← Quay lại trang sách

Chương 19 KẺ PHẢN BỘI TỔ ONG

Arkudah, hai tuần sau, tháng Sáu năm 1935

Những đám mây mỏng ẩm ướt đến vuốt ve khuôn mặt cậu.

Vango treo lơ lửng trong tấm lưới rộng bằng sợi bông trên đỉnh hòn đảo. Cậu trèo lên đó, buổi sáng, trước khi sương mù tan biến, nhìn ra xa, về phía ngôi nhà của Cô, chấm trắng bé tẹo giữa bao nhiêu chấm trắng khác trên đảo Salma.

Cậu biết Cô đã lấy lại được vẻ bề ngoài của một cuộc sống gần như bình thường sau khi hai gã đàn ông có vũ trang đột nhập vào nhà, một năm trước. Ông bác sĩ tốt bụng Basilio đã sửa sang lại bức tường ốp sành xốp màu xanh lam, còn Mazzetta đứng gác cùng chú lừa, cách đó vài bước chân.

Từ khi tìm lại được cuộc sống ở tu viện, tháng nào cũng thế, vào ngày đầu tiên, Vango lại mượn một chiếc thuyền mà không nói năng gì, buộc nó vào chân vách đá ở Pollara rồi đi thăm dò xung quanh ngôi nhà của Cô. Luôn trong tư thế phục kích, Mazzetta xuất hiện bất thình lình và suýt đập chết cậu.

- Cháu đây mà! Vango thì thầm.

Mazzetta càu nhàu dừng tay.

- Cậu đấy à?

Cuối cùng, khi nhận ra Vango, hắn đưa cậu vào hang mà không hề gây tiếng động để khỏi đánh thức sự chú ý của Cô.

Phải mất nhiều thời gian cô mới lấy lại được tinh thần sau vụ cướp phá nhà mình. Cô chắc chắn những kẻ tấn công ấy đang truy tìm Vango. Nhưng cô lại giải thích với bác sĩ rằng có lẽ bọn chúng tìm cách ăn cắp của nả để dành của cô vì chắc mẩm người phụ nữ độc thân đến từ nước ngoài này giấu hàng tá vàng trong đống đồ lót.

Sau vài ngày cày xới, những tên khách bỏ đi. Mazzetta bí mật theo chúng đến tận cảng Lipari để kiểm tra xem có đúng chúng đã rời khỏi quần đảo Eolie hay không.

- Để cháu nói chuyện với Cô đi, lúc này, chúng không còn ở đây nữa mà, Vango đề nghị Mazzetta.

Người đàn ông này lúc nào cũng làm cậu nhụt chí.

Không nói gì với cô hết, lánh đi, đừng gặp cô. Đó là cách duy nhất để bảo vệ cô. Nếu hai gã đàn ông đó trở lại, chúng sẵn sàng làm tất cả để bắt cô khai. Cô không nên biết gì hết. Vì thế Vango lại nén niềm khao khát muốn ào vào ngôi nhà trắng, nhào tới vòng tay của cô bảo mẫu.

Sáng nào cũng thế, treo mình trên tấm lưới, đầu lẫn trong đám mây mù, cậu bồi hồi ngắm nhìn hòn đảo Salina. Rồi sau đó cậu mới lần từng mắt lưới xuống đất làm công việc của mình.

Vango bắt đầu tháo dây ra khỏi cột. Năm tấm lưới khổng lồ này đêm nào cũng được chăng lên đỉnh hòn đảo tu viện. Đây là sáng kiến của Zefiro. Bí mật về những khu vườn quyến rũ của ông.

Một hôm, hồi mới phát hiện ra hòn đảo, Vango đã hỏi Zefiro lúc trông thấy những cây chanh um tùm.

- Nguồn nước cho tất cả những cây này ở đâu ra, thưa cha?

Zefiro giơ ngón tay lên trời, thoạt tiên, Vango tin lời giải thích khó hiểu, trừu tượng đó. Nhưng rồi cậu nhanh chóng hiểu rằng Zefiro chỉ đám mây thôi.

Không có nguồn nước trên đảo.

