
Cô bé dỏng tai lên nghe. Họ đang nói về Chim đây.
Bấy lâu, Setanka cứ tưởng cha mình là thợ làm vườn. Ở những ngôi nhà miệt quê Sotchi, Krym hay khu vực Mátxcơva, ông thích chạm tay vào hoa lá cỏ cây. Cô trông thấy hàng ria mép thật đẹp của ông rung rinh trước làn hương hoa hồng.
Một năm sau ngày mẹ mất, khi bước vào ngôi trường vẫn được người ta gọi là “Trường điểm thứ hai mươi lăm” trên lối đi hướng ra phố Gorki, cô bé ngạc nhiên khi thấy trên tất cả các bức tường đều có chân dung cha mình. Chính lúc đó cô bé hiểu ra rằng cha mình không phải thợ làm vườn.
Ông là chủ nhân tối cao của một đất nước rộng lớn trải dài đến tận Mông Cổ và Thái Bình Dương.
Cô bé nghe thấy ông nhắc lại:
- Tìm cho ra hắn. Và để tôi yên.
Quay người lại, cô bé nhìn thấy ông lấy tay hẩy người đối thoại ra, như thể đuổi ruồi bu trên đĩa thịt vậy.
Ông cầm lấy tay cô bé.
- Sao rồi? Cô chủ nhỏ của cha thích đi xem phim chứ?
Nhưng Setanka không muốn trả lời. Cô đang nhìn một vì sao phía trên mái khu vườn mùa đông. Cô nghĩ đến chú Chim đang bay lượn ở một phương trời khác, bất cứ lúc nào cũng có thể bị trúng đạn.