Nước từ những đám mây hằng đêm bám trên đỉnh, thấm chầm chậm vào lớp sợi bông của tấm lưới và chảy đến tận những ống dẫn cung cấp cho các bể ngầm.

Hai nghìn lít nước, mỗi tấm lưới, mỗi ngày. Những trận mưa mùa đông và mùa thu, được hứng cẩn thận, bổ sung thêm cho những bể chứa nước tinh khiết khổng lồ.

Có lẽ, trên cái sa mạc này, nước có đủ cho một đàn cả trăm con bò cái uống thỏa thích.

Vì vậy, khi ra khỏi nhà thờ, mỗi buổi sáng, nhiệm vụ đầu tiên của Vango là hạ những tấm lưới từ trên đỉnh xuống như người ta vẫn hạ buồm của một con thuyền.

Sau mười hai tháng, Vango đã mang dáng dấp một tu sĩ vô hình. Tất cả đều ngưỡng mộ khả năng thích nghi quá nhanh của cậu.

Cậu nghiên cứu và cầu kinh như họ. Cậu thích ứng với trật tự tồn tại này, tuân theo từng bước lịch trình mỗi ngày của các tu sĩ.

Trong nhà thờ, giọng cậu hòa cùng giọng mọi người hát thánh ca.

Cậu không nề hà khi phải lao động.

“Bởi lẽ, chỉ khi sống bằng đôi bàn tay, người ta mới thực sự là tu sĩ”, thầy dòng Marco nêu ra nội quy tu viện.

Cậu nỗ lực bắt kịp nhịp độ này.

Từ buổi đầu thời Trung cổ đến nay, bao thế kỷ đã gọt giũa và hoàn chỉnh sự cân bằng này ở các tu viện, đến nỗi người ta có cảm giác trước mặt mình là vẻ đẹp của một hòn đá cuội nghìn năm dưới sóng biển.

Vango yêu biết mấy cảnh bình yên mà mọi người vẫn tưởng cậu đang được hưởng.

Nhưng cậu biết cuộc đời mình là một ảo ảnh. Mặc cho đã nỗ lực hết mình, cậu vẫn không thoát khỏi cơn bão. Những bí ẩn của quá khứ khiến cậu trăn trở từ sáng đến tối, rồi lại từ tối đến sáng. Cậu từ đâu đến? Ai đứng đằng sau cậu?

Cậu không ngủ, cả đêm quỳ gối trên hòn đá trong phòng. Cậu đang cố hiểu. Lời cầu nguyện của cậu là một tiếng kêu âm thầm.

Vậy mà suốt mười năm trời, cậu mơ ước tới sự tồn tại này. Ở tu viện tại Paris, mặc dù bị những bức tường giam hãm, mỗi ngày qua đi, cậu vẫn công nhận sự lựa chọn của mình không chỉ là giấc mơ trẻ con. Mặc cho thái độ ngập ngừng của Zefiro, cậu vẫn biết con đường ấy là của cậu.

Cậu muốn một cuộc sống không giới hạn. Đối với cậu, cuộc sống đó đang diễn ra ở đây.

Quyết định đến với cậu rất đỗi đơn giản khi cậu mười hai tuổi, vào một ngày mưa. Như thể người ta trao cậu vật gì đó rồi nói: “Trông nom nó nhé, tôi sẽ trở lại.”

Vậy mà lúc này cậu chỉ có một mình, vật đó trên tay, cuộc sống vẫn xoay vần, cùng sự bí ẩn và nỗi sợ hãi. Vật đó, cậu thậm chí chẳng thể bỏ rơi, chôn cất, bỏ đi hoặc chuyển cho người mới đến. Bởi vì trong mắt cậu, nó quan trọng.

Và rồi, có Ethel, một khoảng trời khác luôn ở bên cậu.

Nhiều đêm, hoang mang giữa những khao khát yêu thương và sợ hãi, cậu đã lao mình từ vách đá xuống, đằng sau tu viện. Vango không còn sợ biển nữa. Cậu lao xuống như một chú chim. Cậu ngoi lên mặt nước, ánh trăng phủ màu trắng bạc lên làn da cậu.

Vango đi xuống phía tu viện. Đến gần khu vườn, một mùi hương thực sự tươi mát đang phảng phất. Vậy mà đây đang là những tháng nóng nhất của năm. Cậu vào vườn rau nhô ra phía trên tu viện, bên sườn Nam. Nước chảy trong các rãnh bằng sành, gắn trên bức tường nhỏ cao một mét. Mùi dưa bở mơn man trên mặt đất, nứt toác dưới ánh nắng mặt trời. Đám bìm bìm trắng thắt nơ trên bờ rào thấp bé bằng cành dẻ. Người ta mong chờ được nhìn thấy Adam và Eva xuất hiện trong khu vườn địa đàng đó. Nhưng sáng hôm ấy, người đàn ông đầu tiên của trái đất lại mặc một chiếc tạp dề đen chật ních và anh ta đang chọn rau xà lách.

Đó là Pippo Troisi.

- À, Vango, đúng là tai họa! Cậu mang giúp tôi vào bếp với. Lũ thỏ của cha đã phá nát đám xà lách trong đêm. Đúng là tai họa, Vango ạ. Chúng đào cả hầm nữa! Không phải lũ gà mái của tôi làm đâu. Có lẽ Zefiro nên quẳng lũ thỏ ấy ra biển mới phải…

Vì mọi người đều có thể nghe thấy anh ta nói nên Pippo Troisi không định im lặng. Xung quanh anh ta, các tu sĩ càng im lặng, anh ta càng huyên thuyên. Những cuộc độc thoại của anh ta khiến mọi người thấy vui vui. Vì thế, không tính đến lũ thỏ tội nghiệp, anh ta có đến bốn mươi đôi tai chỉ dành để lắng nghe anh ta, điều mơ ước của bất kỳ kẻ ba hoa khoác lác nào.

Vango nhận ra khẩu súng săn bên cạnh Pippo.

- Hơn nữa, ai lại để thỏ trên đảo cơ chứ. Đó là vấn đề nguyên tắc. Khi nào thì cái ông Zefiro ấy mới hiểu ra chứ? Cậu sẽ thấy, nếu bọn chúng còn mon men đến đám xà lách của tôi, tôi sẽ bắn chúng rồi đem nấu ra gu cho mà xem. Trực tiếp và không ngừng.

Vango cúi xuống nhặt sọt xà lách.

- Hơn nữa, Pippo tiếp tục, cha đang gặp trục trặc hay sao ấy… Sáng nay, có người đến đây đấy! Có người đến đây! Nếu ai cũng được mời đến đây thì tu viện này không còn gì là vô hình nữa rồi! Người ta có thể nói những gì người ta muốn, nhưng nếu bắt đầu bằng một vị khách thì kết thúc sẽ bằng những chuyến tàu hành hương. Trực tiếp và không ngừng. Tôi vẫn nói đấy thôi: cũng như lũ thỏ, đó không phải là vô hình, mà là sự đột nhập!

Anh ta im lặng để mọi người còn nhấm nháp câu châm ngôn.

Vango bỏ đi. Cậu nghe thấy Pippo đang sửa lại những khóm xà lách.

- Vô hình, vô hình… Không, nhưng mà…

Điều buồn cười nhất đó là kẻ duy nhất thực sự đột nhập hòn đảo này chính là Pippo Troisi.

Vango chỉ còn phải đến vườn cây ăn quả, lấy thêm vài loại trái cây bỏ vào sọt. Rồi cậu đến nhà ăn làm bếp cùng Marco, thầy dòng nấu bếp.

Mỗi tuần, cậu làm việc hai ngày trong bếp và tất cả tu sĩ đều chờ đợi những ngày ấy như chờ đón Lễ Phục sinh vậy. Năng khiếu và tay nghề của Vango, được Cô truyền lại, được mài giũa suốt một năm cậu làm việc trên khí cầu, rồi trong thời gian ở tu viện.

Ở Paris, trước đây, có lần cậu còn chuẩn bị bữa tối ngày thứ Ba ăn thịt cho ba vị giám mục. Cậu đã trở thành một đầu bếp thực thụ.

Vào những ngày Vango nấu nướng, buổi sáng, các vị tu sĩ cứ thơ thẩn đến lạ lùng, họ quanh quẩn gần bếp đọc những cuốn sách về đạo, và hít căng lồng ngực. Trong buổi lễ giữa ngày, mũi họ phập phồng như cánh bướm. Lúc mười hai giờ mười lăm trưa, Zefiro ban phép lành nhanh hơn bao giờ hết, họ cùng ngồi xuống, khăn ăn đeo trước ngực, má ửng hồng và tĩnh tâm cắn ngập món bánh anh đào phủ nấm tổ ong hay món táo nhồi, tùy theo mùa.

Khi rửa bát, họ vẫn còn muốn cạo cháy trong nồi.

Trong bốn mươi ngày ăn chay, thời kỳ nhịn đói và kiêng khem, Vango không vào bếp.

Thầy dòng Marco không hề cảm thấy ganh tị. Anh ta thích cảm giác được chiêm ngưỡng. Anh ta ngồi trên chiếc ghế bành gần Vango, kính trên trán và cứ nhìn cậu, như những nhạc sĩ vĩ đại nhất thành phố Vienne, hai thế kỷ trước, ngồi sau cậu bé Mozart nhìn ngắm đôi bàn tay cậu lướt trên phím đàn dương cầm.

Vango vào vườn cây ăn quả. Những cái cây còn trẻ khỏe nhưng đã còng lưng vì đám hoa trái. Các tu sĩ không thể theo kịp. Tất cả những món nước hầm thịt, hoa quả nghiền, mứt quả, mứt quả nghiền, bánh kem mứt, kẹo thơm, mứt các loại, tất cả hũ lọ, kẹo hay rượu đều không đủ để tiêu thụ hết trái cây thu hoạch.

Hai lần rồi, Vango bí mật bỏ lại một giỏ đầy trước ngưỡng cửa nhà Cô. Ngày hôm sau, dõi về nơi ấy, cậu cố gắng ngửi, qua eo biển chia cách Cô và cậu, mùi si rô cô om cùng húng tây.

Vango bắt đầu nhặt anh đào. Chúng lọt qua sọt, vì thế cậu tìm những chiếc lá to rộng để lót đáy sọt. Nhưng khi lại gần cụm cây vả, cậu nghe thấy tiếng nói.

Zefiro đang ở gần những tổ ong của ông, sau cái cây. Vango nhìn thấy ông qua đám cành lá. Ông đang nói chuyện. Giọng ông bị chiếc mặt nạ thợ ong ông đang đeo cản bớt. Đó là một chiếc mũ có lưới sắt bảo vệ ông trước lũ ong. Một người khác đang đứng với ông, cũng được trang bị như thế nhưng vì ông ta thấp hơn nên tấm lưới sắt sệ xuống ngực.

- Công lý cần ông lần cuối cùng này thôi. Khi nào hắn bị bỏ tù, chúng tôi sẽ để ông yên.

Vango nằm xuống mặt cỏ. Cậu nhận ra cái giọng đang nói tiếng Pháp này. Dường như không thể tin nổi.

- Hãy tỏ ra biết điều, người đàn ông nhỏ thó vẫn khuyên nhủ.

- Ông biết tôi không thể làm gì khác ngoài việc tuân theo mệnh lệnh, Zefiro nói. Ông ép tôi bằng bằng cái thói thô lỗ của ông…

- Đừng cáu, đức cha, người đàn ông bình tĩnh trả lời.

- Lần trước, ở Paris, ông thậm chí còn chẳng tóm được hắn.

Cảnh sát trưởng Boulard không trả lời. Mồ hôi nhễ nhại dưới lớp mặt nạ của ông ta. Bộ quần áo đi đường quá dày so với thời tiết nơi này.

- Ông yêu cầu người khác đi, Zefiro nói.

- Không ai biết hắn như ông cả. Tôi xin hứa mạng sống của ông sẽ không gặp nguy hiểm gì.

Zefiro phát cáu.

- Tôi đang đánh liều nhiều thứ còn hơn cả mạng sống của mình đấy, ông quát. Tôi đâu có thèm bận tâm đến mạng sống của mình.

Boulard biết ông không nói dối.

- Thì sao? cảnh sát trưởng hỏi. Vậy thì nhất trí nhé?

Zefiro tháo mặt nạ ra và lũ ong bắt đầu nhảy múa quanh khuôn mặt ông chủ. Boulard lùi một bước.

- Ông là một kẻ thô thiển, cảnh sát trưởng ạ, Zefiro nói.

- Đồng ý hả?

Lần này, Vango nghe thấy câu trả lời rõ ràng và quả quyết.

- Đồng ý.

- Vậy thì, ông sẽ có mọi chỉ dẫn, Boulard vừa nói vừa bước đi. Tôi đi đây. Tôi sẽ gặp ông ở đó. Ông hãy nhớ là trước cuối tháng này nhé. Chúc may mắn, đức cha.

Zefiro còn lại một mình.

Ông ngồi thụp xuống gần tổ ong, nhìn những con ong thợ bay lên bắt hơi ở cửa lỗ rồi mới đi làm công việc của chúng, mỗi con một hướng. Những con khác trở về, đôi chút loạng choạng, như những người công nhân làm ca đêm kết thúc ngày làm việc khi những người khác bắt đầu.

Zefiro có lẽ đã ở lại đó suy nghĩ hàng giờ liền, nhưng khi ngước mắt lên, ông phát hiện ra một nòng súng đang chĩa về phía mình.

- Con làm gì đấy, Vango?

- Cấm động đậy. Tôi sẽ không thương hại ông đâu.

- Hạ súng xuống.

- Ông biết gì về tôi? Hãy nói tôi nghe tất cả những gì ông biết.

- Con đang nói gì đấy?

Trong khi chờ câu trả lời của Zefiro, Vango chạy về phía vườn rau. Pippo Troisi quay lưng lại phía cậu. Anh ta cúi gập người, mũi gần như cắm đất. Anh ta đang nhổ cỏ dại quanh đám actisô và tiếp tục lẩm bẩm:

- Vô hình, vô hình… Vậy còn cái đít mình, nó có vô hình không nhỉ?

Thật sự mà nói, giữa mấy khóm rau diếp và cải bắp, mọi người chỉ trông thấy mỗi anh ta.

Vango nhặt khẩu súng lên mà không bị anh ta phát hiện rồi quay trở lại vườn cây ăn quả.

Cậu kiểm tra đạn trước khi chĩa vũ khí về phía Zefiro.

- Nói cho tôi những gì ông biết rồi tôi sẽ biến khỏi nơi này.

- Ta chẳng biết gì về con cả, vị linh mục nói. Ta muốn giúp con, nhưng ta không biết gì hết. Con có bao giờ kể gì cho ta nghe đâu.

- Ông nói dối. Cảnh sát trưởng nói ông biết tất cả về cuộc đời tôi.

Zefiro nhỏm dậy. Vango lên cò súng.

- Không được động đậy, cậu nói.

- Con ở đó lúc ta nói chuyện với cảnh sát trưởng à?

Zefiro tiến về phía cậu bé, cậu không lùi bước.

- Con nhầm rồi, Vango, con không hiểu rõ.

- Tôi báo trước là tôi sẽ bắn đấy.

- Nếu con nghe rõ, con phải biết lúc này ta chẳng còn thiết đến mạng sống của mình nữa.

- Tôi nói ông đừng có động đậy, cậu ra lệnh lần nữa.

- Nhưng ta lại quan tâm đến mạng sống của con, Vango. Vậy nên hãy hạ vũ khí xuống, con không biết cuộc đời một kẻ giết người sẽ như thế nào đâu.

- Có chứ. Tôi biết.

Họ nhìn nhau chằm chằm.

- Hạ vũ khí xuống.

- Tôi đang bảo vệ cuộc đời tôi, Vango nói, cậu lên cò khẩu súng săn lần thứ hai.

Người ta nghe thấy tiếng vo ve đầy lo lắng của lũ ong.

- Không được bước về phía tôi, Vango lo lắng.

Ngón tay cậu run rẩy trên cò súng.

Chưa đầy một giây, khẩu súng đã đổi chủ.

Cánh tay Zefiro quặp lấy nòng súng, giật mạnh và chĩa nó sang hướng khác. Đồng thời, một cú xoạc chân rộng khiến Vango ngã vật xuống đất.